Thế nào là chánh niệm cầu sanh Tây Phương
Chúng con xin cung kính trích trong
Bộ Chư Tông, quyển 11, An Lạc Tập quyển hạ, Phần 12
Biên soạn: Sa môn Thích Đạo Xước
Trong Thập Vãng Sinh kinh có nói:
…
Phật bảo A-nan:
Chúng sinh ở thế gian không được giải thoát. Vì sao? Vì do đa hư mà ít thật, không có chánh niệm, do đó mà sa vào địa ngục thì nhiều mà sự giải thoát thì ít. Ví như có người đối với cha mẹ và sư tăng, bên ngoài thì tỏ ra hiếu thuận mà bên trong thì bất kính. Ngoài thì ra vẻ tinh thuần, trong thì không thật. Người này quả báo chưa đến, nhưng con đường tam ác nào có cách xa. Không có chánh niệm thì không được giải thoát.
A-nan lại bạch Phật: Như vậy thì cần tu thiện căn nào để được giải thoát?
Phật bảo A-nan:
Ông nên lắng nghe, ta nay vì ông mà diễn nói về mười pháp vãng sinh có thể đạt được sự giải thoát. Những gì là mười pháp?
1) Quán thân chánh niệm, thường ôm lòng hoan hỷ. Đem thức ăn, y phục cúng dường Phật và chư Tăng, phát nguyện vãng sinh về nước An lạc.
2) Chánh niệm đem các loại thuốc men lương dược cúng thí cho Tỳ-kheo và người bệnh, cầu vãng sinh về Tịnh quốc.
3) Chánh niệm bất hoại sinh mạng, đem lòng Từ bi ban trải tất cả, cầu sinh về nước An lạc.
4) Chánh niệm lãnh thọ giới pháp với thầy, pháp tuệ tịnh tu phạm hạnh, tâm thường ôm lòng hoan hỷ, cầu vãng sinh về nước An lạc.
5) Chánh niệm hiếu thuận đối với cha mẹ, kính phụng Sư trưởng, không khởi tâm kiêu mạn, cầu vãng sinh An lạc quốc.
6) Chánh niệm qua lại Tăng phòng, cung kính đối với tháp tự, nghe pháp hiểu nghĩa, cầu vãng sinh nước An lạc.
7) Chánh niệm trong một ngày một đêm, thọ trì tám trai giới, không phá một giới nào, cầu vãng sinh nước An lạc.
8) Chánh niệm giữ trai giới một tháng, một ngày, xa rời phòng xá, thường nghe pháp ở bậc thiện sư, cầu vãng sinh nước An lạc.
9) Chánh niệm thường trì tịnh giới, khuyến tu thiền định, hộ pháp không hề có ác khẩu. Nếu hành trì như thế, tất được vãng sinh về nước An lạc.
10) Chánh niệm ở trong đạo Vô thượng, không khởi tâm phỉ báng, tinh tấn trì tịnh giới, lại đem kinh pháp lưu hành, khuyến hóa người vô trí, giáo hóa vô lượng chúng sinh, người như thế tất cả được vãng sinh. Bấy giờ, trong tăng có một vị Bồ-tát tên là Sơn Hải Huệ, bạch Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Nước Cực lạc kia vì sao lại có các việc diệu lạc thù thắng, và tất cả chúng sinh đều nguyện sinh về?
Khi ấy, Phật bảo Bồ-tát Sơn Hải Huệ rằng:
Ông nên chánh thân chấp tay niệm Phật hướng về Tây phương, chánh niệm quán nước Cực lạc của Phật A-di-đà, nguyện trông thấy Phật.
Bấy giờ, tất cả đại chúng cũng chấp tay khởi niệm quán Phật A- di-đà. Thế là Phật A-di-đà hiện ra Đại thần thông, phóng ánh quang minh, chiếu sáng khắp thân của Bồ-tát Sơn Hải Huệ. Bồ-tát cùng chư Đại chúng cũng nhìn thấy cõi nước Cực lạc và Phật, cùng các việc trang nghiêm diệu hảo. Khắp cõi Cực lạc đều là bảy báu, núi bảy báu, Quốc độ bảy báu, nước chim cây rừng thường diễn nói pháp âm. Cõi nước kia hằng ngày thường chuyển pháp luân, nhân dân không học theo ngoại sự, chánh tu nội điển. Miệng nói pháp Phương đẳng, tai nghe tiếng Phương đẳng, tâm giải nghĩa Phương đẳng.
Bấy giờ, Bồ-tát Sơn Hải Huệ bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Chúng con nay được trông thấy cõi nước kia thật là thắng diệu, lợi ích không thể nghĩ bàn. Con nay nguyện cho tất cả chúng sinh đều được vãng sinh, sau đó con cũng phát nguyện sinh về đó.
Phật thọ ký và nói:
Chánh quán, chánh niệm thì được chánh giải thoát, tất cả đều được vãng sinh. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào, đem sự chánh tín ái lạc kinh này khuyến hóa chúng sinh, thì người nói người nghe đều được vãng sinh. Nếu có những người như thế, ta sẽ khiến cho hai mươi lăm vị Bồ-tát theo hộ trì, làm cho người đó không còn bệnh não. Nếu người hay loài phi nhân không làm hại được, hành trụ tọa ngọa, bất kể ngày đêm, đều được an ổn.