Ngài Thiên Thai Trí Giả giảng về Lục Tức Phật (6 kiểu “làm” Phật)
Chúng con xin cung kính trích trong
Ấn Quang Văn Sao Tam Biên quyển 4, phần 14: Pháp Hội Hộ Quốc Tức Tai
5. Ngày thứ năm: Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức của tông Thiên Thai, kiêm giảng về ăn chay, phóng sanh
- Lý Tức Phật là hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh. Tuy trái phản Chánh Giác, xuôi theo trần lao, luân hồi trong Tam Ðồ, Lục Ðạo, nhưng công đức của Phật Tánh vẫn tự đầy đủ, cho nên gọi là Lý Tức Phật, coi Lý Thể của tâm chính là Phật vậy. Vô Cơ Tử làm bài tụng rằng:
Ðộng, tịnh lý toàn thị
Hành, tàng sự tận phi,
Minh minh tùy vật khứ,
Yểu yểu bất tri quy.
(Ðộng, tịnh toàn là lý,
Hành, tàng chẳng trúng gì,
Tối tăm theo đuổi vật,
Mờ mịt chẳng biết về)
Do hết thảy chúng sanh chưa nghe Phật pháp, chẳng biết tu trì, nhưng nhất niệm tâm thể vẫn hoàn toàn giống như Phật. Vì thế mới bảo là: “Ðộng, tịnh toàn là lý”. Do mê lầm tự tâm, tạo các sự nghiệp nên mới bảo “Hành, tàng chẳng trúng gì” (Hành là hoạt động, tàng là ở yên), vì mọi việc làm đều chẳng tương ứng Phật Tánh. Suốt ngày, suốt năm, tối tăm, mờ mịt ruổi theo vật dục (lòng ham muốn vật chất) phiền não, vọng tưởng, từ sống đến chết chẳng hề biết hồi quang phản chiếu (xoay trở lại xét soi cái tâm), nên bảo là: “Tối tăm theo đuổi vật, mờ mịt chẳng biết về”. - Danh Tự Tức Phật là hoặc do từ thiện tri thức, hoặc từ kinh điển mà biết rằng tâm vốn sẵn đủ Phật Tánh tịch – chiếu viên dung, bất sanh, bất diệt. Thông suốt hiểu rõ nơi danh tự, biết hết thảy pháp đều là Phật pháp, hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật. Ðó gọi là “nghe danh tự Phật tánh liền hiểu rõ, thấu suốt Phật pháp”. Kệ tụng rằng
Phương thính vô sanh khúc,
Thỉ văn bất tử ca,
Kim tri đương thể thị
Phiên hận tự tha đà.
(Vừa nghe khúc vô sanh,
Mới nghe bài bất tử,
Liền biết ngay đương thể,
Tiếc đã trót lần khân)
[Ý nói]: Từ trước đến nay chỉ biết sanh tử luân hồi không lúc nào kết thúc; nay biết Phật Tánh chân thường, bất sanh, bất diệt, đã biết đương thể (ngay nơi bản thể) chính là cái nhân chân chánh để thành Phật liền gấp gáp tu trì, còn hận từ trước đến nay mình bỏ uổng quang âm (thời gian) đến nỗi chưa thể thật sự chứng đắc! - Quán Hạnh Tức Phật là nương theo Giáo tu Quán, tức là địa vị Ngoại Phàm Ngũ Phẩm trong Viên Giáo. Ngũ Phẩm là:
a. Tùy Hỷ Phẩm: Nghe pháp Thật Tướng, tin hiểu, tùy hỷ.
b. Ðọc Tụng Phẩm: Đọc tụng kinh Pháp Hoa và các kinh điển Ðại Thừa để hỗ trợ quán hạnh và sự hiểu biết.
c. Giảng Thuyết Phẩm: Tự nói những điều mình tự chứng hiểu (nội giải) để chỉ dạy, dắt dẫn làm lợi cho người khác.
c. Kiêm Hành Lục Ðộ Phẩm: Kiêm tu Lục Ðộ để giúp cho quán tâm.
e. Chánh Hành Lục Ðộ Phẩm: Lấy việc hành Lục Ðộ làm hạnh chánh yếu, tự mình hành, dạy người khác hành, Lý – Sự đầy đủ. Quán Hạnh càng thêm thù thắng. Kệ tụng rằng:
Niệm niệm chiếu thường lý
Tâm tâm tức huyễn trần
Biến quán chư pháp tánh
Vô giả diệc vô chân.
(Niệm niệm chiếu thường lý,
Tâm tâm bặt huyễn trần
Quán khắp các pháp tánh,
Không giả cũng không chân)
Ðã viên ngộ (ngộ trọn vẹn) Phật tánh, nương theo Giáo tu Quán, đối trị phiền não tập khí nên bảo là: “Niệm niệm chiếu thường lý, tâm tâm bặt huyễn trần”. Hiểu rõ một sắc, một hương không thứ gì chẳng phải là Trung Ðạo; hết thảy các pháp không pháp nào chẳng phải là Phật pháp, hết thảy chúng sanh đều sẽ thành Phật, cho nên nói: “Quán khắp các pháp tánh, không giả cũng không chân”. - Tương Tự Tức Phật là tương tự giải phát (gần giống như đã giải ngộ, phát khởi), tức là địa vị Nội Phàm thuộc Thập Tín trong Viên Giáo. Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc; Bát, Cửu, Thập, Tín đoạn Trần Sa Hoặc. Kệ tụng rằng:
Tứ Trụ tuy tiên thoát,
Lục trần vị tận không
Nhãn trung do hữu ế
Không lý kiến hoa hồng.
(Trước đã thoát Tứ Trụ,
Nhưng sáu trần chửa không,
Mắt vẫn còn màng mộng
Thấy hoa đốm trên không)
Tứ Trụ là:
a. Kiến Nhất Thiết Trụ Ðịa chính là Kiến Hoặc trong Tam Giới.
b. Dục Ái Trụ Ðịa chính là Tư Hoặc trong Dục Giới.
c. Sắc Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Sắc Giới.
d. Hữu Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Vô Sắc Giới.
Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc nên bảo là: “Trước đã thoát Tứ Trụ”. Nhưng do tập khí sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp chưa hết, nên bảo là: “Nhưng sáu trần chửa không”. Ở đây chỉ luận về địa vị Thất Tín, chứ Bát, Cửu, Thập Tín đã phá được Trần Sa Hoặc nên tập khí đã hoàn toàn rỗng không. Tập khí là những dư âm của các Chánh Hoặc (các phiền não chánh yếu). Giống như cái mâm đựng thịt dù đã rửa sạch, vẫn còn có mùi hôi; bình đựng rượu tuy đã súc kỹ vẫn còn có mùi rượu. “Mắt vẫn còn màng mộng, thấy hoa đốm trên không” là: Vì chưa phá Vô Minh nên chưa thể thấy được bản thể của Chân Không Pháp Giới. - Phần Chứng Tức Phật là ở [giai đoạn] Thập Tín hậu tâm , phá một phần Vô Minh, chứng một phần Tam Ðức, liền bước vào Sơ Trụ, chứng Pháp Thân, là Pháp Thân Đại Sĩ. Từ Sơ Trụ đến Đẳng Giác, tổng cộng là bốn mươi mốt địa vị, mỗi địa vị đều phá được một phần vô minh, chứng một phần Tam Đức, nên gọi là Phần Chứng Tức Phật. Do vô minh chia làm bốn mươi hai phẩm, Sơ Trụ phá một phần, cho đến Thập Trụ phá được mười phần. Trải qua [các địa vị] Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa cho đến Ðẳng Giác [lần lượt] phá được bốn mươi mốt phần. Bậc Sơ Trụ có thể hiện thân làm Phật trong thế giới không có Phật, lại còn tùy loại hiện thân độ thoát chúng sanh. Thần thông đạo lực của bậc này chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ là càng lên mỗi địa vị trên càng thù thắng hơn nữa, nhất là địa vị thứ bốn mươi mốt là Ðẳng Giác Bồ Tát ư? Kệ tụng rằng:
Hoát nhĩ tâm khai ngộ
Trạm nhiên nhất thiết thông
Cùng nguyên do vị tận
Thường kiến nguyệt mông lung.
(Ðột nhiên tâm khai ngộ,
Lặng trong hết thảy thông,
Vẫn chưa thông tận gốc
Trăng thường thấy mông lung)
“Ðột nhiên tâm khai ngộ, lặng trong hết thảy thông” là nói về cảnh tượng phá được vô minh đôi phần, chứng ngộ đôi phần. “Vẫn chưa thông tận gốc, trăng thường thấy mông lung” ý nói còn có mây vô minh [che lấp] nên chưa thể thấy thấu tột ánh sáng của vần trăng thiên chân trong tự tánh. - Cứu Cánh Tức Phật là từ Ðẳng Giác lại phá một phần Vô Minh nên [thấu đạt] tột cùng Chân Tánh, hết sạch Hoặc, phước huệ viên mãn, chứng ngộ triệt để Chân Như Phật Tánh sẵn có ngay trong tâm mình, đạt địa vị Diệu Giác, thành đạo Vô Thượng Bồ Ðề. Kệ tụng rằng:
Tùng lai chân thị vọng
Kim nhật vọng giai chân
Ðản phục bản thời tánh
Cánh vô nhất pháp tân.
(Từ trước, chân là vọng
Hôm nay, vọng đều chân,
Chỉ khôi phục bản tánh
Có pháp nào mới đâu?)
“Từ trước chân là vọng” là trước khi ngộ thì cũng chỉ từ “Ngũ Uẩn đều là không” này mà lầm sanh chấp trước [khiến cho] Sắc Pháp, Tâm Pháp nương theo nhau thành lập, khổ ách theo đó sanh ra. Sau khi đã ngộ rồi, tuy vẫn chỉ là Ngũ Uẩn này, nhưng toàn thể đều là một Chân Như, trọn chẳng có tướng Sắc, Tâm, Ngũ Uẩn để được. Vì thế, bảo là: “Từ trước chân là vọng. Hôm nay, vọng đều chân”. Nhưng cái Chân được chứng ấy nào phải là điều gì mới đạt được, chẳng qua là phục hồi lại Chân Như Phật Tánh sẵn có đó thôi, vì thế bảo: “Chỉ khôi phục bản tánh, có pháp nào mới đâu?”