Site Overlay

Di tích Linh Nham Sơn Tự ở Tô Châu

Di tích Linh Nham Sơn Tự ở Tô Châu

Chúng con xin cung kính trích trong

Ấn Quang Văn Sao Tam Biên, quyển 4, phần 15

Pháp ngữ khai thị khi từ Thượng Hải về đến Linh Nham[1] (giảng vào buổi chiều ngày 17 tháng 10 năm Dân Quốc 25 (1936))

Linh Nham chính là cuộc đất thánh đạo tràng trời tạo đất dựng. Ngô vương Phù Sai thiếu đức, chẳng tuân theo đạo “chánh tâm thành ý, siêng năng chăm lo việc nước, yêu dân” của các vị tổ tiên là Thái Vương, Thái Bá, Trọng Ung[2], chỉ chuộng dâm lạc, bèn dựng cung Quán Oa[3] nơi này, mắc tội với trời đất và tổ tông cũng lớn lắm! Cung điện xây xong được mấy năm, nước mất, thân chết, chẳng đáng buồn ư? Đến đời Tấn, Tư Không[4] Lục Ngoạn xây nhà trên đó, về sau nghe Phật pháp bèn biến nhà thành chùa ; đấy chính là duyên khởi khai sơn đầu tiên của Linh Nham vậy. Đến đời Lương, do ngài Bảo Chí Công[5] cầu đảo cho Vũ Đế, chùa lại được trùng hưng. Trí Tích Bồ Tát[6] nhiều lượt hiện thân tượng vẽ, hiển thị đạo nhiệm mầu, dẫn dắt những kẻ tục còn đang mê.

Đến đời Đường, em trai tể tướng Lục Tượng Tiên (người Tô Châu), mắc bệnh ở kinh đô, ngự y bó tay. Một vị Tăng xin gặp, nói có thể trị được bệnh, bảo lấy một chén nước sạch, hướng vào đó niệm chú mấy câu, ngậm nước phun ra, [em trai tể tướng Lục Tượng Tiên] lập tức khỏi hẳn bệnh. Đem mọi vật đáp tạ Sư đều không nhận, nói: “Tôi tên là Trí Tích. Sau này ông trở về Tô Châu, hãy nên đến núi Linh Nham gặp tôi”. Về sau, người ấy đến núi hỏi thăm, không có ai tên là Trí Tích cả, tâm rất buồn bã, xem khắp các điện đường, thấy hình vẽ trên vách chính là vị Tăng đã trị bệnh cho mình. Vì thế, đặc biệt dựng điện Trí Tích, chùa lại được hưng khởi. Từ đời Tấn đến đời Đường, [danh tánh] tất cả các vị Trụ Trì đều chẳng thể tra cứu được.

Đến đời Tống, phàm những ai là trụ trì của núi này đều là bậc đại lão lỗi lạc trong Tông môn; đạo tràng Linh Nham bèn trở thành đứng đầu xứ Giang Tô. Do đất thiêng nên mới có người tài giỏi, do người tài giỏi nên đất mới thiêng. Cuối đời Minh, đầu đời Thanh, chùa lại được hưng khởi mạnh mẽ, hai đời vua Thánh Tổ (Khang Hy) và Cao Tông (Càn Long), mấy lần tuần du phương Nam đều nghỉ lại tại hành cung[7] trên núi. Trong cơn loạn Hồng Dương[8], chùa bị đốt cháy gần như hết sạch. Về sau, đại sư Niệm Thành trụ trong lòng tháp[9], nhằm đúng khi ông Bành Cung Bảo Ngọc Lân đi chơi núi, gặp gỡ, bèn kiểm sổ bộ, đòi lại hơn sáu trăm mẫu ruộng đất cho chùa, dựng mười mấy gian điện đường, nhà cửa.

Đến năm Tuyên Thống thứ ba (1911), Trụ Trì là Đạo Minh vốn là quân nhân xuất gia, tánh tình thô bạo, do mất y [ca-sa] mà đánh đập người khác quá đáng, người dưới núi vùng lên đánh đuổi, Đạo Minh bỏ trốn. Đồ đạc trong chùa đều bị khuân sạch, trở thành một ngôi chùa không ai ở. Đây chính là cơ hội để đạo tràng Linh Nham được phục hưng. Nếu không, giả như ông ta tận lực vâng giữ Thanh Quy, chắc chắn chùa chẳng thể trở thành đạo tràng Tịnh Nghiệp duy nhất trong cả nước được! Họa – phước dựa dẫm lẫn nhau, chỉ do con người khéo dụng tâm hay không mà thôi!

Bắt nguồn từ việc vị thân sĩ vùng Mộc Độc là ông Nghiêm Lương Xán cậy nhà sư chùa Bảo Tạng là Minh Hú thỉnh thầy của vị sư ấy là hòa thượng Chân Đạt tiếp nhận trông nom chùa. Ngài Chân Đạt bèn phái người đến tiếp nhận, lại sai Minh Hú đứng trông nom tạm thời, ý muốn có người thích hợp sẽ biến chùa thành đạo tràng thập phương chuyên tu Tịnh Độ. Năm Dân Quốc mười lăm (1926), pháp sư Giới Trần[10] đến đây, bèn giao cho Ngài làm Trụ Trì. Tăng chúng thường trụ lấy hai mươi người làm hạn, trừ số tiền huê lợi mấy trăm đồng ra, hễ [chi tiêu] không đủ thì ngài Chân Đạt bèn bù cho. Chẳng quyên mộ, chẳng làm pháp hội, chẳng truyền pháp, chẳng thâu đồ đệ, chẳng giảng kinh, chẳng truyền giới, chẳng làm chuyện kinh sám thù tạc[11], chuyên nhất niệm Phật. Khóa tụng mỗi ngày đều giống như trong khi tiến hành Phật thất thông thường[12]. Trụ Trì bất luận thuộc tông Thiên Thai, Hiền Thủ, Tào Động, hay Lâm Tế đều được, chỉ quan tâm đến thứ tự, không quan tâm đến thế hệ truyền thừa[13], chỉ cần là người giới hạnh tinh ròng, [giữ giới] nghiêm ngặt, thông hiểu giáo lý, tin sâu Tịnh Độ là được. Nếu những mặt khác đều khá nhưng chẳng chuyên chú Tịnh Độ thì quyết chẳng được mời [làm Trụ Trì]. Từ đấy trở đi, người đến ở ngày càng nhiều, phòng ốc chẳng đủ. Trong năm Dân Quốc 21 (1932), trước hết dựng Niệm Phật Đường, bốn năm năm qua, liên tục xây cất. Nay điện Đại Hùng đã khánh thành, chỉ còn thiếu điện Thiên Vương chưa xây, nhưng cũng chẳng quan trọng chi lắm.

Sáng nay, từ đất Hỗ trở về đây, nhưng các vị như cư sĩ Quý Thánh Nhất v.v… ở thành Tô Châu đã đến trước rồi. Lên núi, trông thấy điện vũ nguy nga, Tăng chúng thanh tịnh, hòa thuận, khôn ngăn hoan hỷ tột bậc. Nhân đó, được Giám Viện là đại sư Diệu Chân mời vào trong pháp đường, vì các vị diễn nói pháp yếu[14] Tịnh Độ. Nếu chỉ nói pháp yếu, chẳng nêu lai lịch và các nhân duyên hiện thời thì kẻ ở người tới đều chẳng biết duyên do, rất có thể sẽ coi đạo tràng này giống hệt như các đạo tràng khác! Đối với người thông suốt rộng lớn thì không có gì là chẳng được, nhưng với kẻ ngu độn như Quang, lại muốn thoát khỏi ba cõi ngay trong đời này, lên chín phẩm sen cõi kia thì chưa biết hướng về đâu. Do vậy, trước hết phải thuật bày duyên khởi vậy.

Chúng con xin cung kính trích trong

Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, phần Ký, thư 3

Bi ký về việc chùa Linh Nham vĩnh viễn trở thành đạo tràng thập phương chuyên tu Tịnh Độ và công đức xây dựng lần này (1932)

Có được cuộc đất tối thắng thì mới hoằng dương được đạo tối thắng. Tạo dựng chuyện phi thường ắt phải đợi người phi thường. Tuy bỉ cực thái lai[15] thuộc về vận trời, nhưng sửa cũ dựng mới thật sự phải nhờ vào con người thực hiện. Núi Linh Nham là cuộc đất thánh đạo tràng trời tạo đất dựng. Ngô Vương Phù Sai dựng cung Quán Oa nơi đây, chỉ chuộng dâm lạc, làm ô nhục núi này quá sức! Vì thế, xây xong cung điện chưa được bao lâu liền bị nước tan, mạng mất, đúng là nhân quả phù hợp nhau. Nếu ông ta lập đức thi thố lòng nhân noi theo phong cách cai trị tốt đẹp của tổ tiên là Thái Vương, Thái Bá, Trọng Ung đã lưu lại, ắt sẽ ngang ngửa với Văn Vương trên linh đài[16], lúc sống được hưởng phước vòi vọi, khi mất để lại thanh danh vang dội, đâu đến nỗi quỳ gối xin được sống cũng chẳng được, rốt cuộc che mặt tự vẫn[17], gây nhục lây cho tổ tiên ư? Do vậy biết kẻ không có đức cao trội mà có cuộc đất thù thắng, đâm ra lại là cái gốc họa! Nguyện những bậc quân tử đời sau đều lấy Phù Sai làm gương thì lợi ích ấy chẳng thể nào diễn tả được!

Đời Tấn, Tư Không Lục Ngoạn sống tại núi này, do nghe Phật pháp bèn biến nhà thành chùa, đấy chính là khởi đầu của đạo tràng Linh Nham vậy. Đến đời Lương lại càng được phát triển. Đến đời Đường lại càng thêm trùng hưng. Trong khoảng thời gian ấy, phần nhiều là do hình vẽ của Trí Tích Bồ Tát hiện thân, khơi gợi lòng tin tưởng, ngưỡng mộ của mọi người, khiến cho đạo tràng Linh Nham đứng đầu đất Ngô. Cung khuyết dâm lạc xưa kia nay trở thành cuộc đất thánh đạo tràng, cho thấy các pháp tùy duyên, hễ có người tài giỏi ắt cuộc đất sẽ linh ứng! Những vị Trụ Trì trong đời Tấn, đời Đường chẳng thể tra cứu được. Từ đời Tống cho đến đời Thanh, ngôi Trụ Trì đều do Giáo hải lão long, Thiền quật cự sư[18], đức hạnh đáng làm bậc thầy gương mẫu cho cả trời lẫn người, đạo tiếp nối được huệ mạng của Phật, của Tổ. Đầu đời Thanh, sư Hoằng Trữ trụ nơi đây, mở mang giảng tòa rộng lớn, điện đường, liêu xá mới mẻ rạng ngời. Thánh Tổ, Cao Tông (Khang Hy, Càn Long) tuần du phương Nam đều nghỉ lại nơi đây, pháp môn hưng thịnh chói ngời xưa nay.

Năm Hàm Phong thứ 10 (1860), gặp cơn binh hỏa[19], cháy tiêu gần hết. Trong thời Đồng Trị, vị Tăng tên Niệm Thành được ông Bành Cung Bảo Ngọc Lân hộ trì những mong sẽ dần dần được phục hưng. Năm Quang Tự 18 (1892), vị Tăng tên Biến Ngọc đúc hồng chung, nhưng chưa xây lầu [chuông]. Năm Tuyên Thống thứ ba (1911), vị Tăng tên Đạo Minh do bị mất y [ca-sa] đánh lầm kẻ khả nghi, khiến cho dân chúng phẫn nộ, phải bỏ trốn. Chùa đã không có chủ, tất cả đồ đạc không còn được một vật nào, ruộng đất cũng bị mất mát chẳng ít. Vị hương thân vùng Mộc Độc là Nghiêm Lương Xán khải thỉnh hòa thượng Chân Đạt[20] làm Trụ Trì. Cụ Chân bèn sai học trò là Minh Hú thay mặt trông coi, trước hết dựng lầu chuông.

Đến năm Dân Quốc 15 (1926), đất Ngạc (tỉnh Hồ Bắc) loạn lạc, pháp sư Giới Trần và học trò xuống miền Nam, cụ Chân liền đem Linh Nham giao cho, biến thành đạo tràng thập phương chuyên tu Tịnh nghiệp vĩnh viễn. Nhất loạt chẳng giảng kinh, truyền giới, truyền pháp, thâu nhận đồ đệ, làm chuyện kinh sám thù tạc, [chỉ] quanh năm niệm Phật, chương trình giống như phổ thông Phật thất. Huê lợi ruộng đất chỉ thâu được tám chín trăm đồng, hạn định số người sống ở đây là hai mươi vị, nếu chi phí không đủ, cụ Chân sẽ bù đắp, [chứ Linh Nham] cũng chẳng mộ duyên. Năm Dân Quốc 17 (1928), thầy Giới đặc biệt sang Phổ Đà, cầu cụ Chân dựng thêm phòng ốc, lấy năm sáu ngàn đồng làm chuẩn, cụ Chân bằng lòng. Thầy ấy trở về núi, liền rời chùa, đi sang Vân Nam, ấy là để tránh nỗi phiền phức do xây dựng. Do vậy, mọi việc trong chùa giao cho pháp sư Từ Châu[21].

Thầy Từ Châu khí lực yếu ớt, không chịu đựng được khổ nhọc, liền mấy lượt sang Hán Khẩu giảng kinh. Mùa Hạ năm ngoái lại nhận lời mời của Cổ Sơn, chẳng từ tạ, bỏ đi. Hai ba năm gần đây, đàn-việt[22] nhiều người biết đến đạo phong của Linh Nham, có người muốn cầu siêu cho tiên vong, chúc thọ cho cha mẹ, xin đả thất. Số người ở lại đã trên bốn mươi vị, phòng ốc chẳng chứa nổi, lại thêm hẹp nhỏ, trời mùa Hè rất nóng. Nay dựng năm gian lầu cao, phía dưới làm Niệm Phật Đường, rộng rãi mát mẻ. Ngoài ra lại dựng thêm hơn ba mươi gian nữa, chi phí ước chừng hơn năm vạn đồng. Cụ Chân bỏ ra hơn hai vạn hai ngàn đồng, khoản còn lại [góp] từ số tiền chi dùng của Thường Trụ còn dư và do đàn-việt vui vẻ giúp sức. Nay đã hoàn thành, thầy Diệu Chân làm Đương Gia Sư. Do hai lần xây dựng, cụ Chân bỏ ra gần ba vạn, lần này cụ cũng đứng ra xướng suất, công đức ấy và việc biến [ngôi chùa] này thành đạo tràng thập phương đều đáng nên lập bia, [do vậy, tăng chúng Linh Nham] thỉnh tôi lược thuật chuyện ấy để ghi chép công đức hòng bảo với mai sau; vì thế, bất đắc dĩ chẳng thể từ tạ chuyện viết lách được! Thuở ban đầu đã lập năm điều quy ước:

          1) Trụ Trì bất luận thuộc tông phái nào, chỉ cần lấy chuẩn mức là “tin tưởng Tịnh Độ sâu xa, giới hạnh tinh nghiêm”. Chỉ truyền hiền, chẳng truyền pháp để dứt thói tệ pháp quyến riêng tư.

2) Trụ Trì chỉ luận thứ số, chẳng luận theo thế hệ để bậc cao đức khỏi bị đứng sau kẻ đức hạnh tầm thường.

3) Chẳng truyền giới, chẳng giảng kinh để khỏi chèo kéo, xáo động, gây nhiễu loạn chánh niệm. Trong chùa tuy hằng ngày thường giảng nhưng chẳng lôi kéo người ngoài đến nghe.

4) Chuyên nhất niệm Phật, ngoại trừ đả Phật thất ra, nhất loạt chẳng làm hết thảy các Phật sự mang tính cách thù tạc.

5) Bất luận là ai, chẳng được ở trong chùa mà thâu nhận đồ đệ xuất gia.

Ai phạm một điều nào trong năm điều sẽ lập tức ra khỏi chùa. Đại sư Tử Bách đời Minh một đời xây dựng hơn mười ngôi đại tùng lâm, nhưng chẳng làm Phương Trượng, chẳng thâu nhận đồ đệ, hễ xong việc liền bỏ đi, gác bỏ mọi việc. Đại sư Diệu Phong phàm những công trình chùa, tháp, cầu cống, đường sá người khác chẳng thể lo liệu được, thỉnh Sư trông nom, hễ qua tay Sư đều thành công, hoàn tất xong liền cáo từ. Trong lúc đang tu bổ hay xây dựng, có khi Sư sai học trò thay mình lo liệu, công trình hoàn thành, trọn chẳng để lại đó một người nào của chính mình cả! Tấm lòng Sư chánh đại quang minh, mấy trăm năm sau còn nghe tiếng, khiến cho mọi người khâm phục khôn nguôi, đáng được vua tôi cung kính, long thiên ủng hộ, lúc sống tiếng tăm vang dội, lúc mất chứng thánh quả. Người đời nay phần nhiều âm mưu cướp đoạt đạo tràng của người khác, ai chịu đem những gì mình đã có nhường cho người khác?

Cụ Chân khẳng khái làm như vậy, tuy đạo còn kém xa Tử Bách, Diệu Phong, nhưng tấm lòng sáng ngời không riêng tư cũng gần bằng các vị ấy, thật đáng khâm phục! Nguyện những người làm Trụ Trì và giữ chức trách trong nhà chùa, cũng như những người nhập chúng tu trì đều cùng giữ tấm lòng đại công vô tư, chuyên tinh tu tập, ngõ hầu chẳng phụ ân Phật đã nói ra pháp môn Tịnh Độ hoành siêu và lịch đại tổ tông hoằng pháp, ân cụ Chân Đạt tạo dựng cũng như một phen yêu thương, siêng năng nhọc nhằn lo toan sâu đậm của thầy Diệu Chân.



[1] Ở Trung Hoa có hai chùa mang tên Linh Nham, một ở huyện Trường Thanh tỉnh Sơn Đông, còn một là ở tại Ngô Huyện, Tô Châu. Chùa Linh Nham nói ở đây gọi tên đầy đủ là Linh Nham Sơn Tự, thuộc Tô Châu. Khởi đầu từ Tư Không Lục Ngoạn biến nhà riêng thành chùa, nhưng rất nhỏ. Đến niên hiệu Thiên Giám (502-519) thời Lương Vũ Đế, chùa mới được mở rộng và mang tên là Tú Phong Tự. Theo kinh Đại Ai (do ngài Trúc Pháp Hộ dịch), đây chính là đạo tràng ứng hóa của Trí Tích Bồ Tát. Vào thời Thiên Bảo (742-755) đời Đường Huyền Tông, tổ trung hưng tông Thiên Thai là ngài Đạo Tuân từng tu Pháp Hoa tam-muội tại chùa này. Đầu đời Tống, chùa trở thành viện học giới luật của Luật Tông. Vào thời Nguyên Phong (1078-1085), chùa trở thành thiền viện. Chùa bị cháy rụi chỉ còn lại một cái tháp đá vào năm Vạn Lịch 18 (1600) đời Minh Thần Tông. Sau khi được trùng tu, vào đời Thanh, chùa lại bị loạn quân Thái Bình Thiên Quốc đốt phá một lần nữa. Mãi đến năm Tuyên Thống thứ ba (1911), hòa thượng Chân Đạt trùng tu. Kể từ năm 1931 trở đi, dưới ảnh hưởng của tổ Ấn Quang, chùa trở thành đạo tràng Tịnh Độ nổi tiếng nhất Trung Hoa. Năm Dân Quốc 29 (1940), tổ Ấn Quang thị tịch tại chùa này. Hiện chùa còn tháp thờ ngũ sắc xá-lợi của Tổ Ấn Quang và Ấn Công Kỷ Niệm Đường.

[2] Theo sách Hoài Nam Tử, Thái Vương là ông nội của Châu Văn Vương có ba người con: Thái Bá, Trọng Ung và Quý Lịch (cha của Châu Văn Vương). Vì muốn nhường ngôi cho Quý Lịch, Thái Bá và Trọng Ung liền giả vờ đi hái thuốc rồi trốn xuống miền Nam sông Dương Tử, lập ra nước Ngô. Nước Ngô bị Câu Tiễn nước Việt thôn tính và diệt vong dưới thời Phù Sai.

[3] Sau khi Câu Tiễn (vua nước Việt) bị Phù Sai đánh bại nhằm trả thù mối nhục giết cha là Hạp Lư, theo mưu kế của Phạm Lãi, Câu Tiễn đã dâng mỹ nhân Tây Thi cho Phù Sai. Phù Sai bèn xây cung Quán Oa cho nàng Tây Thi ở. Cô Tô Đài cũng thuộc quần thể cung điện này. Khi Câu Tiễn phục quốc, đánh bại Phù Sai, diệt nước Ngô, đã cho phóng hỏa đốt trụi cung Quán Oa. Chùa Linh Nham được xây ngay trên nền cũ cung Quán Oa.

[4] Tư Không là một chức quan được lập ra từ thời Tây Châu, là một trong ngũ quan (Tư Mã, Tư Khấu, Tư Sĩ, Tư Đồ). Chức quan này chuyên trông nom về việc thủy lợi, xây dựng. Từ sau thời Hán trở đi, chức quan này không còn tồn tại và được thay thế bằng danh từ Công bộ thượng thư. Lục Ngoạn (278-342), tự là Sĩ Dao, người Ngô Huyện (nay là Tô Châu, tỉnh Giang Tô), tên thụy là Khang, được phong tới tước Hưng Bình Bá, chức Thị Trung Tư Không. Thích văn chương, nổi tiếng với tài thư pháp. Nét bút của ông được ca ngợi là mạnh mẽ, cứng cỏi, phóng khoáng, nhưng có phong thái tiêu dao thoát tục, bay bướm nhưng mực thước, không phóng túng, ngông cuồng.

[5] Ngài Bảo Chí (418-514), thường được xưng là Bảo Công, hoặc Chí Công Hòa Thượng, nên thường được gọi là Bảo Chí Công, người xứ Kim Thành (nay là Nam Trịnh tỉnh Thiểm Tây). Có thuyết nói Ngài là người huyện Cú Dung tỉnh Giang Tô, xuất gia từ nhỏ. Sư theo học với ngài Đạo Lâm Tăng Kiệm tu tập Thiền Định. Trong niên hiệu Thái Thủy (466-471), Sư thường lang thang khắp nơi, không ở chỗ nào nhất định, thường đọc thơ, phảng phất giống sấm ký, người ta thường kéo nhau đến hỏi chuyện tương lai. Tề Vũ Đế bèn tống giam Sư trong ngục, nhưng người ta vẫn thấy Sư lang thang ngoài chợ, nhìn vào ngục thì vẫn thấy Sư nằm khểnh trong đó. Vua chịu thua, đón Sư vào ở trong vườn Thượng Uyển để ngăn Sư đi khắp nơi. Tuy các nội thị canh gác Sư nghiêm mật, dân chúng vẫn thấy Sư la cà các chùa Long Quang, Kế Tân, Hưng Hoàng, Tịnh Danh v.v… Đến khi Lương Vũ Đế lên ngôi, bèn bãi bỏ lệnh cấm, học đạo với Sư, hết sức kính phục Ngài. Khi Sư mất, vua phong tặng thụy hiệu Quảng Tế đại sư, rồi các đời lần lượt phong tặng Diệu Giác đại sư, Đạo Lâm Chân Giác Bồ Tát, Từ Ứng Huệ Cảm đại sư, Phổ Tế Thánh Sư Bồ Tát. Phật môn Trung Hoa thường coi Ngài là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát.

[6] Trí Tích Bồ Tát nói ở đây là một vị cao tăng Ấn Độ. Theo Linh Nham Ký Lược, Sư từ Ấn Độ sang Trung Hoa vào cuối đời Tấn, trùng hưng chùa Linh Nham tại Tô Châu, rất nổi tiếng về tài đức. Theo truyền thuyết có một bà lão nghèo không có gì cúng dường, đem một miếng sơn (nhựa của cây sơn) dâng cho Sư, Sư vẫn vui vẻ nhận lấy, nhờ đó bà được khai ngộ. Do vậy, sau này mỗi năm vào ngày sinh nhật Sư, chùa vẫn cử hành lễ kỷ niệm, gọi là Giác Tất Hội. Cũng theo truyện ký của chùa, đại sư nhiều lần thị hiện hóa độ Tăng – Tục rất đông.

[7] Hành cung: Cung điện dành cho vua ở tại các địa phương.

[8] Tức loạn Thái Bình Thiên Quốc. Do lãnh tụ của Thái Bình Thiên Quốc là Hồng Tú Toàn và Dương Tú Thanh lãnh đạo nên Sử thường gọi là loạn Hồng Dương. Hồng Tú Toàn tự xưng là em trai của Jesus, dấy loạn, chủ trương biến Trung Hoa thành một nước Thiên Chúa theo kiểu riêng của hắn, cấm ngặt tam giáo, cấm thờ phụng tổ tiên v.v… hạ lệnh đốt phá đình chùa, miếu mạo rất dữ dội.

[9] Chùa bị quân Thái Bình Thiên Quốc đốt sạch, chỉ còn sót lại một cái tháp đá nên sư Niệm Thành phải ở tạm trong đó.

[10] Pháp sư Giới Trần (1878-1948) là người xứ Hán Xuyên, tỉnh Hồ Bắc, họ Khưu, tự là Địch Ngô, xuất gia năm mười chín tuổi, chuyên tu khổ hạnh, sống trong núi Chung Nam, toàn tâm toàn ý tu Thiền. Sau Sư chuyên tu niệm Phật. Dưới thời Quang Tự, Sư vào núi Kê Túc ở Vân Nam chuyên tu pháp Ban Châu Niệm Phật. Năm Dân Quốc thứ ba (1914), Sư đến Hàng Châu, mở trường Hoa Nghiêm Đại Học. Về sau, Sư bế quan tại chùa Phật Thản ở Thường Thục, ngầm tu Tịnh nghiệp. Năm Dân Quốc thứ chín (1920), cùng với các vị Liễu Trần, Từ Châu v.v… lập Hoa Nghiêm Đại Học tại chùa Cửu Liên ở Hán Khẩu. Sư từng đảm nhiệm Trụ Trì chùa Linh Nham một thời gian. Sư thị tịch vào năm Dân Quốc 37 (1948) tại chùa Cùng Trúc ở Côn Minh, thọ 71 tuổi, pháp lạp 53 năm. Trước tác gồm Hoa Nghiêm Nhất Trích, Hoa Nghiêm Thất Xứ Cửu Hội Đồ, Liên Xã Minh Huấn, Tịnh Tông Yếu Ngữ v.v…

[11] Tức là không làm các pháp sự cầu an, cầu siêu, giải hạn, đảo bệnh, cầu phước, cúng sao, chúc thọ v.v… như các đạo tràng khác.

[12] Tức Phổ Thông Phật Thất: Mỗi ngày niệm Phật sáu thời. Gọi là Phổ Thông Phật Thất để phân biệt với Tinh Tấn Phật Thất (niệm Phật suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ).

[13] Nguyên văn “chỉ luận thứ số, bất luận đại số”: Quan tâm đến thứ tự (tức tuổi tác, mức độ tu chứng, trì giới), chứ không quan tâm đến thế hệ truyền thừa. Tức là Tăng chúng trong chùa được xếp bậc theo người tu hành lâu năm, giới hạnh tinh nghiêm, chứ không vì người ấy thuộc thế hệ trước hay sau mà coi trọng. Trong các đạo tràng khác, thứ tự truyền thừa rất được coi trọng. Chẳng hạn, một vị Tăng có thể mới xuất gia chưa lâu nhưng vì là đệ tử của một vị ngang vai với thầy của vị Trụ trì hay người thuộc thế hệ cao hơn, nên được coi là sư thúc, sư bá, thái sư thúc. Các vị Tăng khác dù cao tuổi hơn, giới lạp cao hơn nhưng thuộc vai vế thấp hơn, vẫn phải lễ kính vị Tăng trẻ tuổi này.

[14] Pháp yếu: Những chỗ quan trọng, cốt lõi của một pháp môn.

[15] “Bỉ cực thái lai” nguyên gốc là “bỉ chung tắc thái”. Bỉ và Thái vốn là tên hai quẻ kép tương phản trong sáu mươi bốn quẻ của kinh Dịch. Quẻ Bỉ gồm quẻ Càn ở trên, quẻ Khôn ở dưới ghép thành, hàm nghĩa: Dương khí bốc lên, Âm khí chìm xuống, Âm – Dương chẳng giao hội, vạn vật bế tắc. Do vậy, đây là quẻ xấu. Quẻ Thái thì Càn dưới, Khôn trên, nên Âm – Dương giao hội, vạn vật thông suốt, do vậy là quẻ tốt. Phần Hệ Từ giảng: “Bỉ chung tắc thái” (quẻ Bỉ kết thúc sẽ chuyển biến thành quẻ Thái), hàm nghĩa vận xấu đến cùng cực sẽ chuyển biến thành vận hanh thông, giống như hết Đông sẽ tới Xuân. Do ý nghĩa này, “bỉ chung tắc thái” được biến đổi thành “bỉ cực thái lai”.

[16] Linh Đài: tên một cái đài do Văn Vương xây dựng được nhắc đến trong bài thơ Linh Đài thuộc thiên Đại Nhã của kinh Thi. Bài thơ này có nội dung ca ngợi đức hạnh của nhà vua, đoạn đầu bài thơ có câu: “Kinh thỉ linh đài, kinh chi, doanh chi, thứ dân công chi, bất nhật thành chi” (Vừa tính xây đài thiêng, tính toán, lo liệu, nhân dân góp công, chưa đầy một buổi, đài đã xây xong). Do vậy, “linh đài” được dùng như một từ ngữ để ca ngợi vị vua cai trị nhân dân bằng đức hạnh và lòng nhân từ, được nhân dân hết sức yêu mến.

[17] Khi Việt Vương Câu Tiễn diệt nước Ngô, bắt sống Phù Sai. Phù Sai đã quỳ lạy, khóc lóc, van xin được sống sót làm nô lệ chăn ngựa giống như xưa kia Việt Vương Câu Tiễn bại trận đã phải xin làm nô lệ giữ ngựa cho Phù Sai. Khi bị Câu Tiễn ép tự sát, Phù Sai xõa tóc che mặt với ngụ ý không còn mặt mũi nào nhìn tổ tiên dưới suối vàng!

[18] “Rồng già nơi biển giáo, sư tử lớn nơi hang Thiền”, ý nói toàn là những bậc tông tượng lỗi lạc thuộc Giáo môn hay Thiền tông.

[19] Tức loạn Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn khởi xướng. Quân Thái Bình Thiên Quốc đã đốt sạch, phá trụi các chùa miếu, đạo quán mỗi khi chúng chiếm được một địa phương nào!

[20] Tuy hòa thượng Chân Đạt đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời hoằng pháp và là người nỗ lực thực hiện tông chỉ chuyên tu Tịnh nghiệp của tổ Ấn Quang, hầu như không thấy có tài liệu nào ghi chép chi tiết về tiểu sử của hòa thượng. Dựa theo những ghi chép của môn nhân Tổ Ấn Quang, chúng ta chỉ biết hòa thượng Chân Đạt vốn xuất thân từ Tam Thánh Đường tại Phổ Đà Sơn, do thường bế quan nên chưa hề gặp mặt tổ Ấn Quang. Sau khi bộ Văn Sao được lưu hành, hòa thượng rất ngưỡng mộ tổ Ấn Quang, nhưng lúc đó hòa thượng đã sang Thượng Hải nên chưa gặp gỡ được! Đến mùa Xuân năm Dân Quốc 15 (1926), ông Cao Hạc Niên từ núi Bôi Độ trở về Ninh Ba, ước hẹn với tổ Ấn Quang sẽ cùng nhau đến Thượng Hải lo việc in sách. Hòa thượng Chân Đạt biết tin liền dặn ông Cao đưa tổ Ấn Quang đến nghỉ ngơi tại chùa Thái Bình là Hạ Viện của Tam Thánh Đường tại Thượng Hải, do vậy, hai vị mới được gặp mặt nhau và nhanh chóng trở thành bạn thiết. Từ đấy về sau, mỗi dịp cần sang Thượng Hải, tổ Ấn Quang thường đến ở tại một gian phòng dành riêng cho Ngài trong chùa Thái Bình. Hòa thượng Chân Đạt chẳng tiếc sức hỗ trợ tổ Ấn Quang trong công cuộc hoằng pháp. Khi Tổ muốn tránh phiền nhiễu do bị các nơi gởi thư hỏi han quá nhiều, tính đi sang Hương Cảng để bế quan, hòa thượng Chân Đạt đã tha thiết mời Tổ về bế quan tại chùa Báo Quốc do hòa thượng quản nhiệm cũng như tận lực ủng hộ tổ Ấn Quang trong công cuộc biến Linh Nham Sơn Tự thành thập phương đạo tràng chuyên tu Tịnh nghiệp. Cảm kích trước thịnh tình của hòa thượng Chân Đạt, trong những thư từ trao đổi, Tổ luôn gọi hòa thượng Chân Đạt là “huynh” tuy tuổi tác lẫn pháp lạp của Tổ đều cao hơn hòa thượng Chân Đạt. Khi Tổ Ấn Quang viên tịch, chính hòa thượng Chân Đạt đã đứng ra dựng tháp, chủ trì lễ trà-tỳ và tuyên pháp ngữ trước khi châm lửa.

[21] Từ Châu (1877-1957)là người huyện Tùy, tỉnh Hồ Bắc, pháp danh là Phổ Hải. Từ bé đã theo cha học Phật. Đến năm 33 tuổi, vợ chồng đồng lòng xuất gia. Không lâu sau, Sư thọ Cụ Túc Giới nơi chùa Quy Nguyên tại Hán Dương, từng theo hầu dưới tòa pháp sư Nguyệt Hà là một vị đại đức thuộc tông Hoa Nghiêm. Sư thường giảng kinh Hoa Nghiêm, xiển dương giới luật, hoằng hóa rất sâu rộng, trì luật rất nghiêm, kiêm tu Tịnh Độ lẫn pháp giới quán. Tuy thông hiểu Hoa Nghiêm sâu xa, trong khi thuyết pháp, Sư vẫn dùng những lời lẽ giản dị, chẳng bàn đến những lý lẽ cao siêu khó hiểu, mà chỉ chú trọng vào những điểm cốt lõi, thực tiễn. Sư chuyên giảng Hoa Nghiêm, Viên Giác, Khởi Tín Luận, Tứ Phần Luật v.v… Năm 1920, Sư sáng lập Hoa Nghiêm đại học, Minh Giáo học viện để đào tạo tăng tài. Nhận lời mời của hòa thượng Hư Vân, Sư sáng lập Pháp Giới Học Viện tại chùa Pháp Hải ở Phước Kiến, về sau trường được dời sang chùa Tịnh Liên ở Bắc Kinh. Sư thị tịch tại An Dưỡng Tinh Xá, còn để lại những tác phẩm như Tỳ Ni Tác Trì Yếu Lục, Bồ Tát Giới Bổn Sớ, Đại Thừa Khởi Tín Luận Thuật Ký, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Thân Văn Ký v.v… Những trước tác của Sư đã được biên tập thành bộ Từ Châu Đại Sư Pháp Vựng.

[22] Đàn-việt (Dānapati): Thí chủ, tức người bố thí. Đàn là gọi tắt của chữ Dāna (bố thí).

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *