Vãng sanh Tây Phương Tư Hoặc đã đoạn, nương theo nguyện tái lai, hoặc hóa hiện, hoặc nhập thai, đều tùy cơ thị hiện. Khi nhập thai, thị hiện giống như người thường, trước hết cũng cần phải hiện tướng mê, chứ thật sự chẳng có mê tình. Giống như diễn tuồng, khổ - sướng, buồn - vui, cố nhiên phải diễn cho thật giống; nhưng trong tâm hoàn toàn không có những tình niệm thật sự. Do ông không biết địa vị của Thanh Văn, Bồ Tát nên mới coi họ giống như kẻ đoạn Hoặc thì lầm to quá rồi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 17-4.7: Thư trả lời Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam “Thanh Văn bị hôn ám khi cách ấm, Bồ Tát mê khi ra khỏi thai”. Đấy là nói về những vị thuộc Sơ, Nhị, Tam Quả chưa đoạn sạch Tư Hoặc. A La Hán đã đoạn sạch Tư Hoặc sẽ không có chuyện này. Chữ Bồ Tát [trong câu trên đây] cũng chỉ cho những vị Bồ Tát chưa đoạn sạch Tư Hoặc, chứ hễ hết sạch Tư Hoặc sẽ không bị mê. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 17-4.7: Thư trả lời Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam Lại nói: “Khi có kinh nguyệt cũng chớ nên nóng giận; hễ nóng giận sẽ bặt kinh”. Vì thế, phụ nữ chưa lấy chồng cũng có người bị kinh nguyệt không điều hòa, trộm cho rằng là vì chuyện này! Đối với giáo dục trong gia đình và nước nhà nhân dân [chuyện này] đều có quan hệ, bởi lẽ phụ nữ từ nhỏ phải nên tập thành tánh nhu hòa thì sẽ không bị họa hoạn “kinh nguyệt chẳng điều hòa và nóng giận đùng đùng đến nỗi con bị chết, nóng giận nho nhỏ khiến con bệnh tật”. Tánh đã nhu hòa thì sẽ không khẩu thiệt, thị phi, gia đình êm ấm, hòa thuận. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 17-4.6: Thư trả lời Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam Pháp danh của bảy người đều đã ghi ra, gởi cho mỗi người ba gói sách như Ngũ Kinh, Thập Yếu v.v…để giúp tu trì. Đứa hậu sinh lần trước đã tới đây thì trong tuần đầu của tháng nhuận đã có vị tăng từ chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai đến đem nó đi rồi. Nó sẽ được vị Trụ Trì thâu làm đệ tử hoặc do người khác thâu nhận đều được. Do Trụ Trì chùa Quốc Thanh cũng là Trụ Trì chùa Linh Nham ở Tô Châu, tôi biết rõ là người như thế nào nên bảo dẫn đi. Xin đừng lo! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 17-4.5: Thư trả lời Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam Thưa ông Đức Minh! Lệnh từ tuổi già hãy nên nói với quyến thuộc về lợi ích trợ niệm khi lâm chung và những họa hại do lau chùi thân thể, thay áo, khóc lóc trước khi cụ mất, khiến cho bọn họ luyện tập nhuần nhuyễn, hiểu rõ lợi - hại. Nếu đến khi lâm chung, chắc chắn cụ sẽ vãng sanh Tây Phương. Nếu chẳng luyện tập và chẳng nói lợi - hại thì mười người hết chín kẻ bị quyến thuộc vì lòng hiếu mà phá hoại [chánh niệm] khiến cho người ấy vẫn phải bị sanh tử trong lục đạo luân hồi. Hãy đọc kỹ Sức Chung Tân Lương sẽ tự biết. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 17-4.5: Thư trả lời Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam Thưa ông Đức Minh! Mười mấy hôm trước, Tôn Hạc Niên đến đây, cầm theo các món thức ăn, tôi đều cho đại chúng cùng hưởng, còn hoa Sâm thì cho thầy Đức Sâm, bởi Quang một mực chẳng thích đa sự, món ấy dù cất hoặc dùng đều rất lôi thôi. Con người Hạc Niên khá thành thật, hiện đã cho ở tại Báo Quốc, đợi có vị thầy nào thích hợp, sẽ cho anh ta quy y thế độ. Chuyện này không thể gấp được! Quang cả đời thề chẳng thâu nhận đồ đệ, cần phải đợi có vị nào [thích hợp cho anh ta] bái sư thì mới cho anh ta xin thế độ với vị ấy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 17-4.4: Thư trả lời Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam Thưa ông Đức Minh! Thư của ông và bốn mươi đồng tôi đều nhận được. Lòng Thành vì mẹ của ông có thể nói là chí thành không chi hơn được. Nhưng phải dùng lòng chí thành ấy khuyên mẹ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương thì mới là lòng hiếu hữu ích rốt ráo. Những kẻ mưu tính tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ theo thói tục của thế gian đều là chú trọng bề ngoài, còn tăng thêm tội cho cha mẹ (như coi dùng món ăn có thịt để phụng dưỡng cha mẹ là hiếu thảo), ngược ngạo khiến cho cha mẹ bị đọa lạc (như lúc lâm chung, tắm rửa, thay quần áo sẵn, chuyện gẫu, an ủi, và khóc lóc cũng như dùng rượu thịt để cúng tế, đãi khách v.v…) Thứ sự - lý ấy là do tục nhân chẳng biết, nên cố nhiên chẳng đáng trách, nhưng nếu là đệ tử Phật mà vẫn khăng khăng noi theo tập tục ấy tức là muốn mượn những chuyện đó để chuốc lấy cái tiếng hiếu thảo với cha mẹ, chứ thật ra đã phá hoại nẻo thoát khổ của cha mẹ, thành tựu phương hướng đọa lạc cho cha mẹ. Lòng hiếu ấy khác gì tình yêu của La Sát nữ! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 17-4.1: Thư trả lời Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam Những giáo huấn khơi gợi về mặt đức dục (dạy dỗ, vun bồi đạo đức) cho trẻ nhỏ : 1. Hiếu thảo với cha mẹ 2. Hòa thuận, yêu thương anh em 3. Kính thầy 4. Chọn bạn 5. Áo vải (che thân, chống lạnh, tiếc phước, dưỡng khiêm) 6. Ăn chay 7. Tiếc chữ 8. Tiếc ngũ cốc 9. Tiếc thời gian 10. Trượng nghĩa (coi trọng điều nghĩa) 11. Thanh liêm 12. Biết thẹn 13. Tận trung 14. Thủ tín (giữ chữ tín) 15. Nhân từ 16. Không sát sanh 17. Không trộm cắp 18. Không tà dâm 19. Không nói dối 20. Không hút thuốc 21. Không uống rượu 22. Không cờ bạc 23. Đừng xa xỉ 24. Đừng ngạo mạn 25. Đừng ghen ghét 26. Đừng thiên kiến 27. Đừng nóng giận 28. Hỏi han đừng thẹn (mạnh dạn cầu học) - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 16: Dạy dỗ trẻ nhỏ Kính khuyên các vị, chớ nên không tự lượng sức, vọng tưởng làm hạng phi thường. Nói chung là phải chất phác niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì mới chẳng cô phụ đức Như Lai đã nói pháp môn tổng trì “trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, thành thỉ thành chung” này và chẳng đến nỗi uổng phí nhân duyên thù thắng mười phương tụ hội tại đạo tràng Linh Nham thanh tịnh này. Mong mọi người hãy trân trọng! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Quý vị phải hiểu rằng: Phải là bậc Pháp Thân Đại Sĩ phá được mấy phần vô minh thì mới có thể thấy được thế giới Hoa Tạng, sanh [về đó] được! Ngoài ra, [dẫu là] bậc Bồ Tát đoạn sạch Trần Sa Hoặc cũng chưa có phần, huống hồ phàm phu đầy dẫy triền phược ư? Trong hội Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử đã chứng Đẳng Giác mà Phổ Hiền Bồ Tát vẫn dạy Ngài và Hoa Tạng hải chúng dùng mười đại nguyện vương hồi hướng Cực Lạc để mong viên mãn Phật Quả. Đủ biết pháp môn Tịnh Độ không căn cơ nào chẳng gồm thâu. Vì thế, tôi thường nói: “Chúng sanh trong chín giới bỏ pháp môn Niệm Phật thì trên là không thể do đâu viên thành Phật đạo được; mười phương chư Phật bỏ pháp môn Niệm Phật thì dưới là không do đâu độ khắp quần manh”, chính là vì duyên cớ này đấy! Ví như người trong thiên hạ, ai nấy đều phải ăn cơm thì ai nấy cũng đều phải niệm Phật. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Lại có hai người cầu sanh trong thế giới Hoa Tạng. Có một ngày, người kia mắc bệnh, người này bèn đến thăm. Sau đấy, do thấy người kia bệnh tình không xong, liền gấp rút bảo người kia niệm “Nam Mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Hoa Tạng Hải Hội Phật Bồ Tát”, mọi người cũng ở bên cạnh trợ niệm cho ông ta. Sau một khắc bèn hỏi ông ta có thấy cảnh giới gì hay không? Ông ta đáp: “Không có!” Hỏi như vậy hai ba lần đều nói “không có!” Đến lần cuối cùng, ông ta bèn nói: “Mẹ đã đến rồi!” Ôi chao! Có hỏi ông ta như vậy mới biết bọn họ [tu] như thế không thể nào chắc ăn được! Là vì trong tâm bọn họ, do niệm Phật hiệu như thế và mong mỏi như thế, lẽ ra phải trông thấy thế giới Hoa Tạng mới đúng, sao lại đâm ra thấy cảnh giới thọ Ấm trong thai mẹ? Từ đấy về sau, ông ta mới quay đầu tu pháp môn Tịnh Độ. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Năm Dân Quốc mười bảy (1928), ở Thượng Hải có một người đệ tử quy y mời tôi đến nhà ông ta dùng cơm chay và nói trong gia đình ông ta có một người thân thích là một nữ cư sĩ học Phật đã nhiều năm, học vấn cũng rất khá, đã hơn năm mươi tuổi, gọi bà ta đến trò chuyện có được hay không? Tôi nói: “Được chớ!” Ông bèn kêu bà ta đến. Đến khi gặp mặt, tôi bảo bà ta: “Tuổi đã cao rồi! Hãy nên mau niệm Phật cầu sanh Tây Phương”. Bà ta đáp: “Tôi chẳng cầu sanh Tây Phương, tôi muốn sanh trong thế giới Sa Bà!” Tôi liền trả lời bà ta: “Chí hướng của bà hèn kém quá!” Bà ta lại nói: “Tôi muốn thành Phật ngay nơi thân này”. Tôi lại đáp lời bà ta: “Chí hướng của bà cao xa quá! Sao không chịu vãng sanh thế giới thanh tịnh kia, cứ muốn sanh trong thế giới trược ác này? Phải biết rằng: Đạo lý ‘thành Phật ngay nơi thân này’ là có, thế nhưng hiện thời không có ai được như vậy cả, mà cũng chẳng phải là chuyện bà hay tôi có thể làm được!” Người không thông hiểu đạo lý như vị nữ cư sĩ ấy, hoàn toàn không có chút gì biết tự lượng sức, ăn nói lớn lối, quả thật là tự lầm, lầm người vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Vào đời nhà Thanh trước kia, trong khoảng từ niên hiệu Khang Hy đến niên hiệu Càn Long, Phật Sống Tây Tạng đến khi lâm chung biết chết rồi sẽ phải đi đầu thai trong nhà nào, dặn lũ đệ tử đến lúc ấy đi rước ông ta. Khi đẻ ra, cũng nói được ông ta là Phật Sống ở chỗ nào đó. Tuy có bản lãnh như vậy, cũng vẫn chưa phải là thành Phật ngay trong thân này! Vì sao biết được? Vì nếu quả thật là thành Phật ngay trong thân này, tự nhiên sẽ giống như Phật Thích Ca, nói được các thứ phương ngôn (ngôn ngữ riêng của từng địa phương), dùng một tiếng thuyết pháp cũng có thể khiến cho hết thảy chúng sanh đều hiểu được. Cớ sao Phật Sống Tây Tạng, [đối với] ngôn ngữ Trung Quốc lại không biết? Một chuyện nhỏ như vậy đủ để chứng minh ông ta không phải là thành Phật ngay trong một đời. Huống chi sau này Phật Sống khi chết đi chẳng để lại lời gì? Lúc sống cũng chẳng có biểu hiện gì, đều là do người khác xếp đặt, bốc thăm để quyết định , vậy thì chẳng cần phải nói gì nữa! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Phải biết thế giới này của chúng ta, trong Phật pháp của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, chỉ có một mình đức Thích Ca Mâu Ni Phật là thành Phật ngay trong thân này. Lại phải đến khi đức Di Lặc Phật hạ sanh thì mới có thể tính là có một vị Phật nữa thành Phật ngay trong thân này. Trong khoảng thời gian sau khi đức Thích Ca diệt độ và ngài Di Lặc chưa giáng sanh, muốn tìm lấy một người thành Phật ngay trong thân này thì bất luận ra sao cũng không thể có được! Dẫu chính Phật Thích Ca ứng hiện trong thế gian lần nữa, cũng không thị hiện đạo lý “thành Phật ngay trong thân” này! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Ví như một đứa bé con, cạo trọc đầu đi, ai nấy đều gọi nó là Hòa Thượng ; hay là vị tỳ-kheo đã thọ Tam Đàn Đại Giới cũng được gọi là Hòa Thượng; hay là vị Phương Trượng đứng đầu chốn tùng lâm cũng gọi là Hòa Thượng. [Những loại] Hòa Thượng như trên, miễn cưỡng gọi thì cũng được. Nếu coi [những người ấy] thật sự là Hòa Thượng thì cũng không đúng. Nói đúng sự thực thì phải [là người] có đạo đức, học vấn, có sức làm cho người khác sanh trưởng Pháp Thân huệ mạng thì mới đúng là Hòa Thượng danh phù hợp với sự thực. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Lại có thuyết “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong thân này) của Mật Tông. Nếu mới nghe qua, chuyện như thế khiến con người rúng động; nhưng trên mặt sự thật, trọn chẳng thể nhanh chóng, thuận tiện như vậy. Ý nghĩa của “tức thân thành Phật” là nói công phu của Mật Tông khi tu đến thành công thì có thể thành đạo ngay trong thân này; nhưng sự thành đạo như vậy chẳng qua là liễu sanh tử mà thôi! Miễn cưỡng nói là “thành Phật” thì còn có thể miễn cưỡng chấp nhận được! Nếu coi là thật sự thành được vị Phật đoạn rốt ráo Ngũ Trụ , vĩnh viễn hết hai loại chết (phần đoạn và biến dị sanh tử) thì lầm lạc quá đỗi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Lại có người nói: “Tự Tánh của mỗi người chúng ta vốn là chẳng nhiễm mảy trần, thanh tịnh trong lặng, đấy chính là Tịnh Độ. Tự Tánh vốn chẳng sanh, chẳng diệt, xưa nay thường hằng, chẳng dời, chẳng biến, chính là Vô Lượng Thọ. Tự Tánh vốn sẵn đủ đại trí huệ quang minh, chiếu trời, soi đất, chính là Vô Lượng Quang. Nếu như lìa khỏi Tự Tánh sẵn có ấy, muốn có riêng một cõi Tịnh Độ để sanh, [có một vị] Phật Di Đà để thấy, đấy chính là trên đầu chồng thêm một cái đầu nữa, không có lẽ nào!” Nếu tưởng như thế chính là đạo lý Thiền Tịnh Song Tu thì cũng là lầm lẫn rồi! Nếu nói như vậy thì hoàn toàn là thiên về Thiền Tông, hoàn toàn chẳng thích hợp cho Tịnh Tông. Vì sao biết được [như vậy]? Là vì Thiền Tông chẳng dạy người ta sanh lòng tin phát nguyện, cũng chẳng dạy người ta niệm Phật, chỉ dạy người ta tham cứu thoại đầu nhằm cầu minh tâm kiến tánh. Đấy chính là nói: “Lìa ngoài tự tánh chẳng có Tịnh Độ để có thể sanh, [chẳng có] Di Đà để thấy!” Nói tuy không sai, nhưng rốt cuộc vẫn thiên về kiến giải thuộc lý tánh, chẳng thể dung thông với sự tướng mà cũng cách biệt với sự lý vô ngại của Tịnh tông, nên nói “không phải là Thiền Tịnh Song Tu!” Người tu Tịnh Độ chuyên lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông, mọi người phải hiểu rõ ràng! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Làm sao mới trở thành đức Phật rốt ráo phước huệ viên mãn? Nói theo tông Thiên Thai, một vị Bồ Tát thuộc địa vị Thất Tín trong Viên Giáo đã đoạn sạch Kiến Tư Hoặc, khi tu đến địa vị Thập Tín mới phá hết Trần Sa. Lại phải tu lần lượt Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, bốn mươi mốt địa vị, mỗi [địa vị] phá một phẩm vô minh bèn tiến lên một địa vị [cao hơn], được một phần Tam Đức bí tạng. Theo thứ tự như thế, đến địa vị cuối cùng là Đẳng Giác mới đoạn sạch bốn mươi mốt phẩm vô minh, lại đoạn một phẩm vô minh, tiến lên một địa vị nữa, mới có thể thành tựu quả Phật rốt ráo phước huệ viên mãn. Như vậy, quả thật chẳng phải là chuyện dễ dàng. Mọi người hiểu được đạo lý này thì mới chẳng hiểu lầm! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Có kẻ nói: “Đạo lý minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật trong Thiền Tông chẳng phải là rất hay ư?” Trọn chẳng biết “kiến tánh thành Phật” chính là thấy được vị Phật thiên chân trong Tự Tánh thì gọi là “thành Phật”, hoàn toàn chẳng phải là trở thành vị Phật rốt ráo viên mãn phước huệ! Vì sao vậy? Là vì người trong Tông Môn (Thiền Tông) khi công phu đạt đến mức khai ngộ liền biết chân tánh của chính mình lẫn người khác vốn giống hệt như Phật, vì thế gọi là “kiến tánh thành Phật”. Nhưng những phiền não thô - tế của người ấy còn chưa đoạn mảy may nào, bất quá, có thể thường tự giác chiếu , chế ngự phiền não, xử sự gần giống với bậc thánh nhân. Nếu đánh mất công phu giác chiếu, không chế ngự được phiền não, bèn tạo nghiệp so với người khác lại càng dữ dội hơn, vì trong phiền não của kẻ ấy có chen lẫn sức mạnh khai ngộ, biến thành cuồng huệ. Bởi đó, năng lực tạo nghiệp cũng mạnh mẽ dị thường! Như vậy thì không những chẳng có hy vọng thành Phật, mà còn phải đọa lạc trong ba đường ác. Vì thế, người đã khai ngộ càng phải ra sức tấn tu, luôn luôn giác chiếu. Đến khi đoạn sạch Kiến Tư phiền não mới là lúc liễu sanh thoát tử, hoàn toàn chẳng phải là hễ ngộ liền liễu! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Bậc thánh nhân Sơ Quả đoạn Kiến Hoặc, phải trải qua bảy lần sanh lên cõi trời, bảy lần sanh trong cõi người, tu tập trong thời gian kiếp số lâu dài mới có thể chứng được quả A La Hán, liễu sanh tử. Nhị Quả cũng phải một lần sanh lên trời, một lần trở xuống cõi người mới có thể chứng được Tứ Quả. Tam Quả tuy đã đoạn sạch Tư Hoặc thuộc Dục Giới, nhưng vẫn phải ở trong Ngũ Bất Hoàn Thiên , tu tập dần dần theo thứ tự, mới có thể đoạn sạch Tư Hoặc, chứng Tứ Quả. Đây là thoát khỏi tam giới tính theo bậc Vô Học thánh nhân . Nếu như là bậc Tam Quả độn căn, phải sanh lên Tứ Không Thiên, từ Không Vô Biên Xứ Thiên cho đến Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, mới chứng được Tứ Quả. Còn Hoành Siêu là như con sâu ấy chẳng hướng lên trên đục thủng từng lóng từng lóng một mà chỉ cắn thủng một lỗ bên hông [lóng tre] liền thoát ra được. Cách này so với Thụ Xuất bớt được nhiều công sức lắm. Người niệm Phật cũng giống như thế, tuy chưa đoạn trừ Kiến Tư phiền não, chỉ cần có thể đầy đủ ba món tư lương Tịnh Độ là Tín - Nguyện - Hạnh, lâm chung liền có thể cảm động A Di Đà Phật đến tiếp dẫn người ấy sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đến được cõi nước thanh tịnh đó rồi, Kiến Tư phiền não chẳng đoạn mà tự đoạn. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Tôi hoàn toàn chẳng nói các pháp môn khác không hay, nhưng thật ra là do các pháp môn có pháp khế lý nhưng không khế cơ, có pháp khế cơ nhưng không khế lý. Chỉ có pháp môn Niệm Phật này thích hợp khắp ba căn, gồm thâu lợi căn, độn căn, lý lẫn cơ đều phù hợp chẳng thể nghĩ bàn! Nhất là trong đời Mạt Pháp này, nó lại càng thích hợp với căn tánh chúng sanh. Do vậy, kinh Đại Tập dạy: “Đời Mạt Pháp, ức ức người tu hành, hiếm một ai đắc đạo. Chỉ nương theo pháp Niệm Phật là được thoát khỏi sanh tử”. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Khi đức Phật còn tại thế, mười người tu hành có đến chín người có thể thành đạo, vì con người lúc đó thiên tánh thuần hậu, căn cơ rất lanh lẹ, bén nhạy. Về sau này, chúng sanh nghiệp chướng ngày càng tăng thêm, căn cơ cũng dần dần hèn kém hẳn đi; nếu muốn giống như trước thì không thể được! Nhưng vào thời Tấn, thời Đường, vẫn có những người có thể cậy vào tự lực để liễu thoát sanh tử, nhưng đã ngày càng giảm ít, càng về sau càng ít. Cho đến hiện tại, đã không còn có người giống như vậy nữa! Xét theo đó, sẽ hiểu cậy vào sức của chính mình để đoạn phiền não hòng liễu sanh tử là một chuyện rất khó. Lúc này, nếu vẫn chẳng biết tự lượng sức, muốn ăn nói lớn lối, coi nhẹ pháp môn Niệm Phật hoành siêu này, đi tu các pháp môn khác thì e rằng muốn liễu sanh tử còn khó hơn lên trời! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Pháp môn Tịnh Độ chúng ta đang tu trì đây là pháp thù thắng, trỗi vượt nhất, mọi người chớ nên xem thường. Vì sao vậy? Vì các pháp môn do đức Phật đã nói không gì chẳng phải là xét theo căn cơ để nói, giống như dựa trên chứng bệnh mà cho thuốc vậy. Nếu như căn cơ của chính mình chẳng tương ứng với pháp môn ấy mà cứ tu tập thì rất khó được lợi ích. Hết thảy pháp môn đều cậy vào Tự Lực để tu Giới - Định - Huệ, đoạn tham - sân - si, ắt phải đoạn sạch Hoặc nghiệp mới có thể liễu sanh thoát tử. Nếu như phiền não còn sót mảy may nào chưa đoạn sạch thì vẫn chẳng thể tránh khỏi sanh tử, huống chi là kẻ hoàn toàn chưa đoạn ư? Điều này cần phải dùng sức của chính mình thực hiện triệt để thì mới được. Chỉ có một pháp Niệm Phật là do đức Như Lai ứng theo mọi căn cơ mà nói, cũng là do đại bi nguyện lực của A Di Đà Phật thành tựu. Bất luận thượng trung hạ căn đều có thể tu học. Dẫu phàm phu hoàn toàn chưa đoạn được mảy may phiền não Hoặc nghiệp nào đi nữa, chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha rồi thực hành niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì cũng có thể được Phật tiếp dẫn, đới nghiệp vãng sanh. Hễ được vãng sanh liền có thể liễu thoát sanh tử; vì thế, nói [pháp môn này] là thù thắng nhất! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Tháng Hai năm Dân Quốc 19 (1930), Quang đến đây [Linh Nham Sơn Tự* ]; tháng Tư liền bế quan, đã hơn sáu năm rồi. Do già cả, bất tài, chỉ muốn chết già trong nơi bế quan. Vì các vị trong hội Phật giáo mời mọc, xin Quang mỗi ngày giảng khai thị một lần trong pháp hội Hộ Quốc Tức Tai, chỉ rõ lý “nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo”, đề xướng pháp “tín nguyện niệm Phật, liễu thoát ngay trong đời này” để cứu vãn thế đạo lòng người. Cố sức từ chối chẳng được, bèn vào ngày mồng Sáu tháng này ra khỏi chỗ bế quan đến đất Hỗ (Thượng Hải), nhằm trọn nghĩa vụ hộ quốc của tôi. Ngày Mười Lăm viên mãn, ngày Mười Sáu vì họ nói Tam Quy - Ngũ Giới. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 15: LNST Các vị đã quy y* thì phải nên cung kính thọ Tam Quy để làm cái gốc nhằm bỏ tà theo chánh, giữ Ngũ Giới cẩn thận để làm cái nguồn nhằm đoạn ác, tu thiện. Phụng hành Thập Thiện để làm cái gốc nhằm thanh tịnh ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý. Từ đó, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Tam nghiệp đã tịnh, rồi có thể tuân tu đạo phẩm, liễu sanh thoát tử, được dự vào hội tốt lành nơi Cực Lạc. Thiện - ác, nhân - quả như bóng theo hình, chẳng hề sai lầm. Thật sự làm như vậy sẽ được lợi ích thật sự. Nếu mua danh chuốc tiếng, thích nói cuồng vọng, lừa mình, dối người, tự bảo đã đắc Phật đạo thì là đại vọng ngữ, ắt sẽ mắc ác báo. Người tu hành tâm địa phải quang minh, ba nghiệp thanh tịnh, công đức vô lượng. Quán kinh dạy: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm không giết, tu Thập Thiện nghiệp là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật”. Buông dao đồ tể xuống, thành Phật ở chính ngay nơi ấy, đã có người làm được như thế. Xin ai nấy hãy gắng lên. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 8 Kinh Dịch chép: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh. Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (Nhà tích thiện, niềm vui có thừa; nhà tích ác, ương họa có thừa), ý nói: Dư khánh, dư ương báo ứng vào con cháu. Còn bổn khánh, bổn ương vận vào chính thân mình. Dư khánh, dư ương người khác thấy được, còn bổn khánh, bổn ương thì chính mình ngay trong đời này hay trong đời kế tiếp, hoặc đời sau phải hứng chịu, người đời chẳng thể thấy được. Thiên, địa, quỷ thần, Phật, Bồ Tát đều thấy biết từng sự rõ ràng. Hãy nên biết rằng: Bổn khánh, bổn ương so với dư khánh, dư ương lớn hơn gấp trăm, ngàn, vạn lần. Vì thế, xin người đời hãy nỗ lực tu trì, ngõ hầu được vui mừng, trừ ương họa vậy. Ông Tào cam chịu tiếng “trộm cắp” để cứu tánh mạng người khác, thiện báo ứng vào con cháu. Nếu chính mình có thể thay cho con cháu niệm Phật, cầu Tam Bảo gia bị, dạy con cháu ai nấy cũng ăn chay, niệm Phật thì thiện báo sẽ ở tại Tây Phương! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 8 Hiếu liêm Tào Cẩm Ðào ở Tô Châu đời Thanh giỏi y thuật bất cứ bệnh ngặt nghèo nào, gặp tay ông đều khỏi. Một bữa, lúc ông sắp ra khỏi cửa, chợt có một người đàn bà nghèo quỳ ngoài cửa, khóc lóc xin ông chữa bệnh cho mẹ chồng, than: “Gia cảnh nghèo túng, nghe ngài sẵn lòng từ bi, nhất định sẽ đoái hoài đến trị”. Ông Tào liền đến trị. Ðến lúc ông ra về, dưới chiếc gối của mẹ chồng người đàn bà nghèo có năm lạng bạc trắng, chẳng biết đi đâu mất, tưởng ông Tào trộm đi, người đàn bà bèn đến nhà hỏi. Ông Tào bèn cứ đúng số đưa cho. Người đàn bà nghèo về đến nhà, [thì ra] mẹ chồng đã lấy bạc ra. Người đàn bà hổ thẹn vô cùng, lại đem bạc đến trả lại, tạ tội, hỏi ông: “Sao ngài lại tự đổ hô mình trộm bạc?” Ông Tào bảo: “Tôi chỉ muốn mẹ chồng bà chóng khỏi bệnh! Nếu tôi chẳng nhận, mẹ chồng bà ắt sẽ thêm lo lắng bệnh nặng hơn, hoặc đến nỗi khó lành bệnh được! Vì thế, chỉ mong mẹ chồng bà lành bệnh, chẳng sợ người ta bảo tôi trộm bạc”. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 8 Người học Phật đã hiểu rõ các ý nghĩa Tam Quy*, Ngũ Giới, Thập Thiện rồi thì hãy dốc hết sức giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, ngăn lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành. Ðiều cần phải chú ý nhất là làm bất cứ việc gì, đều phải dựa vào thiên lý, lương tâm. Như người làm nghề Y mà có lương tâm, cứu người [trong cơn] nguy cấp sẽ tích lũy âm công (âm đức) lớn lao. Kẻ không có lương tâm có thể sẽ làm cho người bệnh nhẹ chuyển thành nặng, thừa nước đục thả câu, táng tận lương tâm, nhất định lãnh ác quả. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 8 * Ðã quy y* Phật hãy nên thờ Phật làm thầy; bắt đầu từ nay cho đến hết đời, dốc lòng chân thành lễ kính, chẳng chịu lười nhác dẫu chỉ trong một hơi thở. Lại chẳng được quy y thiên ma, ngoại đạo, tà quỷ, tà thần. * Ðã quy y Pháp, nên lấy Pháp làm thầy, từ nay cho đến hết đời, chẳng quy y kinh điển ngoại đạo nữa. * Đã quy y Tăng nên lấy Tăng làm thầy, bắt đầu từ nay cho đến hết đời, chẳng còn quy y đồ chúng ngoại đạo nữa. Nếu đã quy y Tam Bảo mà còn tin tưởng ngoại đạo, tôn thờ tà ma, quỷ thần thì tuy hằng ngày niệm Phật, tu trì, cũng khó lòng được lợi ích chân thật, vì tà - chánh chẳng phân, chắc chắn chẳng có hy vọng liễu thoát sanh tử. Ai nấy nên nghiêm chỉnh vâng giữ như thế - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 8 Do biết Tự Tánh Tam Bảo, từ đấy khắc kỷ, phản tỉnh, xem xét, kiêng dè, gắng sức, lại cầu nơi Trụ Trì Tam Bảo và mười phương tam thế hết thảy Tam Bảo thì tiêu trừ được ác nghiệp, tăng trưởng thiện căn, thành tựu đạo nghiệp ngay trong đời này, vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử, luân hồi. Giống như được cứu, leo lên thuyền, ngồi yên đến bờ. Hung hiểm lúc ấy đã qua, hiện tại mừng được sống sót. Bởi đó được vô hạn lợi ích. Ðấy chính là ý nghĩa “nương, gởi” vậy. Việc đời rối ren, phiền não đau khổ, sống trong biển cả sanh tử này, hãy nên lấy Tam Bảo làm thuyền. Chúng sanh được quy y*, đẩy chèo, giương buồm, chẳng lười nhác, chẳng lui sụt, tự lên được bờ kia! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 8 Quy* (歸) là quay về, đổ vào, như nước đổ vào biển, như dân hướng về vua. Y (依) là nương gởi, như con nương vào mẹ, như vượt [sông, biển] nương nhờ thuyền. Con người giữa biển cả sanh tử nếu chẳng quay về nương nhờ Tự Tánh Tam Bảo và Trụ Trì Tam Bảo thì không cách gì thoát ra được! Nếu chịu phát tâm chí thành quy y Tam Bảo, tu hành đúng như pháp thì liền ra khỏi biển khổ sanh tử, liễu sanh thoát tử. Như người lỡ chân rớt xuống biển cả, sóng dữ bủa cuồn cuộn, lo bị ngập mất đầu. Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, sanh tử tồn vong ấy, chợt có con thuyền đi đến, liền đuổi theo, trèo lên. Ðấy là nghĩa “quay về, gieo vào” vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 8 Vả nữa, Tam Bảo vừa nói đó có hai loại là Tự Tánh [Tam Bảo] và Trụ Trì [Tam Bảo]. Tự Tánh Tam Bảo: * Phật nghĩa là Giác Ngộ. Tự Tánh Phật chính là Chân Như Phật Tánh ly niệm linh tri sẵn có trong tự tâm. * Pháp nghĩa là quỹ phạm (khuôn phép). Tự Tánh Pháp chính là khuôn mẫu đạo đức, nhân nghĩa cao quý sẵn có trong tâm. * Tăng nghĩa là Thanh Tịnh. Tự Tánh Tăng chính là tịnh hạnh thanh tịnh vô nhiễm sẵn có trong tâm. Trụ Trì Tam Bảo: * Lúc đức Phật Thích Ca còn tại thế thì Ngài là Phật Bảo. Sau khi Phật diệt độ, tất cả các tượng Phật bằng vàng, bằng đất, gỗ chạm, tranh vẽ đều là Phật Bảo. * Các pháp ly dục thanh tịnh Phật đã giảng, và các kinh điển sách vàng, trục đỏ đều là Pháp Bảo. * Người xuất gia áo thâm, tu các hạnh thanh tịnh đều là Tăng Bảo. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 8 Hôm nay là ngày quý vị quy y* . Quý vị đã quy y thì nên hiểu rõ đạo lý quy y, nay tôi trình bày cùng quý vị. Vì sao quý vị quy y? Tôi nghĩ nói chung là chẳng ngoài việc muốn cầu sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử mà thôi! Như thế nào mới đạt được những mục tiêu này? Tức là phải quy y Tam Bảo, nghĩa là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Có quy y Tam Bảo, tu trì chân thật thì mới được liễu thoát sanh tử, vãng sanh Tây Phương. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 8 Hơn nữa, hiện thời những dụng cụ giết người trong cõi đời mỗi ngày mỗi mới mẻ, mỗi tháng mỗi khác biệt, nào là phi cơ, đại bác, hơi độc, tia sáng chết chóc v.v… Núi, sông chẳng thể ngăn trở nổi, vật cứng không chống ngăn được, cái thân máu thịt của chúng ta làm sao đương cự được nổi? Mạng người như giọt sương buổi sớm, vô thường một khi xảy đến, muôn sự đều thôi. Bởi thế, muốn cầu lìa khổ được vui thì phải nên kịp thời nỗ lực niệm Phật, cầu Phật gia bị lâm chung vãng sanh. Một phen đạt lên cõi kia, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, hoa nở thấy Phật, chứng được Vô Sanh, mới chẳng cô phụ chuyện được nghe pháp này mà tin nhận vậy. Kính mong đại chúng tinh tấn hành trì, đấy là điều tôi rất mong mỏi. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Pháp môn Tịnh Ðộ khế lý, khế cơ, dùng sức ít mà thành công dễ dàng, như đã căng buồm thuận gió lại còn thuận nước vì nhờ vào Phật lực. Các tông khác dùng sức nhiều mà thành công khó khăn giống như con kiến bò lên núi cao vì hoàn toàn cậy vào tự lực. Ðẳng Giác Bồ Tát muốn cầu viên mãn Phật Quả còn phải cầu vãng sanh Tây Phương, huống hồ là bọn phàm phu chúng ta nghiệp căn sâu nặng, sao chẳng dốc sức vào pháp này? Ðấy là bỏ dễ cầu khó, lầm lạc cùng cực thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Như ông Tô Ðông Pha đời Tống, tuy là hậu thân của thiền sư Ngũ Tổ Giới, luôn mang một bức tranh A Di Ðà Phật theo bên mình, bảo: “Ðây là công cứ Tây Phương của cả đời ta”. Nhưng đến lúc lâm chung, trưởng lão Duy Lâm ở Kính Sơn khuyên nhủ đừng quên Tây Phương, Ðông Pha nói: “Dù Tây Phương chẳng phải là không có, nhưng chẳng thể dốc sức vào đấy được!” Môn nhân là Tiền Thế Hùng thưa: “Ðấy chính là chỗ tiên sinh thường hành trì, hãy nên dốc sức”. Ðông Pha đáp: “Hễ dốc sức vào thì là sai rồi!” Nói xong liền mất. Ðấy chính là bằng chứng hùng hồn của chuyện tự lầm lạc bởi thông minh vậy. Mong quý vị ai nấy đều chú ý. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Ông Dương Kiệt đời Tống, tự là Thứ Công, hiệu Vô Vi Tử, tham học với thiền sư Thiên Y [Nghĩa] Hoài, đại ngộ. Sau do cư tang mẹ, đọc Ðại Tạng, hiểu sâu xa sự thù thắng của pháp môn Tịnh Ðộ nên tận lực tự hành, dạy người hành. Lâm chung nói kệ rằng: Sanh thì cũng chẳng tiếc gì, Chết rồi cũng chẳng bỏ đi đâu nào, Hư không hư huyễn sá chi, Ðem lầm đáp lẫn để về Tây Phương Ông Dương Kiệt sau khi đại ngộ, quy tâm Tịnh Ðộ, cực lực đề xướng; đến lúc lâm chung nói: Trong chân tánh thì sanh tử như hoa đốm trong hư không, nhưng do chưa chứng được chân tánh thì chẳng thể không chú trọng cầu vãng sanh Tây Phương. “Ðem lầm đáp lẫn” nghĩa là nếu đã triệt chứng chân tánh thì chẳng cần phải cầu sanh Tây Phương nữa vì cầu được vãng sanh vẫn còn là lầm lạc! Chưa chứng ngộ chân tánh thì phải nên cầu vãng sanh Tây Phương, cho nên mới nói: “Ðem lầm đáp lẫn để về Tây Phương”. Trong tác phẩm Vãng Sanh Tập, cuối truyện ông Dương Kiệt, Liên Trì Ðại Sư đã viết bài tán như sau: “Tôi mong những kẻ thông minh tài trí trong thiên hạ đều có thể thành tựu loại lầm lạc này. Ðấy có thể bảo là thực sự đại thông minh mà chẳng bị thông minh làm lầm lạc vậy”. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Phật pháp trừ khử tham - sân - si chính là “cách vật”. Tu Giới - Ðịnh - Huệ chính là “trí tri”. Món vật Tham - Sân - Si chất chứa trong tâm thì cũng như đeo cặp kính màu để nhìn mọi vật sẽ chẳng thể thấy được màu thật của chúng. Họa hại của vật [dục] chẳng đáng sợ sao? Người niệm Phật cũng đừng ỷ mình thông minh, trí huệ, mà cần phải vứt bỏ [những điều ấy] ra tận ngoài biển Ðông. Nếu không, e rằng sẽ bị chúng gây lầm lạc, tự chuốc buồn khổ. Bởi lẽ, do thấy biết nhiều nhưng không chuyên nhất, đâm ra chẳng bằng hạng ngu phu, ngu phụ niệm Phật, chánh tâm, thành ý được hưởng ích lợi rất nhiều. Vì thế, một pháp Niệm Phật tốt nhất là phải học theo ngu phu, ngu phụ, [lấy việc] thật thà tu trì làm chánh yếu. Tục ngữ có câu: “Thông minh phản bị thông minh ngộ” (Thông minh đâm ra lại bị lầm lạc vì thông minh), chẳng đáng sợ sao? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Người học Phật cần phải chăm chú bỏ cái thấy ta - người, cần phải tự lập, lập người, tự lợi, lợi người. Có vậy mới có thể nói là “nhập đạo”.Tức là như sách Ðại Học chép: “Người xưa muốn làm sáng tỏ Minh Đức trong thiên hạ thì trước hết phải giữ yên đất nước. Muốn giữ yên đất nước thì trước hết phải giữ yên gia đình. Muốn giữ yên gia đình thì trước hết phải sửa đổi thân mình. Muốn sửa đổi thân mình thì trước hết cái tâm phải ngay thẳng. Muốn cái tâm ta ngay thẳng thì trước hết phải giữ cho cái ý chân thành. Muốn cho cái ý chân thành thì trước hết phải đạt đến chỗ hiểu biết. Ðạt đến chỗ hiểu biết nằm ở chỗ trừ khử vật dục”. Chữ “vật” được nói ở đây chỉ lòng tư dục chẳng phù hợp với thiên lý và tình người. Hễ đã có tư dục ắt tri kiến sẽ lệch lạc, tà vạy, chẳng còn ngay thẳng nữa. Chẳng hạn như kẻ đã yêu vợ, thương con thì dù vợ con có hư đốn, kẻ đó cũng chẳng thấy là hư hỏng. Do tư dục yêu thương mê mệt ngăn lấp lương tri sẵn có, nên trở thành sự thấy biết xấu ác, lệch lạc, tà vạy, bất chánh. Nếu có thể trừ khử sạch tâm niệm yêu thương mù quáng thì những chuyện vợ con đúng hay sai sẽ thấy rõ ngay lập tức. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Cần biết rằng: Những người an phận giữ mình trong cõi đời, một khi hiển thị thần thông xong liền thị hiện tịch diệt lìa đời để khỏi bị tăng thêm phiền não. Nếu không, phải như ngài Tế Ðiên làm ra vẻ si cuồng, không ra trò gì để người ta nửa tin nửa ngờ, không thể đoan chắc thì mới được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Thời Lương, tại núi Thanh Thành ở đất Thục (Tứ Xuyên), có vị Tăng tên là Ðạo Hương có đại thần lực, nhưng giấu kín chẳng tiết lộ. Núi ấy có lệ hằng năm mở hội, lúc đó mọi người ăn uống no say, giết hại sanh vật vô số. Ngài Ðạo Hương khuyên can nhiều lần, họ chẳng nghe. Năm ấy, Ngài đào một cái hố to ở ngoài sơn môn, bảo mọi người: “Các ông đã ăn no, xin chia cho tôi một bát canh, có được không?” Mọi người ưng thuận. Khi đó, ngài Ðạo Hương cũng ăn uống thật no say, nhờ người dìu đến trước hố ọe hết ra. Những con vật ngài đã ăn vào: Con nào bay được thì bay lên, con nào chạy thì chạy đi, tôm, cá, thủy tộc ói ra ngập cả hố. Mọi người kinh sợ, kính phục, liền vĩnh viễn kiêng sát sanh. Về sau, ngài Ðạo Hương nghe lời Chí Công [răn nhắc là đã tự làm rẻ rúng mình khi hiện thần thông] liền hóa (tịch diệt) - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Lại có một hạng người nói: “Ta ăn thịt trâu, dê, gà, vịt… là vì muốn độ thoát chúng nó!” Chẳng những Hiển Giáo không có thuyết này, ngay trong Mật Giáo cũng không có. Nếu quả thật có thần thông như ngài Tế Ðiên thì còn được. Chứ nếu không, đó chỉ là tà thuyết khiến người lầm lạc, tự chuốc lấy tội. Hạng hết sức vô liêm sỉ mới dám nói như thế! Người học Phật phải hiểu rõ ràng khả năng của mình, chớ nên xằng bậy tự khoe khoang lớn lối, mong mỏi vậy thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Sách Khuyến Giới Loại Biên có chép: Ông họ Triệu nọ làm huyện lệnh huyện Bồ Thành, tỉnh Phước Kiến, ăn chay trường thờ Phật. Vợ ông hoàn toàn không có lòng tin. Ngày hôm trước bữa sinh nhật, bà ta mua khá nhiều sanh vật tính giết đãi khách. Họ Triệu bảo: “Bà muốn chúc thọ mà lại làm cho chúng nó bị chết, nên chăng?” Vợ bảo: “Ông nói toàn lời vô ích! Nếu theo như Phật pháp, nam nữ chẳng được ngủ chung, chẳng giết sanh mạng, thì hóa ra mấy chục năm sau, tràn ngập thế gian toàn là súc sanh!” Ông Triệu cũng không có cách gì khuyên giải được. Đến đêm, người vợ mơ thấy đi vào nhà bếp, thấy giết lợn mà chính mình bị biến thành lợn, bị giết chết rồi vẫn còn biết đau. Lúc bị cạo lông, phanh bụng, móc ruột, cắt phổi, đau khổ không thể chịu được nổi! Sau đấy, giết đến gà, vịt v.v… đều thấy chính mình là những con vật bị giết. Ðau quá sức, tỉnh cả ngủ, tim run, thịt giựt. Từ đấy phát tâm thả hết những loài vật mình đã mua, ăn chay trường. Người này đời trước có căn lành lớn nên mới cảm được Phật từ gia bị, khiến cho bà ta đích thân chịu khổ để dứt ác nghiệp. Chứ nếu không sẽ đời đời, kiếp kiếp nộp thân cho người ta ăn [để đền nợ sát sanh]! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Hoặc lại có kẻ bảo: “Loài lợn, dê, cá, tôm… vốn do trời sanh để nuôi dưỡng con người, ăn chúng nào có mắc tội gì?” Ðây là do chưa trải qua cảnh đó nên mới nói bừa như thế. Nếu đích thân trải qua cảnh ấy thì mong được cứu còn không xuể, nào có dịp biện bác. … Những kẻ giết sanh vật ăn thịt trong cõi đời nếu có thể nghĩ tưởng đặt chính mình vào trong hoàn cảnh [của loài vật] thì khó gì mà chẳng quay đầu ngay khi ấy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Vả nữa, lòng Hiếu thế gian: Cha mẹ còn sống thì hầu hạ, phụng dưỡng, cha mẹ đã khuất thì chỉ tới ngày [cha mẹ] mất mới làm cỗ cúng bái để trọn hết dạ làm con. Nếu như cha mẹ tội lớn, đọa trong dị loại, nào ai có thể biết trong đám sinh vật bị giết hại để ăn ấy, chắc chắn không có ai từng là cha mẹ ta ư? Không thông hiểu lý ba đời vô tận, cậy vào sự hiếu nhỏ nhoi mấy mươi năm để trách người, sự thấy biết ấy nhỏ nhoi, nông cạn, đáng thương xót thay! Vì thế, Phật dạy người ta kiêng giết, phóng sanh, ăn chay, niệm Phật, lòng từ bi cứu giúp cũng lớn lao thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Phật pháp và thế gian pháp vốn chẳng phải là hai thứ! Nếu có kẻ cho rằng nhà Phật “từ thân cắt ái” (từ biệt cha mẹ, cắt đứt tình yêu thương) là bất hiếu thì đó là cái nhìn hạn cuộc trong đời này, là cái nhìn nông cạn chẳng biết tới quá khứ, vị lai. Chữ Hiếu đối với cha mẹ trong nhà Phật thông cả ba đời. Vì thế kinh Phạm Võng dạy: “Nếu là Phật tử thì do Từ tâm sẽ hành nghiệp phóng sanh, coi hết thảy đàn ông là cha ta, coi hết thảy đàn bà là mẹ ta. Ta trong đời đời, không lúc nào không do họ sanh ra. Bởi vậy, chúng sanh trong sáu đường đều là cha mẹ ta. Giết họ để ăn tức là giết cha mẹ ta!” Ðối với hết thảy chúng sanh, Phật đều nghĩ thương xót độ thoát, ấy là Hiếu chẳng phải là vừa rộng lại vừa xa ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Vả nữa, Phật pháp nhằm dạy người đối trị phiền não, tập khí, nên có Tam Học Giới - Ðịnh - Huệ làm căn bản. Bởi lẽ, Giới ràng buộc cái thân thì chẳng dám làm điều trái đức nghịch lý, chẳng dám thốt lời vô ích có hại. Do Giới sanh Ðịnh nên những tạp niệm vọng loạn rối bời trong tâm sẽ dần tiêu, những hành vi hồ đồ sẽ tự ngưng. Do Ðịnh phát Huệ nên Chánh Trí mở mang, phát khởi, Phiền Hoặc tiêu diệt, thực hiện các thiện pháp thế gian hay xuất thế gian không pháp nào là chẳng phù hợp với Trung Ðạo vậy! Ba thứ Giới - Ðịnh - Huệ đều là Tu Ðức, đều là tâm thể do đích thân Chánh Trí thấy được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Ðiều quan trọng là tự giác. Hễ giác thì chẳng chịu thuận theo mê tình, cuối cùng đạt đến chỗ giác vĩnh viễn chẳng mê. Nếu chẳng tự giác sẽ hằng ngày muốn người khác khen ngợi ta là lành, nhưng hằng ngày tận lực làm các điều ác, chẳng đáng buồn lắm ư? [Sự kiện] con người ai cũng có ý niệm thích được người khác khen ta là lành đủ chứng tỏ chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng hành vi thuận theo tánh hay trái nghịch tánh thì: Một là do mình tự cố gắng hay tự buông lung, hai là do thiện hay ác tri thức chỉ bày, dẫn dụ. Đời nay, tai nạn phát sanh dồn dập, quá nửa là do con người phần nhiều chẳng chuộng thực tế, ham chuộng mong mỏi hư danh, ham danh ghét thật, trái nghịch bản tâm của chính mình mà nên nỗi! Nếu có thể hồi quang phản chiếu, tỏ rõ Phật tánh vốn sẵn có, chẳng lừa mình, dối người, biết lễ nghĩa, biết liêm sỉ thì cái căn bản đã lập, chẳng còn làm chuyện nghịch lý loạn đức, ắt tai hoạn sẽ tự dứt vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Lục Tổ đại sư nói: Phật pháp tại thế gian, Chẳng rời thế gian giác Lìa đời tìm Bồ Ðề Khác nào tìm sừng thỏ. Vì vậy, biết rằng: Hết thảy mỗi sự mỗi vật trong thế gian đều là Phật pháp. Chúng ta khởi tâm động niệm đều phải rành rẽ, minh bạch, chẳng được để vọng niệm làm mê. Ngay cả những kẻ cực ác, bại hoại nhất trong thế gian cũng như những đứa trẻ non nớt nếu có ai nói đến những điều bất thiện thì giận, nghe điều lành thì vui. Sự giận dữ đối với điều bất thiện, vui vẻ đối với điều thiện há chẳng phải là Chân Tâm Bản Giác phát hiện ư? Điều đáng tiếc là chẳng biết tự quay lại để mở rộng [cái tâm giận điều ác, vui điều lành] ra, vẫn cứ suốt ngày làm chuyện chẳng lành, đến nỗi trở thành ham danh, ghét thật, lọt vào hạng tiểu nhân. Giả sử họ có thể tự phản tỉnh: “Ta đã vui với điều thiện thì hãy nên tận lực làm việc lành, tận lực ngăn ngừa điều ác thì gần là mong thành hiền, thành thánh; xa là liễu sanh thoát tử, thành giác đạo của Phật”. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Người tu hành cần phải giấu tài, ẩn đức, phơi bày tội lỗi. Nếu chuộng phô trương tiếng tăm, oai thế rỗng tuếch, bày trò giả dối, dù có tu hành cũng bị cái tâm dối trá rỗng tuếch ấy làm hư mất hết! Vì thế, Phật đặc biệt coi tội vọng ngữ là giới căn bản của các giới để ngăn ngừa tâm hư ngụy, ngõ hầu [người tu học đạo Phật] sẽ chân tu, thực chứng. Người tu hành chẳng được hướng về hết thảy mọi người khoe khoang công phu của chính mình. Nếu như vì chính mình chẳng thể hiểu thật rành rẽ, muốn cầu thiện tri thức khai thị, ấn chứng, thì cứ theo đúng sự thực mà trình bày trực tiếp, chớ nên kiêu căng nói quá lên, cũng chớ nên tự khiêm nói giảm đi, cứ dựa theo bổn phận của chính mình mà nói thì mới là đệ tử Phật thật sự, mới có thể mỗi ngày một thấy được lợi ích nhiều hơn. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Giết, trộm, dâm… cố nhiên là tội nặng, nhưng con người biết những hành vi ấy chẳng tốt, không đến nỗi ai nấy đều bắt chước theo, nên tội ấy vẫn còn nhẹ. Nếu chẳng tự lượng, phạm tội đại vọng ngữ, chưa đắc đã bảo đắc, chưa chứng đã nói chứng để dẫn dắt những hạng vô tri, ai nấy đều bắt chước theo, hoại loạn Phật pháp, làm chúng sanh bị nghi ngờ, lầm lạc, tội ấy nặng không thể hình dung được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Người học Phật hiện tại có lắm kẻ tự bảo ta đã khai ngộ, ta là Bồ Tát, ta đã đắc thần thông đến nỗi gây lầm lạc cho nhiều người. Một mai Diêm lão réo mạng, lúc mạng sắp chấm dứt, khi ấy cầu sống chẳng được, đau khổ mà chết, chắc chắn đọa địa ngục A Tỳ. Chớ nên nhiễm đắm thói ác của những kẻ ham cao, chuộng xa, dối mình, lừa người ấy; nếu có thì phải sửa ngay. Nếu không có thì càng thêm cố gắng. Hãy kiêng dè, hãy đề phòng! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 7 Sự thể trong thế gian đều khó thể nghĩ bàn cả! Như mắt thấy, tai nghe là chuyện cực bình thường, ai ai cũng biết cả, nhưng nếu hỏi vì sao mắt thấy được, vì sao tai nghe được thì những người biết rất ít! Trong Phật pháp cũng có những sự chẳng thể nghĩ bàn nhưng lại nghĩ bàn được, có những sự có thể nghĩ bàn nhưng lại chẳng thể nghĩ bàn được. Thần diệu nhưng minh bạch, tồn tại ngay trong con người, há nên dùng lẽ thường tình để suy lường ư! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Trong thế gian chuyện vượt ngoài tình lý khá nhiều, chẳng thể vì chúng không hợp khoa học mà coi thường được! Chẳng hạn như cách trị bệnh sốt rét thì dùng một tấm giấy trắng rộng hai tấc, viết ô mai (hai trái), hồng táo (hai trái), hồ đậu (tùy theo bệnh nhân bao nhiêu tuổi, viết bấy nhiêu hạt. Như mười tuổi, viết mười hạt. Hai mươi tuổi viết hai mươi hạt) xếp lại. Trước lúc cơn bệnh phát ra khoảng một tiếng đồng hồ, quấn trên bắp tay, nam bên trái nữ bên phải, thì bệnh sẽ chẳng phát nữa. Trăm lần áp dụng, trăm lần hiệu nghiệm. Dù bệnh đã hai ba năm chẳng lành, cũng chữa lành được. Chẳng phải bùa, chẳng phải chú, chẳng phải thuốc mà trị lành được bệnh ngặt, há có thể vận dụng lý thông thường để giải thích hay chăng? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Trâu, dê v.v… lúc bị giết tuy chẳng nói được, nhưng chất độc do lòng oán hận kết lại trong thịt nơi thân chúng cũng chẳng ít ỏi gì! Kẻ biết tự thương mình cố nhiên phải nên kiêng [ăn thịt] vĩnh viễn để tránh khỏi các thứ tai họa trong đời này, đời sau! Chuyện này rất ít người biết; vì thế, phải nêu rõ ra, mong sao mọi người lưu ý. Lấy đó làm chứng, cần biết rằng: Khi người ta nóng giận, chẳng những sữa có chất độc mà nước mắt, nước miếng cũng đều có chất độc. Nếu những thứ này rơi rớt vào mắt, vào thân trẻ nhỏ cũng gây hại chẳng cạn. Có một vị bác sĩ đến quy y, tôi hỏi ông ta: “Trong sách thuốc có nói đến điều này hay không?” Ông ta đáp: “Không biết!” - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Gần đây, có một bà cụ đến quy y, tôi bảo cụ ăn chay vì thịt có chất độc và kể chuyện người phụ nữ Âu Tây do nóng giận mà sữa hóa thành chất độc làm chết hai đứa con để làm chứng. Bà cụ ấy bảo bà ta cũng có hai đứa con cũng bị chết giống như vậy, vì ông chồng cụ tánh khí ngang ngược, man rợ, cứ hễ trái ý liền đánh vợ nhừ tử. Con thơ trông thấy khóc òa lên, liền cho con bú. [Ðứa bé] chết liền! Lúc ấy, cụ chẳng biết là chết vì sữa đã trở thành chất độc. Con dâu cụ cũng vì cho con bú mà chết mất một đứa. Ðủ thấy con nít trong đời bị trúng sữa độc chết chẳng biết là bao nhiêu. Từ người phụ nữ Tây Phương phát giác trước tiên cho đến cụ bà này [xác nhận], mới thấy thật minh bạch. Vì thế, phụ nữ cho con bú sữa mẹ chớ nên nổi nóng. Nếu như đang giận dữ quá mức thì hôm ấy đừng có cho con bú, cần phải đợi đến hôm sau, tâm trạng lắng dịu, lúc hết còn giận hờn thì mới [cho con bú] không ngại gì. Nếu ngay hôm đó cho con bú rất có thể làm chết con. Nếu không chết ngay, rất có thể là chết dần dần. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Người đời ăn thịt đã thành thói quen. Hãy nên biết bất cứ loại thịt nào đi nữa đều có chất độc, vì lúc [con vật] bị giết, hận tâm, oán khí ngùn ngụt. [Người ăn vào] tuy chẳng đến nỗi mất mạng ngay lập tức, nhưng tích tập lâu ngày sẽ trở thành ghẻ chốc, tật bệnh. Những phụ nữ trẻ tuổi nếu vừa nổi nóng xong liền cho con bú sữa mẹ, đứa bé có thể bị chết; là vì sự nóng giận khiến cho sữa bị trở thành chất độc. Sự nóng giận của con người vào lúc chưa phải bị đau khổ trí mạng còn độc đến thế, huống là cái đau mất mạng của những loài lợn, dê, gà, vịt, cá, tôm v.v… há có thể nào thịt chúng nó chẳng độc ư? Hơn mười năm về trước, tôi thấy một cuốn sách nói: “Một phụ nữ Âu Tây tánh tình nóng nảy quá mức, [ngày nọ] vừa nổi nóng xong, cho con bú, đứa bé chết ngay, chẳng biết vì nguyên do gì. Về sau lại sanh đứa khác, lại nhân lúc nóng giận xong cho con bú, [đứa bé] chết tươi; bèn đem sữa đi xét nghiệm thì thấy có chất độc, mới biết cả hai đứa con đều chết vì bú sữa độc”. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Vị cao tăng đời Minh là ngài Thọ Xương Huệ Kinh thiền sư lúc sắp được sanh ra khá khó khăn. Ông nội ngài đứng ngoài phòng sanh, vì con cháu niệm kinh Kim Cang để cầu được dễ sanh. Cụ vừa mới mở miệng niệm xong hai chữ Kim Cang, [cháu] liền được sanh. Ông nội bèn đặt tên cho cháu là Huệ Kinh. Lớn lên, quy y và xuất gia đều chẳng lấy tên nào khác. Ngài là vị cao tăng lỗi lạc thời Vạn Lịch (Minh Thần Tông 1573-1620). Do đấy, gẫm xem thì biết là Phật pháp có ích cho cõi đời cũng lớn lắm! Niệm Quán Âm Bồ Tát vào lúc sanh sản có lợi ích như thế đó, há nên bị tà thuyết mê hoặc mà chẳng tín phụng Ngài ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Năm Dân Quốc thứ mười hai (1923), con dâu thứ của ông Viên Hải Quán, tuổi đã hơn năm mươi, có chút học vấn, có hai trai, hai gái. [Lúc] con dâu trưởng của bà ta sắp sanh, một vị cư sĩ bảo: “Con dâu sắp sanh, trong vòng một tháng, không được thờ Phật trong nhà, cũng chẳng được niệm Phật”. Bà ta nghe xong, hồ nghi, vừa may tôi đến đất Hỗ, bèn hỏi ý việc ấy. Tôi nói: “Kẻ mù quáng đặt lời đồn thổi! Về bảo con dâu bà thường niệm Quán Âm, lúc sanh nở cần niệm ra tiếng. Bà và những người săn sóc sản phụ ai nấy đều nên niệm lớn tiếng thì chắc chắn chẳng đến nỗi bị sanh khó và không có những chuyện đau đớn, băng huyết v.v… Mà sau khi đẻ xong cũng chẳng bị các điều nguy hiểm”. Bà ta nghe nói, rất mừng. Qua mấy ngày sau, cháu bé sanh ra, thân rất to, người Hồ Nam sanh con nhất định cân [coi nặng bao nhiêu], đứa bé nặng đến chín cân rưỡi, lại là con so, mà [người mẹ] trọn chẳng đau đớn gì. Vậy mới biết sức đại từ, đại bi của Quán Âm Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn. Bình thường niệm Phật, niệm Bồ Tát, phàm lúc sắp ngủ, lúc rửa chân, tắm gội đều nên niệm thầm. Chỉ có lúc sanh nở chẳng được niệm thầm vì lúc đang sanh phải dùng sức, niệm thầm ắt sẽ bị tức khí thành bệnh. Phải rất chú ý điểm này! Phải biết: Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, Pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh tâm lực cũng chẳng thể nghĩ bàn, chỉ do con người có lòng kiền thành hay không mà thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Hiện tại, người học Phật khá nhiều, nhưng người hiểu biết Phật pháp sâu xa quá ít, trái lại, con người phần nhiều tin vào những lời lẽ của ngoại đạo. Miền Giang - Triết thường đồn rằng: “Người niệm Phật chẳng được vào huyết phòng (phòng đàn bà sanh nở) vì một khi bị mùi máu tanh hôi của bà đẻ suông nhằm, bao nhiêu công đức niệm Phật từ trước tiêu mất hết”. Vì thế, [ai nấy] coi là chỗ phải tránh né, dù là con gái, con dâu của chính mình [sanh nở] đều chẳng dám đến gần. Có kẻ còn né sẵn qua nơi khác từ trước; hơn cả tháng mới dám trở về nhà. Tập tục này phổ biến rất rộng cũng đáng lạ thay! Chẳng biết đó chính là tà thuyết của ngoại đạo làm lầm lạc, điên đảo lòng người, há nên tin bậy? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Lại nữa, con ông Lý Cận Đan ở Trấn Hải làm nhân viên buôn bán cho một hãng ngoại quốc, bị bịnh thổ huyết đã hai năm. Có lúc thổ huyết thình lình, dẫu là lúc không thổ huyết thì trong đàm cũng thường lẫn máu. Một ngày, anh ta bị bọn cướp bắt. Cận Đan sợ hãi vô cùng, cả nhà niệm Quán Âm cầu cứu. Lại thỉnh chư Tăng chùa Pháp Tạng trợ niệm. Sau đấy, bọn cướp đòi tiền chuộc năm mươi vạn đồng! Nhà họ Lý chỉ có năm vạn. Tên đầu sỏ bọn cướp bảo không đủ năm mươi vạn là không xong; nhưng mỗi khi hắn đề cập đến năm mươi vạn, đầu liền bị nhức buốt, sau đành phải chấp thuận năm vạn tiền chuộc. Từ khi con ông Cận Đan được bọn cướp thả về, chẳng những không bị thổ huyết, mà ngay cả khạc đàm cũng chẳng thấy lẫn máu nữa! Bệnh dây dưa suốt hai năm do bị cướp bắt, bệnh được khỏi hẳn. Những sự tích cảm ứng vừa thuật trên đây, [quý vị] hãy nên tin tưởng sâu xa. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Lại nữa, ông Trương Thiếu Liêm, giám đốc của một hãng ngoại quốc nọ, trọn chẳng tin Phật. Một ngày kia, ngồi xe hơi lái đến chỗ thanh vắng, hai tên cướp cầm súng đuổi người tài xế đi. Ông Trương nói: “Các ông lên xe ngồi, sai hắn lái đến chỗ nào là được rồi!” Hai tên cướp cầm súng chĩa về phía ông Trương. Ông Trương thầm niệm Quán Âm, xe lái đến chỗ náo nhiệt, chợt có hai người đánh lộn, tuần bộ (cảnh sát) thổi còi, hai tên cướp trèo xuống xe, lủi mất. Ðấy là vì [ông Trương] niệm Quán Âm nên hai tên cướp mới lầm tưởng là tuần bộ đến bắt chúng. Cậu ông ta là Châu Vị Thạch đã quy y từ trước, một hôm thỉnh tôi đến nhà cụ. Thiếu Liêm cũng đến quy y. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Lại nữa, năm Dân Quốc mười bảy (1928), ông Thái Nhân Sơ người huyện Ninh Ba mở cửa hàng Ngũ Kim Pha Lê ở Thượng Hải. [Ông ta là] người cực thuần hậu, chơi thân với ông Nhiếp Vân Ðài. Vân Ðài dạy ông Thái thường niệm Quán Âm, cốt ý để phòng ngừa bị bắt cóc, tống tiền. Nhân Sơ tin theo. Ngày nọ, sắp ra về, xe của chính ông đậu ngoài cửa, bọn cướp cầm súng đuổi tài xế đi, rồi bọn cướp ngồi trên đó. Ông Nhân Sơ vừa bước ra liền leo lên xe, xe liền chạy đi, mới biết gặp cướp, liền thầm niệm Quán Âm, mong cho xe chết máy hòng thoát nạn. Quả thật, xe bị nổ bánh, xe chạy khật khừ, nhưng vẫn cứ chạy tiếp. Bình xăng bị nổ vỡ khiến xe bắt lửa, bọn cướp xuống xe, cáu kỉnh hướng về phía ông Thái nã liền ba phát súng, nhưng ông Thái ba lần chạy né được, liền ngồi xe kéo trở về. Tháng Sáu năm đó, ông và vợ cùng đến Phổ Ðà quy y. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Một đệ tử ở huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây là ông Diệp Tư Sơ, cưỡi lừa đi trong vùng núi thẳm, một bên núi cao chót vót, một bên là khe sâu thăm thẳm. Tuyết đóng thành băng, con lừa trượt chân, liền rơi xuống khe. Ngang vách núi có một cái cây to, khéo sao rớt đúng ngay trên cây ấy, không hề hấn gì. Nếu không, sẽ bị tan thân, nát xương. Cây ấy do đâu mà có? Ấy là do Quán Âm Bồ Tát thị hiện vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Nếu nói: “Người đời ngàn vạn, tai nạn phát sanh dồn dập, Quán Âm Bồ Tát chỉ có một mình làm sao có thể cùng lúc đến cứu vớt, che chở từng người được? Dù có cứu giúp, che chở, cũng mệt nhọc khôn xiết!” Nào biết trọn chẳng phải Quán Âm Bồ Tát đến từng chỗ cứu giúp, mà chính là Quán Âm trong tâm chúng sanh cứu giúp đó thôi! Quán Âm vốn vô tâm, lấy tâm chúng sanh làm tâm [của chính mình], cho nên có thể ‘nên dùng thân nào để cứu độ thì sẽ hiện ngay thân đó để thuyết pháp’. Như vầng trăng vằng vặc trên không, tất cả mọi chỗ có nước đều hiện bóng trăng, nước trong ngàn dòng sông có ngàn vầng trăng in bóng trên sông. Trăng ấy là một hay là nhiều? Chẳng thể nói là một, vì trăng hiện bóng trong muôn dòng nước; chẳng thể nói là nhiều vì vầng trăng trên hư không luôn chỉ là một. Chư Phật, Bồ Tát cứu độ hữu tình cũng giống như thế. Chẳng được cảm ứng là do chúng sanh còn chưa dốc lòng thành, chứ chẳng phải Bồ Tát không cứu giúp, che chở! Như một cái ao nước dơ bẩn, muốn trăng hiện bóng trong ấy há có được chăng? Hiểu rõ lẽ này rồi, đại chúng chúng ta niệm Phật há còn ai chẳng chánh tâm, thành ý, chân thành, khẩn thiết hay sao? Tôi không tin ! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Khi chiến cuộc xảy ra ở đất Hỗ (Thượng Hải), những nhà cửa ở vùng Áp Bắc phần nhiều cháy tan ra tro, chỉ còn khu nhà của một đệ tử quy y với tôi là ông Hạ Hinh Bồi chưa bị mắc họa. Ấy là vì trong lúc chiến sự dữ dội, cả nhà ông ta cùng niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Ðiều kỳ lạ nhất là bảy ngày sau khi cuộc chiến nổ ra, cả nhà bọn họ mới được Thập Cửu Lộ Quân cứu ra; đến lúc đình chiến trở về nhà, mọi vật trong nhà chẳng mất thứ gì. Nếu Bồ Tát chẳng gia hộ, che chở thì làm sao mà được như vậy? Ðó là do ông ta làm việc cho một tòa soạn nhật báo đã mấy mươi năm, vợ chồng đều ăn chay, niệm Phật rất chí thành. Do vậy biết: Quán Âm Bồ Tát đại từ, đại bi, nếu gặp tai nạn, một phen xưng niệm thánh hiệu, chắc chắn được cứu vớt, che chở. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Xưa kia, tại Phổ Ðà có một vị lão Tăng đi đường, chân chợt đụng phải cái ghế, liền đạp đổ cái ghế, lại còn giộng liên tiếp mấy đạp nữa. Thứ tri kiến như vậy đều là do mặc tình ngã mạn, tuyệt chẳng phản tỉnh mà ra! Thứ tri kiến ấy bộc phát lừng lẫy ắt sẽ dẫn đến chuyện giết cha giết mẹ mà vẫn không hổ thẹn; trái lại, còn coi đó là công lao! Hiện tại cơ duyên giết hại càng mạnh mẽ, dụng cụ giết người càng thêm khéo léo, tinh vi, đại kiếp ngay trước mặt, ai có thể thoát khỏi được? Chỉ mong đại chúng dốc hết lòng thành niệm Phật, xót xa cầu Phật lực gia bị. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Phải biết rằng hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ cũng thuộc vào Lục Ðộ vạn hạnh. Trong cõi đời, kẻ chẳng tin Phật giống như người đeo cặp kính màu xem xét vạn vật, [thấy là] xanh hoặc đỏ là do kính [khác màu] mà ra, chẳng thấy được màu sắc thật sự của sự vật. Vì thế, sách Đại Học có thuyết “cách vật trí tri”, thật là có lý vậy! Người học Phật chúng ta chớ có lầm chấp vào kiến giải của chính mình. Nếu lầm chấp vào kiến giải của chính mình, ngồi đáy giếng nhìn trời, một khi Diêm La đòi mạng mới hay trước đây mình đã sai lầm, có hối cũng muộn rồi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Hơn nữa, người niệm Phật ai nấy phải tận hết bổn phận của chính mình, chẳng trái nghịch luân lý thế gian, như thường nói là “giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận, ngăn cấm điều tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành”. Nếu bất hiếu với cha mẹ, chẳng dạy dỗ con cái thì là tội nhân trong Phật pháp. [Người] như vậy mà muốn được Phật cảm ứng gia bị, trọn chẳng có lẽ ấy! Vì thế, người học Phật phải là cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, tự lập mình, lại chu toàn cho người, tự lợi, lợi tha. Ai nấy tận hết bổn phận của chính mình, dùng chính thân mình đốc suất người khác, rộng tu Lục Ðộ, vạn hạnh, để làm gương mẫu cho mọi người. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Chúng ta học Phật phải do từ ngay nơi Sự để thành Lý, do chính ngay nơi Lý để thành Sự. Lý - Sự viên dung, Có - Không chẳng hai thì mới có thể trọn thành tam-muội, liễu thoát sanh tử. Nếu tự nói ‘ta chính là Phật’, chấp Lý phế Sự, sai lầm rất nặng! Hãy nên tận lực tu trì, nhất tâm niệm Phật, từ Sự hiển Lý, dẫu hiển Lý vẫn chú trọng nơi Sự thì mới được lợi ích thật sự. Ngay như hàng Ðẳng Giác Bồ Tát vẫn còn phải dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới nhằm mong viên mãn Phật Quả. Nay là phàm phu nhưng chẳng biết tự lượng, coi niệm Phật là Tiểu Thừa chẳng đáng để tu trì, tương lai quyết định vào địa ngục A Tỳ vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Kẻ [chấp vào] Không Giải Thoát cho rằng chẳng tu một pháp nào hết mới là “[một pháp] chẳng lập” được chư Phật gọi là “kẻ đáng thương xót”. Liên Trì Ðại Sư dạy: “Chấp sự mà niệm, giữ được liên tục thì sẽ chẳng luống uổng công, được dự vào phẩm vị [vãng sanh]. Chấp lý nhưng tâm chưa thật sự thông đạt, khó thể tránh được cái họa rớt vào Không. Bởi lẽ, Sự có công năng kềm cặp Lý, Lý chẳng thể tồn tại độc lập”, lý do là như vậy đó. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Các bậc cổ Thiền đức, có nhiều vị lễ bái, trì tụng chẳng tiếc thân mạng như cứu đầu cháy. Vì thế, thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ ngày làm một trăm lẻ tám Phật sự, đêm qua ngọn núi khác kinh hành niệm Phật; huống hồ là học nhân đời sau chẳng trọng Sự Tu (tu hành về mặt Sự) mà hòng thành tựu đạo nghiệp ư? Do đại ngộ lý thể “một pháp chẳng lập”, tận lực tu hành công phu “vạn pháp viên tu” nơi mặt Sự thì mới là Trung Ðạo Không Hữu viên dung! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Chúng ta niệm Phật trước hết phải từ Có Niệm mà khởi. Niệm đến lúc niệm lặng, tình mất, ắt không những đã không có Ta là người niệm mà cũng không có đức Phật được ta niệm, nhưng từng câu, từng chữ vẫn rành rẽ, phân minh, chẳng lầm, chẳng loạn, tức là như thường nói: “Niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm” vậy. “Niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm” nghĩa là ngay trong lúc đang niệm Phật, trọn chẳng có tình niệm khởi tâm niệm Phật. Tuy không có tình niệm khởi tâm niệm Phật nhưng lại niệm rành rẽ, phân minh, liên tục. Nhưng công phu này chẳng phải là điều hạng sơ tâm có thể đạt được ngay! Nếu chưa đạt đến công phu “vô niệm mà niệm” mà không chú trọng “có niệm” thì khác nào phá nhà để tìm lấy chỗ trống không! Cái Không ấy quyết chẳng phải là chỗ để an thân lập mạng được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Thiền Tông đặt nặng Chân Ðế, tức là ngay chỗ “vạn hạnh phô bày trọn vẹn” chỉ ra “một pháp chẳng lập”. Tịnh tông phần nhiều chú trọng Tục Ðế, tức là ngay nơi “một pháp chẳng lập”, chỉ ra chuyện “vạn hạnh phô bày trọn vẹn”. Bậc trí hiểu rõ Lý sẽ tự chẳng thiên chấp. Nếu không, thà chấp Có còn hơn là chấp Không! Vì nếu chấp Có dẫu chưa ngộ trọn vẹn Phật tánh vẫn còn có công tu trì; chứ chấp Không sẽ bác không nhân quả, thành ra kiến chấp Ðoạn Diệt, phá hoại, rối loạn Phật pháp, khiến chúng sanh nghi ngờ, lầm lạc, họa ấy rất lớn, chẳng thể tuyên nói được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Bàn chặt chẽ về ý nghĩa lớn lao trong Phật pháp thì chẳng ngoài Chân Ðế và Tục Ðế. Chân Ðế một pháp chẳng lập, là thực thể được thấy biết bởi Thánh Trí. Tục Ðế phô bày trọn vẹn vạn hạnh, chính là hành tướng được tu trong pháp môn (chữ Tục ở đây nghĩa là tạo dựng, kiến lập, chứ đừng hiểu là thế tục, thô tục). Người học Phật phải viên dung Chân - Tục, một mực cùng hành. Bởi lẽ, vì một pháp chẳng lập thì mới có thể tu đạo phô bày trọn vẹn vạn hạnh. Vạn hạnh được phô bày trọn vẹn thì mới hiển hiện được bản thể một pháp chẳng lập. Nay để dễ hiểu, tôi nêu riêng một thí dụ. Bản thể của Chân Như Pháp Tánh ví như tấm gương quý báu tròn lớn, rỗng rỗng rang rang, trọn không có một vật, thế mà người Hồ đến thì bóng người Hồ hiện, người Hán đến ắt bóng người Hán hiện. Hồ, Hán cùng đến một lúc thì cùng lúc hiện bóng. Ngay đang trong lúc rỗng rang, trống lỗng, trọn không có một vật, chẳng trở ngại gì chuyện người Hồ đến, bóng người Hồ hiện; kẻ Hán đến, bóng kẻ Hán hiện. Ngay đang lúc người Hồ đến hiện bóng người Hồ, người Hán đến soi bóng người Hán, gương vẫn rỗng rang, trống lỗng, trọn không có một vật nào! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Lại có một hạng người tri kiến cuồng vọng. Dạy họ niệm Phật, liền bảo: “Ta đã là Phật, cần gì phải niệm Phật? Các ngươi chẳng biết tự mình chính là Phật thì thường niệm Phật cũng không sao! Ta đã tự biết là Phật, cần gì phải trên đầu lại chồng thêm một cái đầu!” Thứ tri kiến này là do chỉ biết đến vị Phật thuộc về Phật Tánh sẵn có ngay trong tâm, chưa biết đến vị Phật đã đoạn sạch Phiền Hoặc, viên mãn phước huệ. Hạng người này nếu đã biết Tánh - Tu, Lý - Sự đều chẳng thể thiên chấp, cực lực tu tịnh hạnh thì sẽ vượt xa hạng người nẩy sanh tri kiến hèn kém. Nếu chẳng vậy, sẽ tự lầm, lầm người, vĩnh viễn đọa trong địa ngục A Tỳ, trọn không có kỳ ra. Vì thế, đối với những hiểu biết lầm lạc chấp Không, chấp Có, kiến giải hèn kém và kiến giải lầm lạc cuồng vọng này, chỉ có riêng pháp Niệm Phật là dễ đối trị nhất. “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, nếu chẳng làm Phật thì chẳng phải là Phật được. Hai câu kinh văn này chính là Vô Thượng Diệu Pháp để phá trừ hai thứ kiến chấp hèn kém và cuồng vọng. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Trong đời có một hạng người tri kiến hèn kém, dạy họ niệm Phật cầu sanh Tây Phương bèn nói: “Chúng tôi là hạng nghiệp lực phàm phu, làm sao dám mong mỏi vãng sanh Tây Phương? Chỉ cầu chẳng mất thân người là đủ lắm rồi”. Thứ tri kiến này là do chẳng biết tâm tánh của chúng sanh và tâm tánh của chư Phật giống hệt, chẳng hai. Nhưng chư Phật tu đức đến cùng cực, tánh đức hiển hiện trọn vẹn, còn chúng sanh dẫu đủ tánh đức, trọn không tu đức, dẫu có tu tập nhưng lắm kẻ vì tu hành trái nghịch với tánh, nên đâm ra càng thêm mê muội, trái nghịch. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Người đời chấp Không, chấp Có, lầm lạc sanh khởi những kiến giải của chính mình nên mê muội chẳng giác ngộ. Đức Thế Tôn lập ra giáo pháp [là vì] muốn cho chúng sanh phá trừ hai kiến chấp ấy, đặc biệt bày ra một pháp môn Niệm Phật, mong chúng sanh từ Có đạt đến Không, dẫu đắc Không nhưng chẳng bỏ Có thì hai pháp Có - Không sẽ hỗ trợ nhau, được lợi ích rất lớn. Huống hồ là cậy vào nguyện lực của Phật Di Ðà. Vì thế, lực dụng của pháp môn Niệm Phật vượt trỗi hết thảy pháp môn [khác], làm chỗ quy túc cho hết thảy các pháp môn. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 6 Tôi vốn xem nhẹ tiền bạc, chẳng giống những người khác, mỗi tên đệ tử phải xuất tiền “hương kính” bao nhiêu đó mới chấp thuận cho quy y. Tôi thì không tiền cũng quy y được, chỉ cần người ấy có tâm thành kính tu trì mà thôi. Bởi lẽ, chẳng thể coi chuyện quy y như chuyện mua bán, cần phải ra giá bao nhiêu đó mới mua được hàng hóa đáng giá chừng đó! Có như vậy thì mới là tín đồ chân thật quy y Phật pháp, mới có thể đạt đại lợi ích liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 5 Còn như [tiền] cúng dường của đệ tử quy y lần này, Ấn Quang quyết định dùng hết vào việc cứu trợ tai nạn, trọn chẳng lấy dùng một đồng nào! Bởi lẽ, tôi là một ông Tăng trơ trọi, đã không có chùa miếu, lại cũng chẳng có đồ đệ, trừ thức ăn, quần áo ra, để dành tiền làm gì? Mai kia mạng chung, sau khi hỏa thiêu, đem tro rải xuống biển cả, chẳng cần phải tạo tháp và làm bất cứ [hình thức] kỷ niệm nào! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 5 Ý nghĩa của việc phóng sanh là khiến cho mọi người phát tâm bảo vệ mạng sống của chúng sanh. Chính mình phóng sanh, đương nhiên sẽ chẳng sát sanh nữa. Dẫu chính mình chẳng phóng sanh, trông thấy người khác phóng sanh, lẽ nào còn nỡ sát sanh? Nếu ai nấy bảo vệ, thương tiếc sanh mạng, chẳng tàn hại nữa sẽ tiêu được sát kiếp, chuyển được vận nước. Nhưng người đời vẫn có kẻ một mặt bỏ tiền phóng sanh, một mặt vẫn sát sanh, ăn thịt như thường. Như vậy, dù có chút công đức phóng sanh, làm sao địch nổi tội lỗi sát sanh lớn lao! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 5 Pháp hội này nhằm để hộ quốc tức tai. Nếu suy xét đến tận cùng nguyên do phát khởi tai nạn thì phần nhiều là vì sát sanh mà ra. Vì thế, muốn ngưng dứt sát nghiệp, phải bắt đầu từ việc kiêng giết chóc, ăn chay, bảo vệ, tiếc thương sanh mạng loài vật và chuộc mạng loài vật. Mọi người ai nấy phải nên phát tâm bảo vệ, thương tiếc sanh mạng loài vật. “Muốn biết binh đao trong cõi thế, lò mổ xin nghe tiếng nửa đêm”. Hãy giữ hai câu ấy làm lời răn nhắc, tận lực kiêng dè. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 5 Lại nữa, chúng sanh còn mê thì thấy Phật, Bồ Tát và hết thảy chúng sanh đều là chúng sanh, cho nên hủy báng Phật pháp, sát hại chúng sanh, chẳng biết là tội lỗi; trái lại còn coi đó là vui. Ðức Phật đã triệt ngộ cái tâm “tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt”, thấy hết thảy chúng sanh hoàn toàn là Phật. Vì thế đều vì kẻ oán, người thân thuyết pháp khiến cho họ được độ thoát; dẫu là kẻ cực kỳ ác nghịch không tin, tâm [Phật] cũng không hề có một niệm buông bỏ vì Phật thấy thấu suốt kẻ đó chính là một vị Phật chưa thành vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 5 Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư đời Tùy soạn cuốn Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, đã lập ra giáo nghĩa Lục Tức Phật để đối trị căn bệnh lớn “cam chịu đọa lạc” và bệnh “tự tôn, tự đại sai lầm”. Lục Tức Phật là: một là Lý Tức Phật, hai là Danh Tự Tức Phật, ba là Quán Hạnh Tức Phật, bốn là Tương Tự Tức Phật, năm là Phần Chứng Tức Phật, sáu là Cứu Cánh Tức Phật. “Lục”: Minh thị thứ lớp sâu - cạn, “Tức”: Chỉ rõ ngay nơi Thể chính là Phật. Ví như trẻ sơ sanh hình thể chẳng khác gì cha mẹ, nhưng sức lực, khả năng khác biệt rất xa. Bởi thế, chẳng thể bảo đứa bé con ấy chẳng phải là người, nhưng cũng chẳng thể sai nó gánh vác chuyện của người đã trưởng thành được. Nếu biết rõ “tuy sáu mà thường tức” thì sẽ chẳng sanh lui sụt. Nếu hiểu “tuy tức mà thường sáu” sẽ chẳng sanh lòng tăng thượng mạn. Từ đó, nỗ lực tu trì, sẽ từ phàm phu mà viên chứng Phật quả, do Lý Tức Phật mà thành Cứu Cánh Tức Phật vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 5 Phải biết “chúng sanh tức là Phật” [chỉ cho] cái nhân chân thật là Phật tánh sẵn có đủ. Nếu chẳng tu hạnh Niệm Phật mầu nhiệm, Phật tánh chẳng do đâu hiển hiện được thì làm sao đạt được thật quả “giải thoát sanh tử, thành tựu Phật đạo” đây? Ví như gương báu đóng bụi, quang minh chẳng hiện, chứ thật ra chẳng mất! Nếu chịu ra sức lau chùi, mài giũa thì gương sẽ tự có thể chiếu trời soi đất. Nếu nói: “Ta là phàm phu khổ não, chẳng thể vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, cho đến thành Phật” thì lại chính là lời lẽ của kẻ nghiệp chướng sâu nặng, tự cam chịu đọa lạc. Vả nữa, người đời nay có kẻ đánh cờ, xoa mạt-chược đến nỗi mệt quá rồi chết, chẳng biết là bao nhiêu! Nếu họ có thể vận dụng sự khổ nhọc ấy vào chuyện tu hành niệm Phật thì lo gì chẳng vãng sanh Tây Phương, chứng lên đến Phật quả ư? Bởi lẽ, Phật vốn chỉ là một chúng sanh tu trì, chứng đắc Phật quả mà thôi. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 5 Pháp môn Tịnh Ðộ thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp lợi căn lẫn độn căn, khế lý, khế cơ, chí viên, chí đốn, đúng là pháp môn lợi lạc chúng sanh duy nhất vô thượng. Nhưng con người hiện tại, có kẻ tự cao, tự đại bảo: “Chúng sanh tức là Phật thì ta chính là Phật, sao lại phải niệm Phật?”, kẻ thì lại cho rằng: “Ta đã là phàm phu khổ não, làm sao có thể liễu thoát sanh tử, chỉ cầu kiếp sau chẳng mất thân người mà thôi!” Hai hạng người này đều vì chẳng hiểu rõ nhân quả mà thành ra như thế ấy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 5 Thân phận như thế còn chưa liễu thoát được, huống hồ là những kẻ chỉ mới lãnh hội được câu thoại đầu, được chết an lành mà coi là đã liễu thoát ư? Cậy vào tự lực để thoát sanh tử khó khăn như thế đó; cậy vào Phật lực để thoát sanh tử dễ dàng như thế đó; vậy mà người đời vẫn cứ buông bỏ Phật lực để cậy vào tự lực, cũng là vì chưa hiểu rõ lẽ mầu nhiệm. Nay dùng hai câu sau đây để nói toạc ra: Chỉ là vì tri kiến sai lầm “muốn tỏ vẻ ta là hạng người bậc thượng, chẳng chịu làm chuyện tầm thường, không hy hữu, lạ lùng” vậy. Xin hết thảy mọi người hãy suy nghĩ chín chắn chuyện đã qua của năm người này rồi tự lợi, lợi tha, sốt sắng tu Tịnh Nghiệp như lo chôn cất cha mẹ, như cứu đầu cháy thì mới khỏi luống uổng đời này và lần gặp gỡ này. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 4 Thiền chuyên cậy tự lực, nếu chẳng phải kẻ túc căn chín muồi thì chẳng thể được lợi ích thật sự. Tịnh là kiêm nhờ Phật lực, hễ ai đầy đủ tín, hạnh, nguyện chân thật thì đều có thể đới nghiệp vãng sanh. Sự khó - dễ giữa hai pháp môn này khác nhau một trời, một vực. Vì thế, đầu đời Tống, ngài Vĩnh Minh Diên Thọ thiền sư dùng thân “cổ Phật” thị hiện sanh trong thế gian, triệt ngộ nhất tâm, tu trọn vạn hạnh; mỗi ngày làm một trăm lẻ tám Phật sự, đêm đi qua ngọn núi khác kinh hành niệm Phật. Ngài rất lo cho kẻ học trong đời sau chẳng hiểu rõ tông yếu, nên đặc biệt viết một bài kệ Tứ Liệu Giản ngõ hầu [mọi người] biết chỗ tiến theo. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 4 Phật giáo, [nói] đại cương, chẳng ngoài năm tông, năm tông chính là Luật, Giáo, Thiền, Mật, Tịnh. Luật là căn bản của Phật pháp, nghiêm trì tịnh giới để mong tam nghiệp thanh tịnh, nhất tánh viên minh, Ngũ Uẩn đều không, các khổ đều độ. Giáo là nương theo giáo pháp mà tu Quán, rời khỏi “ngón tay [chỉ mặt trăng] để thấy được mặt trăng”, triệt ngộ Phật tánh sẵn có của đương nhân, kiến tánh thành Phật. Nhưng chữ “thành Phật” đó có nghĩa là thấy được đức Phật thiên chân trong tự tánh bèn gọi là “thành Phật”, chứ chưa phải là thành tựu, chứng được quả Phật nơi Bồ Ðề đạo. Mật dùng tam mật (thân mật, khẩu mật, ý mật) gia trì, chuyển Thức thành Trí, gọi là “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong thân này). Ðây cũng chỉ là coi “liễu sanh thoát tử từ ngay nơi thân này là thành Phật”, chứ chưa phải là thành đức Phật phước huệ viên mãn! Ba tông này đều có thể gộp vào Thiền vì khí phận giống nhau. Do vậy, tu trì Phật pháp trọng yếu chẳng ngoài hai môn Thiền và Tịnh. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 4 Pháp hội này là pháp hội Hộ Quốc Tức Tai. Tôi chỉ mới bàn đến việc ngưng dứt tai nạn đao binh, nước lửa, vẫn chưa phải là rốt ráo. Lại cần phải dứt tai nạn phiền não sanh tử thì mới là biện pháp triệt để. Chúng ta mê muội Pháp Thân của chính mình, dứt huệ mạng của Phật, đáng buồn, đáng đau! So với việc sắc thân bị họa, [mê lầm mất Pháp Thân] nào phải chỉ gấp trăm ngàn vạn lần nặng nề hơn! Vì thế, phải hộ trì Pháp Thân huệ mạng, đoạn sanh tử phiền não mới đáng kể là biện pháp tức tai (dứt trừ tai chướng) trọn vẹn. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 4 Sở dĩ đức Phật thành Phật thường hưởng pháp lạc chân thường, sở dĩ chúng sanh bị đọa địa ngục, vĩnh viễn chịu khổ luân hồi kịch liệt, [cả hai việc này] đều chẳng ra ngoài nhân quả. Hễ con người muốn trị thân tâm thì trọn chẳng thể ra ngoài nhân quả được. Con người hiện tại ham ăn nói lớn lối, chẳng cầu thực tế, bộp chộp bảo nhân quả là pháp Tiểu Thừa, thật là lầm lẫn lớn. Nào biết Ðại Thừa hay Tiểu Thừa trọn chẳng ra ngoài hai chữ “nhân quả” được! Tiểu Thừa là tiểu nhân quả, Ðại Thừa là đại nhân quả. Tiểu nhân (nhân nhỏ bé) là y theo Sanh Diệt Tứ Ðế, biết Khổ, đoạn Tập, hâm mộ Diệt, tu Ðạo; tiểu quả là chứng quả A La Hán. Ðại nhân (nhân lớn lao) là tu Lục Ðộ vạn hạnh; đại quả là chứng Phật Quả rốt ráo. Trồng dưa được dưa, gieo đậu được đậu. Có nhân nào ắt sẽ có quả đó, chưa hề sai sót. Vì vậy, chẳng riêng người thế gian đều thuộc trong nhân quả mà ngay chính Bồ Tát, Phật cũng chẳng ra ngoài nhân quả được! Nếu bảo nhân quả là Tiểu Thừa, hóa ra Phật, Bồ Tát cũng là Tiểu Thừa ư? Ðủ biết lời lẽ ấy ngông cuồng, trái nghịch đến thế nào! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 4 Trong cơn loạn lạc Hồng Dương, một nhà buôn gỗ ở Giang Tây là Viên Cung Hoằng bị bọn phỉ bắt được, trói vào cây cột ở khách sảnh (nhà khách), khóa chặt cửa lại, chờ đúng lúc sẽ giết. Ông Viên tự nghĩ ắt bị chết, bèn thầm niệm thánh hiệu Quán Âm, hồi lâu ngủ quên đi, tỉnh dậy thấy thân mình nằm ngoài đồng, ngẩng đầu lên thấy hãy còn sớm liền trốn thoát. Do vậy, tôi rất mong mọi người phát tín tâm rộng lớn, nương vào đức của cha trời, mẹ đất, giữ lòng nhân “coi mọi người và ta là ruột thịt, xem loài vật cũng giống như ta”. Phàm đối với [hết thảy những gì] trong vòng trời đất đều thương xót, nuôi dưỡng, bảo vệ. Lại còn đem lẽ nhân quả báo ứng, đạo niệm Phật cầu sanh Tây Phương để chỉ bảo, khuyến hóa. Nếu như ai nấy đều thực hành thì nước chẳng mong bảo vệ mà tự được bảo vệ, tai nạn chẳng mong dứt cũng tự dứt vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 3 Người ta nay chỉ tham phần tiện nghi trước mắt, chẳng thể thấy thông suốt, bị khốn khổ vì tiền tài, những trường hợp như vậy rất nhiều, chẳng thể thuật đủ! Khi xưa, có một vị cư sĩ nọ hỏi tôi phương cách vãn hồi kiếp vận, tôi bảo: “Việc này rất dễ! Hiểu rõ lý nhân quả rồi tận lực thực hành. Phát được tín tâm ắt có thiện quả. Vả nữa, tâm dối trá đã tiêu, trong tâm rỗng suốt thì tai nạn nào cũng đều tiêu tan như băng tuyết vậy!” - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 3 Lúc chiến cuộc xảy ra tại đất Hỗ (Thượng Hải), cháu nội của cư sĩ Tào Thương Châu ở Tô Châu vâng lời cha từ đất Hỗ xuống Tô Châu đón tam thúc tổ (ông chú thứ ba) và các chú về đất Hỗ. Ông chú và các chú đều chẳng muốn đi. Anh ta bèn lấy châu báu của vợ giắt vào lưng, ngồi tàu thủy nhỏ về đất Hỗ. Chợt có kẻ cướp đến, anh ta muốn trốn lên bờ, liền nhảy xuống nước, vàng ngọc giắt theo có lẽ đáng giá hai, ba vạn đều đem cho hết người đã đổi áo cho mình, tự xưng là học trò nghèo, làm thầy giáo dạy vỡ lòng cho trẻ. Nếu bọn giặc cướp biết được, không biết còn phải tốn tới mấy vạn để chuộc thân nữa. Ðấy có phải là tiền tài gieo họa cho người hay không? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 3 Hiện tại, có những phụ nữ ham chuộng xa hoa, một bình nước hoa trị giá từ ba, bốn chục đồng đến hai, ba trăm đồng. Sao bằng đem số tiền phung phí đó dùng để cứu trợ Tuy Viễn? Lại còn có hạng người rất chuộng tích cóp của cải, lúc sống đã chẳng muốn dùng, chết đi còn mong chôn theo xuống đất, muốn được con cái chôn cất ma chay trọng thể, hoặc để lại cho con cháu dùng. Đâu có biết hiện nay đang có nguy cơ đào mồ, [những tưởng] tích chứa [nào ngờ] lại khiến cho [người chết] bị hại. Như hiện tại ở Thiểm Tây đang có cả một tổ chức đào mộ chuyên làm chuyện đó. Làm con có hiếu với cha mẹ, nỡ nào vì chữ Hiếu lại khiến cho mớ xương khô của cha mẹ bị phơi tênh hênh trên mặt đất! Sao bằng đem khoản tiền lớn lao đó dùng để cứu tế người khác thì tốt hơn! Lại có người nghèo túng, tuy có chí nguyện làm như thế, nhưng sức chẳng kham nổi, tôi cho rằng hãy nên niệm Phật cho nhiều để giúp đỡ. Đã có thể dứt tai nạn cho người, lại còn dứt được tai nạn cho mình. Vui sướng [như vậy] mà sao không làm? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 3 Phải biết: Giúp người tức là giúp mình, cứu người tức là cứu mình. Nhân quả vằng vặc, chẳng sai sót mảy may. Nếu chính mình gặp tai nạn, không có ai giúp, nhưng nếu có thể xưng niệm thánh hiệu thì nhất định sẽ được Phật, Bồ Tát thầm gia hộ, bảo vệ. Tôi là một ông sư nghèo, hoàn toàn chẳng cất chứa thứ gì, hễ đệ tử tại gia có bố thí gì, đều dùng để ấn loát kinh sách hết. Nay tôi xin quyên ra một ngàn đồng để xướng suất [cứu trợ vùng] Tuy Viễn. Giúp người mắc nạn thì mới có thể dứt trừ được tai nạn cho chính mình. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 3 Từ sau thời Trình - Châu, nhà Nho đều chẳng dám bàn đến nhân quả vì hễ bàn đến sẽ bị người khác công kích, bảo không phải là thuần Nho, cho là trái nghịch tiên hiền. Bởi vậy, phàm những kẻ hiểu biết kém cỏi liền hùa giọng báng Phật; người kiến thức cao minh không ai chẳng lén lút xem kinh Phật để mong khoe tài, không ai chẳng thống thiết bài bác Phật pháp, ngõ hầu làm căn cứ để sau này được thờ trong Hiền Từ (miếu thờ tiên hiền) trong làng hay được đưa vào [thờ trong] Văn Miếu! Trong thâm tâm của Trình, Châu khi ấy chỉ mong Nho Giáo hưng thịnh, chẳng bận tâm Phật giáo sẽ còn hay mất! Cho tới hiện thời, do chất độc “phá diệt nhân quả, luân hồi” của bọn họ đến nay bộc phát, phế kinh điển, phế luân thường, bỏ hiếu, không biết hổ thẹn, trở thành những thảm kịch như giết cha, giết mẹ, chẳng đáng buồn ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 3 Những nhà Lý học thời Tống như Trình Minh Ðạo, [Trình] Y Xuyên, Châu Hối Am v.v… do xem kinh Ðại Thừa nhà Phật, chỉ lãnh hội sơ lược ý nghĩa “toàn sự tức lý” và thân cận tri thức trong Tông Môn (Thiền Tông), lại biết ý chỉ “bất cứ pháp nào, chuyện nào cũng chẳng ngoài Nhất Tâm”, chứ thực sự chưa hề xem trọn khắp các kinh luận và tham học với khắp mọi tri thức các tông, bèn trộm lấy ý nghĩa của kinh Phật để tự xưng hùng, dùng đó để phát huy sự sâu xa của Nho giáo. Bọn họ lại sợ người đời sau xem kinh Phật sẽ biết được cái họ đạt được [là ăn trộm từ kinh Phật] bèn rắp tâm mê muội báng Phật. Do chẳng dễ báng bổ những chỗ tinh diệu, họ liền nhắm vào mặt Sự để bài bác. Họ bảo đức Phật dạy sự - lý “tam thế nhân quả, lục đạo luân hồi” đều nhằm phỉnh phờ hạng ngu phu, ngu phụ phụng hành giáo pháp của Ngài, chứ thật sự chẳng có những chuyện ấy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 3 Ôi! Họa biến đến thế, thiên lý tuyệt, nhân đạo diệt, không những đạo đức bị vùi lấp, mất mát mà chắc là kiếp nạn lớn lao sẽ liên tiếp xảy ra! Vì thế, trong hiện tại, muốn cứu vớt, bảo vệ đất nước thì phải bắt đầu từ căn bản. Căn bản là gì? Tức là tin tưởng chắc chắn vào nhân quả. Nếu đã thật sự hiểu rõ lý nhân quả rồi lại còn có thể dốc lòng tin, thực hành thì thế đạo, nhân tâm sẽ tự có thể vãn hồi. Tôi cho rằng tất cả triết học, tôn giáo trên thế giới không gì tinh vi, sâu thẳm, nhưng dễ thực hành bằng Phật giáo! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 3 Người đời nay đều chỉ thấy chuyện trước mắt, chẳng đoái hoài đời sau, thích chiếm tiện nghi, chẳng bằng lòng chịu thua thiệt. Con cái họ mắt thấy tai nghe, tập riết thành thói. Phong tục xã hội cũng do đó mà hiểm ác, tranh đoạt khởi lên, đại loạn dấy lên lung tung, giết người đầy thành, ngập đồng mà mắt chẳng nháy, tâm chẳng áy náy, không gì chẳng phải là vì lẽ đó. Ðã thế, những kẻ giết người tàn nhẫn, ác độc, chẳng thấy là đáng buồn, đáng sợ, ngược ngạo vênh váo khoe công, lại còn khen ngợi lẫn nhau. Thậm chí có kẻ giết cả cha mẹ, giết huynh trưởng, ngược ngạo tự xưng là “đại nghĩa diệt thân” (vì nghĩa lớn mà giết người thân)! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 3 Đời Ðường, tại chùa Hắc Sơn ở mặt sau ngọn Bắc Ðài có nhà sư tên Pháp Ái làm Giám Tự hai mươi năm, lấy vật dụng của Chiêu Ðề Tăng tậu nhiều ruộng ở Nam Nguyên, để lại cho đồ đệ là Minh Hối. Pháp Ái chết liền sanh làm trâu ở nhà nọ tận lực một mình kéo cày trong ba mươi năm. Trâu vừa già vừa bệnh, chủ trại muốn đem trâu đổi lấy dầu. Ðêm ấy, Minh Hối mộng thấy vị thầy đã chết của mình khóc bảo: “Ta dùng tài sản của Tăng chúng để tậu ruộng cho ngươi. Nay đang làm trâu vừa già vừa còm cõi. Xin hãy lột da ta bịt trống, viết tên họ của ta trên trống. Mỗi khi lễ tụng liền đánh trống thì nỗi khổ của ta mới mong có ngày thoát khỏi. Nếu không, dù gò Nam Nguyên có biến thành biển xanh, ta vẫn chưa thể thoát khổ nổi!” Nói xong, phủ phục cả thân mình xuống. Minh Hối tỉnh giấc, chỉ mới nửa đêm liền thỉnh chuông nhóm chúng, kể cặn kẽ chuyện này. Sáng hôm sau, chủ trại ruộng báo con trâu già đã húc đầu vào cây mà chết. Minh Hối y theo lời trước, lột da trâu bịt trống, viết tên [thầy] lên trên, bán hết ruộng ở Nam Nguyên, được bao nhiêu tiền đem đãi cơm chư Tăng Ngũ Ðài hết. Minh Hối lại bán sạch cả y bát, vì vị thầy đã mất mà lễ sám. Sau đem trống ấy gởi vào điện Văn Thù ở Ngũ Ðài Sơn. Lâu ngày, trống hư, chủ chùa đem trống khác thế vào. [Thế gian] ngoa truyền là trống bịt bằng da người. Xem trong Thanh Lương Sơn Chí. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 3 *Một ngày kia, Hoàn nghe bà mẹ góa bảo: “Triệu Doanh cướp đoạt gia sản của mày đến nỗi đời mày nghèo mạt, nay đến làm tôi tớ cho nó, chẳng nhục hay sao?” Bởi thế, Hoàn oán hận, muốn giết Triệu Tiên. Năm Khai Hoàng thứ nhất (600 Tây lịch), Hoàn theo Tiên đi triều bái Ngũ Ðài, vào đến chốn hang thẳm mấy mươi dặm ở phía Ðông, sâu hun hút không một bóng người. Hoàn rút dao, bảo Tiên: “Ông nội mày và bố tao là anh em. Ông mày đoạt sản nghiệp của tao. Ðến đời tao nghèo túng nay làm đầy tớ cho mày. Mày nỡ lòng làm thế, nay tao giết mày đây!” Tiên liền rảo chạy, Hoàn đuổi theo chạy vào rừng, thấy có am tranh liền bước vào. Có một vị lão Tăng bảo Hoàn: “Ông định làm gì thế?” Hoàn đáp: “Tôi đuổi theo kẻ oán thù!” Vị lão Tăng cười lớn: “Ông khoan làm thế, tôi sẽ cho ông tự biết”, rồi trao những món thuốc cho mỗi người để pha trà. Uống xong, như mộng mới tỉnh, chợt nhớ việc cũ, cảm thấy thẹn thùng, đau đớn. Lão Tăng bảo: “Doanh chính là tiền thân của Hoàn. Cướp đoạt tài sản của anh chính là tự bỏ tài sản của mình. Tiên là Mạnh thác sanh trở lại để hưởng lấy sản nghiệp kiếp trước vì lệnh cha vẫn còn vậy!” Hai người bèn bỏ nhà tu theo đạo Phật, sau mất tại Di Ðà Am. Xem trong Thanh Lương Sơn Chí. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 3 Hiện thời, người đời chẳng hiểu nguyên lý nhân quả, cho đó là chuyện bàn xằng, tà thuyết, lúc nào cũng tính chiếm tiện nghi, chẳng chịu thua thiệt; đâu biết tiện nghi chính là chịu thua thiệt, chịu thua thiệt chính là tiện nghi. Như người làm cha mẹ hiện nay phần nhiều nuông chiều con cái, chẳng kềm cặp nghiêm ngặt đến nỗi tạo thành thói quen ham tiền tài, tham chuộng tiện nghi. Cứ cho là có như vậy mới giữ gìn được gia sản, chẳng đến nỗi bị tổn thất; nào ngờ kết quả trái ngược: Gây vạ suốt đời, lại còn gián tiếp tạo ảnh hưởng vô hạn cho quốc gia, xã hội. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 3 Tôi mong từ hôm nay trở đi, hết thảy đại chúng chú ý kiêng giết, ăn chay và khuyên cha mẹ, con cái và thân hữu của chính mình cùng nhau ăn chay. Phải biết đây cũng là phương pháp căn bản để hộ quốc tức tai. Những điều tôi giảng hôm nay là ý nghĩa của hộ quốc tức tai, mà phương pháp để thực hành hộ quốc tức tai chính là niệm Phật, ăn chay; mong quý vị chẳng nghĩ là thiển cận rồi chẳng thèm để ý. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 2 Lại nữa, bà mẹ của cư sĩ Hoàng Hàm Chi ở Thượng Hải chưa thể ăn chay, lại còn chẳng tin ăn chay là chuyện trọng yếu trong việc học Phật. Ông Hoàng Hàm Chi gởi thư hỏi cách [khuyên cho mẹ tin], tôi bảo ông ta sớm tối thay mẹ đối trước Phật sám hối nghiệp chướng. Do mẹ con thiên tánh tương quan, nếu thật sự chí thành ắt có cảm ứng. Hàm Chi làm theo, hơn tháng sau, mẹ ông liền ăn chay trường. Lúc đó bà đã tám mươi mốt tuổi, công khóa hằng ngày là hai vạn câu Phật hiệu, sống đến năm chín mươi ba tuổi mới mất. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 2 Năm Dân Quốc thứ mười (1921), tôi đến Nam Kinh thăm một người bạn. Ông ta mời ông Ngụy Mai Tôn đến gặp tôi. Ông Ngụy tin Phật, niệm Phật, nhưng bảo là chưa thể ăn chay. Tôi dặn ông ta hãy đọc kỹ Bài Văn Kêu Gọi Tu Bổ Ao Phóng Sanh của chùa Cực Lạc ở Nam Tầm đăng trong bộ Văn Sao mấy chục lượt sẽ ăn chay được. Bởi lẽ, trong bài văn đó, trước hết nói chúng sanh và Phật tâm tánh chẳng hai. Tiếp đó, nói đến [ta và các loài vật] bao kiếp làm cha, mẹ, anh, em, vợ, con, quyến thuộc, sanh ra lẫn nhau, làm oan gia đối đầu của nhau, giết chóc lẫn nhau. Tiếp đó, dẫn kinh văn Phạm Võng, Lăng Nghiêm, Lăng Già làm chứng. Ðọc sâu nghĩ chín, chẳng những không nỡ ăn mà còn chẳng dám ăn nữa kia! Chưa đầy hai tháng sau, Ngụy cư sĩ liền trọn không ăn thịt nữa. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 2 Con người và động vật vốn bình đẳng, nỡ nào giết hại tánh mạng chúng để thỏa mãn miệng, bụng mình? Thân ta vừa bị dao cắt phải một chút liền cảm thấy đau khổ. Mới nói hoặc nghĩ đến đó, tim gan đau buốt, nỡ nào giết chúng ăn thịt? Huống chi kẻ sát sanh ăn thịt dễ khởi cơ duyên giết hại. Tai kiếp đao binh trong đời này đều là do đây mà có! Cổ nhân nói: “Dục tri thế thượng đao binh kiếp; đản thính đồ môn dạ bán thanh” (Muốn biết đao binh trong cõi thế, hãy nghe tiếng lò mổ giữa đêm trường). Trong cõi đời, khá nhiều kẻ tuy hiểu rõ đạo lý Phật pháp mà vẫn thấy kiêng giết, ăn chay là chuyện khó làm. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 2 Bởi lẽ, đạo trọng yếu để trị quốc, bình thiên hạ nằm trong giáo dục gia đình, mà việc giáo dục trong gia đình người mẹ đảm nhiệm quá nửa. Bởi lúc trong thai, con cái đã bẩm thụ khí chất của mẹ, lúc sanh ra lại nhìn theo oai nghi của mẹ, nhận sự dạy răn của mẹ, nên trở thành hiền thiện. Ðiều này tuy chẳng hiện hình tích nhưng lại là việc trọng yếu để đạt đến thái bình. Tiếc là vĩ nhân các giới đa số chưa thấy rõ điều này. Nguyện những bậc anh hiền trong nữ giới kể từ nay hãy chú ý lời này. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 2 Con người hiện tại, kẻ dấy được lòng tin ít lắm, kẻ không phát khởi lòng tin rất nhiều. Nếu ai nấy đều phát khởi lòng tin thì có tai vạ nào mà chẳng thể tiêu diệt được? Nhưng lòng tin của con người cần phải được vun bồi từ thơ ấu. Phàm là người làm cha mẹ, khi con cái còn thơ ấu, hãy nên dạy con cái về lý nhân quả báo ứng, đạo lý giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận. Nếu đợi đến lúc trưởng thành, tập tánh đã thành, không thể uốn nắn được nữa! Ðiều quan trọng nhất là “thai giáo” (dạy từ trong thai). Nếu phụ nữ mang thai có thể ăn chay, niệm Phật, làm lành, bỏ ác, mắt chẳng nhìn sắc ác, tai chẳng nghe tiếng ác, thân chẳng làm việc ác, miệng chẳng thốt lời ác, khiến cho đứa trẻ còn trong thai đã được bẩm thọ chánh khí nên thiên tánh tinh thuần. Sanh ra, lại giáo hóa thêm thì không đứa nào chẳng trở thành thiện nhân! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 2 Nếu ai nấy đều niệm Phật, làm lành sẽ chuyển được cộng nghiệp, tiêu được kiếp vận. Ngay trong lúc chiến cuộc nổ ra ở đất Hỗ vào ngày Hai Mươi Tám tháng Giêng, những người niệm Phật được linh cảm rất nhiều. Bọn họ chỉ tu một mình mà còn được linh cảm như thế, huống là ai nấy cùng tu ư? Vì thế, biết rằng: Do đại chúng chí thành khẩn thiết niệm Phật cũng có thể vãn hồi được tai nạn của đất nước. Lại như đức Quán Thế Âm Bồ Tát dùng ba mươi hai ứng thân để vào các cõi nước, theo tiếng cứu khổ; nếu như chí thành tụng niệm thánh hiệu Quán Thế Âm thì sẽ tự được cảm ứng. Những chuyện linh cảm xưa nay thấy ghi chép rất nhiều trong các sách vở, các vị có thể tự tìm đọc lấy. Ngoài những thân đã thuật trong phẩm Phổ Môn “[Bồ Tát] thấy nên dùng thân nào để độ được thì liền hiện thân đó cứu độ” ra, nếu [Bồ Tát thấy] nên dùng thân núi, sông, đại địa, cầu bến, đường sá để hóa độ thì Ngài cũng hiện các thân núi, sông, đại địa, cầu bến, đường sá… để cứu độ. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 2 Người đời chẳng biết nhân quả, thường nói con người sau khi chết đi là đã giải thoát hoàn toàn, không có quả báo thiện - ác nữa. Ðây chính là tà kiến sai lầm nhất về đời sau của thiên hạ vậy. Cần biết là: Người đã chết đi rồi, thần thức chẳng bị diệt. Nếu ai nấy đều biết thần thức chẳng diệt, ắt sẽ thích làm lành. Nếu không biết thần thức chẳng diệt sẽ mặc tình phóng túng, giết cha, giết mẹ, đủ thứ tội ác do đấy mà sanh! Những thứ hành vi nghịch ác tột bậc ấy đều là kết quả của tà kiến đoạn diệt mà ra! Nếu ai nấy có thể chẳng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc; nhưng đấy vẫn chưa phải là biện pháp rốt ráo. Thế nào mới là biện pháp rốt ráo? Chính là niệm Phật cầu sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, và phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, ngăn chặn điều tà, giữ lòng thành thì sẽ chuyển được vận nước, tiêu trừ được tai nạn. Bởi lẽ, tai nạn ngày nay đều là do cộng nghiệp của mọi người chiêu cảm. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 2 Hiện tại nếu chẳng gieo khổ nhân nữa thì tương lai sẽ khỏi phải chịu khổ quả. Khổ nhân là gì? Là ba độc “tham, sân, si”. Thiện nhân là gì? Giúp vật, lợi người. Nếu ai nấy hiểu rõ lẽ nhân quả sẽ chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, tai họa sẽ chẳng từ đâu mà khởi lên được nữa! Chỉ vì người đời nay chẳng hiểu lý nhân quả, tư dục đầy ắp dạ, không điều ác nào chẳng làm, chỉ biết có chính mình, chẳng biết có ai khác. Nào biết lợi người chính là lợi mình, hại người còn tệ hơn hại mình! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 2 Hơn nữa, người đời nay ưa nói Thiền Tịnh Song Tu. Xét đến cùng cái gọi là Song Tu đó chỉ là khán câu “người niệm Phật là ai?” Ðấy là chú trọng tham cứu, chẳng ăn nhập gì đến việc sanh lòng tin phát nguyện cầu vãng sanh của Tịnh Ðộ cả, rõ ràng là hai chuyện [khác biệt]! Thêm nữa, Thiền Tông nói: “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” là nói đến đương nhân đích thân thấy được Phật tánh vốn sẵn đủ ở ngay trong tâm. Mật Tông nói: “Ngay thân này thành Phật” (tức thân thành Phật), tức là quan niệm “hễ giải thoát được sanh tử ở ngay nơi cái thân này” thì [gọi đó là] “thành Phật”. Nếu vội hiểu những lời đó có nghĩa là [ngay chính nơi thân này] có thể thành tựu được vị Phật vạn đức đầy đủ, phước huệ viên mãn thì lầm to, lầm to mất rồi!.. Trải qua Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa, Ðẳng Giác là bốn mươi mốt địa vị rồi mới chứng nhập địa vị Phật. Lịch trình còn lâu xa như thế đó, làm sao mà một bước liền có thể vọt tới nơi ngay cho được? Người tu Tịnh Ðộ đã sanh về Tây Phương liền liễu sanh tử thì cũng là “tức thân thành Phật”, nhưng Tịnh Tông chẳng nêu cái thuyết tiếm phận [vượt lạm thân phận] ấy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 1 Phàm là người học Phật thì có một việc rất nên chú ý là kiêng ăn mặn vì ăn mặn sẽ tăng trưởng cơ duyên giết hại. Con người và hết thảy động vật cùng sống trong vòng trời đất, tâm tánh vốn bình đẳng, chỉ vì nhân duyên ác nghiệp đến nỗi hình thể sai khác quá xa. Nếu đời này quý vị ăn thịt chúng nó, đời mai sau chúng nó sẽ ăn thịt quý vị. Oán hờn báo đền mãi, cơ duyên giết chóc đời đời chẳng có lúc nào kết thúc. Nếu như ai nấy đều ăn chay thì sẽ vun bồi tâm từ bi của chính mình, tránh khỏi cơ duyên giết hại. Nếu không, dù cho niệm Phật, nhưng chỉ lo sướng miệng, vui bụng, ăn đẫy thức tanh hôi, vẫn chưa thể đạt được lợi ích thật sự nhờ học Phật vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 1 Pháp môn Niệm Phật, tự phàm phu thuở ban đầu cũng có thể chứng nhập được, mà rốt cục đến bậc Ðẳng Giác cũng chẳng thể vượt ra ngoài nổi. Thật là pháp môn Tổng Trì trên thành Phật đạo, dưới giáo hóa chúng sanh, thành thỉ, thành chung của mười phương tam thế hết thảy chư Phật. Vì thế, [pháp môn này] được chín giới cùng hướng về, mười phương chung tán thán, ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên thuyết. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 1 Cần nhất là phải hiểu rõ nhân quả, tự hành, dạy người [hành]. Hiện tại, các thứ tà thuyết không thánh, không hiếu, khinh miệt đạo, phế luân thường, giết cha, chung vợ v.v… đều do bọn Tống Nho đả phá, bài xích nhân quả - luân hồi đến nỗi sanh ra ác quả này. Nếu như ai nấy đều hiểu rõ nhân quả thì quyết chẳng một ai dám xướng lên những thuyết sai lầm ấy! Trong thế gian, người tốt hoàn toàn chẳng biến đổi rất ít, kẻ xấu hoàn toàn chẳng biến đổi cũng rất ít; đa số là kẻ lúc thượng, lúc hạ, khi tốt, khi xấu, cho nên giáo hóa là điều khẩn yếu nhất vậy. Khổng Tử nói: “Duy thượng trí dữ hạ ngu bất di” (Chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là chẳng thay đổi). Chỉ cần ra sức giáo hóa thì sẽ có thể khiến cho con người đổi ác theo lành, buông dao đồ tể, ngay lập tức thành Phật chẳng sót một ai! Chỉ là do nơi con người tin tưởng, nghĩ nhớ, tận lực mà hành đấy thôi. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 1 Mục đích của pháp hội lần này là hộ quốc tức tai, nhưng làm sao mới đạt được mục đích ấy? Tôi cho rằng phương pháp căn bản là Niệm Phật vì sát kiếp và hết thảy tai nạn đều do ác nghiệp của chúng sanh chiêu cảm. Nếu ai nấy đều niệm Phật thì sẽ xoay chuyển được nghiệp này. Nếu chỉ có một ít người niệm Phật thì [nghiệp ấy] cũng có thể giảm nhẹ. Pháp môn Niệm Phật tuy là vì cầu sanh Tịnh Ðộ, liễu thoát sanh tử mà lập ra, nhưng sức tiêu trừ nghiệp chướng của nó quả thật cũng cực kỳ lớn lao. Người chân chánh niệm Phật trước hết ắt phải giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận, ngăn dứt lòng tà, giữ lòng Thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 14: PHHQTT, ngày 1 Khuyên cha mẹ tu Tịnh Độ, trọn hết đạo Nho, Cầu mọi người được vãng sanh, thỏa Phật bổn hoài Ngũ Uẩn đều không, một pháp chẳng lập, Các ác đừng làm, các lành vâng giữ - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 13: Câu đối, thư 9 Tu hành, lấy đối trị phiền não tập khí làm gốc, Xét mình, dùng “chẳng chịu buông lung, tự khinh” làm công - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 13: Câu đối, thư 7 Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, Chuyên chú một cảnh, hết mạng làm hạn Chớ lạ xưng danh một tiếng, sao vượt trỗi Thập Địa? Nên biết hồng danh sáu chữ, bao trọn khắp ba thừa - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 13: Câu đối, thư 6 Pháp môn Tịnh Độ nhiếp khắp căn cơ, thật đạo Như Lai thành thủy thành chung, Ân đức Di Đà thấm trọn hàm thức, dạy chúng sanh nẻo tâm làm, tâm là - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 13: Câu đối, thư 1 Tha thiết nghĩ đệ tử… túc nghiệp sâu nặng, quá khứ, hiện tại rối bời. Tuy chuyên chí tu Tịnh nghiệp, vẫn chưa được “tâm Phật tương ứng”, nhiều năm bệnh tật triền miên, nay lại càng thêm trầm trọng. Do vậy, đặc biệt xin chùa… mở đạo tràng niệm Phật cầu sanh Tây Phương một thất. Khẩn cầu Di Đà từ phụ và các thánh chúng đặc biệt rủ lòng từ bi, mau đến tiếp dẫn con, khiến cho con chánh niệm phân minh, theo Phật vãng sanh. Chẳng lìa đương niệm liền sanh về Tây Phương, thấy Phật, nghe pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn, nương Phật từ lực và nguyện luân của chính mình, trở vào Sa Bà độ thoát chúng sanh. Nếu tuổi thọ trong đời này chưa hết, nguyện con mau được lành bệnh, sẽ cho đến hết báo thân này, hoằng dương Tịnh Độ, rộng độ chúng sanh hòng báo ân Phật. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 12: Văn sớ, thư 4 Nép trông: Phật quang chiếu khắp như mặt trời rực rỡ giữa trời, pháp hóa lưu hành như cam lộ nhuần thấm mọi vật. Có chuyện mong cầu đều ứng, không nguyện nào chẳng tròn. Kính cẩn kêu cầu bậc sẵn lòng Từ mênh mông rủ lòng soi xét. Nay có chùa… tại danh sơn… ở huyện… tỉnh… thuộc Nam Thiệm Bộ Châu trong tứ thiên hạ, vâng phụng hành di giáo của Thích Ca Như Lai, chủ tu pháp sự công đức là sa-môn…. nay do [tín chủ] cư trụ tại xóm… làng… huyện... tỉnh… thờ Phật tu nhân mà thiết lập đạo tràng Phật Thất cầu siêu cho người đã khuất vãng sanh Tây Phương. Ngày hôm nay [tín chủ]… đã suất lãnh toàn thể gia quyến tốt lành, rửa tay thắp hương, nhất tâm quy mạng trước các tòa sen vàng báu của Sa Bà giáo chủ Thích Ca Văn Phật, Cực Lạc giáo chủ A Di Đà Phật, thập phương tam thế vô tận Tam Bảo. Nguyện dõi mắt sen, xét soi tấm lòng tha thiết mong ngóng. Chúng con tha thiết đau đáu nghĩ tới [vong linh]… sanh nhằm giờ… ngày… tháng… năm… mất nhằm giờ… ngày… tháng… năm… Nghĩ vong linh khuất bóng đã lâu, hình dung, giọng nói vĩnh viễn xa lìa, chưa tu Niệm Phật tam-muội, khó khỏi theo nghiệp thăng trầm. Tam đồ cố nhiên là nơi đau đớn khổ sở, cõi nhân thiên cũng chẳng yên vui. Nếu chẳng vãng sanh Tây Phương, quyết khó được thân - tâm tự tại. Do vậy, cung kính về chùa… mở đạo tràng niệm Phật suốt bảy ngày để cầu siêu cho vong linh vãng sanh Tây Phương, nương cậy sư tăng giới đức xưng dương thánh hiệu Di Đà, dâng cỗ chay sáu vị thơm tho cúng dường Thường Trụ Tam Bảo. Sáu thời ức niệm, bảy ngày tu ròng, nhóm họp công đức chuyên cầu [vong linh]… thần siêu cõi Tịnh, nghiệp trả lại trần lao, sen chín phẩm nở hoa, trong một đời được Phật thọ ký. Lại cầu tổ tông các đời đều về Cực Lạc; quyến thuộc hiện tại đều được tốt lành. Bốn loài, chín cõi đều quy hướng pháp môn Tịnh Độ; tám nạn, tam đồ cùng vào biển nguyện của Phật Di Đà. Cung kính cầu Tam Bảo từ bi chứng minh nhiếp thọ. Kính cẩn dâng sớ tâu trình mọi lẽ vào ngày… tháng… năm… - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 12: Văn sớ, thư 2 Lệnh hữu hỏi về chuyện “dùng Quả Địa Giác để làm Nhân Địa Tâm”. Đấy là vì một câu A Di Đà Phật vạn đức hồng danh đã bao nhiếp hết sạch Bồ Đề giác đạo do đức A Di Đà Phật đã chứng. Chúng sanh niệm Phật nếu có thể khẩn thiết chấp trì ức niệm chính là dùng quả đức của Phật Di Đà để xông ướp vọng tâm nghiệp thức của chính mình. Xông lâu ngày chầy tháng, nghiệp tận tình không, tâm hợp với Phật, tâm hợp với đạo, toàn bộ cái tâm chúng sanh biến thành Như Lai Tạng. Nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân. Dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm là như thế đấy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 11: Các bài khác, thư 12 Lại nữa, năm Dân Quốc mười mấy, Phan Đối Phù trùng tu chùa Tịnh Cư ở Tế Nam. Trong lễ khai quang có tổ chức hát tuồng, khách đến rất đông. Có một người dẫn theo một đứa bé, đứng xem [tuồng] bên giếng. Đứa bé lọt xuống giếng, lập tức sai người xuống giếng mò, dưới nước không có vật gì cả! Dùng sào tre khuấy khắp đáy giếng cũng không có vật gì. Người ấy trở về nhà thì đứa bé đang ngủ trong nhà như si, như ngốc, quần áo đều ướt đẫm. Hỏi làm sao về được nhà, nó nói không biết. Do vậy, khắc một tấm bia, lập một ngôi đình, đặt tên cho giếng ấy là Thánh Tỉnh (giếng thánh), đem chuyện này gởi cho Quang. Quang đưa cho thầy Diệu Chân, thầy Diệu Chân đem dán lên bảng treo trong nhà khách ở tầng dưới đại điện chùa Thái Bình. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 11: Các bài khác, thư 9 Đạo để tận lực gắng công, tận lực tu tập không ngoài giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Dùng những điều này để tự hành, lại còn dạy người thì còn có thể siêu phàm nhập thánh, huống là phú quý, phước trạch mấy chục năm trong thế gian ư? Thầy thuốc khám bệnh cũng nên chú ý tới điều này. Ai làm được như thế thì gọi là thầy thuốc chân thật, là đệ tử chân thật của đấng Đại Y Vương vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 11: Các bài khác, thư 8 Có tâm nhưng chưa có tướng, tướng sẽ thuận theo tâm mà sanh. Có tướng nhưng thiếu tâm, tướng sẽ theo tâm diệt. Đem bốn câu này nói với hết thảy mọi người khiến cho những kẻ có tướng tốt sẽ gắng sức, kẻ không có tướng tốt tận lực tu tập. [Người nghe] sẽ mong sao hễ có tướng tốt thì sẽ vĩnh viễn giữ được vẻ tốt đẹp ấy, tướng xấu thì sẽ biến thành tốt. Thầy coi tướng thường đem điều này bảo với khách [đến xem bói] thì chính là sống trong cõi trần mà thực hiện sự cai trị, dùng bói toán để khuyến hóa dân chúng. Công đức ấy thù thắng nhất! Đem công đức ấy hồi hướng Tây Phương nhất định được mãn nguyện. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 11: Các bài khác, thư 8 Như Lai không sanh - diệt, chúng sanh có tội - phước. Phước cảm Phật xuất thế, tội cảm Phật nhập diệt. Phật tuy hiện nhập diệt, vẫn chẳng bỏ chúng sanh. Vì thế lưu xá-lợi, làm nhân duyên đắc độ. Nên biết xá-lợi này, chính là thân đức Phật, cũng là Pháp Thân Phật, nên chiêm lễ cúng dường, hãy nghiêm túc tuân phụng, lời đức Như Lai dạy, chuyên tu pháp Tịnh Độ, mau thoát cõi Ngũ Trược, hòng thỏa Phật bổn hoài. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 11: Các bài khác, thư 4 Quy củ của Linh Nham do Quang lập ra không giống với các tùng lâm trong thiên hạ (chỉ có chùa Di Đà ở Hàng Châu là gần giống. Quy củ nơi ấy cũng do Quang lập, sau này họ pha thêm đôi chút thói thù tiếp, cũng tổ chức pháp hội Diệm Khẩu). Công khóa quanh năm giống như đả thất, có ai thỉnh mở Phật thất thì chẳng qua là thêm vào ba lượt hồi hướng mà thôi. Bất luận thỉnh [Tăng sĩ tham dự Phật thất] nhiều hay ít, cả chùa đều niệm giống như thường lệ. Tất cả những tiền cúng dường liền chia đều cho cả chùa lẫn ngoại liêu, không thiên vị, không bè phái, chẳng để cho vì chia nhiều hay chia ít mà khởi lên tranh chấp. Cứ nhất loạt niệm giống như nhau, nhất loại chia đều tiền cúng dường như nhau. Chỉ có điều thí chủ thỉnh nhiều vị Tăng tham dự thì họ được công đức của nhiều người; do vậy, không một ai chẳng niệm. Nếu theo quy cách như những nơi khác thì kẻ tham dự Phật thất sẽ đả thất, còn kẻ chẳng đả thất sẽ chơi không, công khóa bị gián đoạn, Tăng chúng sẽ do được chia hay không [mà khởi lên đố kỵ]. Cách này quả thật là phương pháp bậc nhất từ trước đến nay chưa từng có để mở khóa tu Phật thất theo yêu cầu. Vì thế, người ta đa số thích mở Phật thất tại Linh Nham. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 11: Các bài khác, thư 3 Năm Tuyên Thống thứ ba (1911), tờ Phật Học Tùng Báo được phát hành tại Thượng Hải, ông Cao Hạc Niên mấy lần gởi báo qua bưu điện cho xem. Thấy những văn tự được in trong báo ấy phần nhiều hợp công đạo, nhưng những điều lạm bàn về chánh trị trong báo có chỗ hơi thiên vị, tôi trộm sợ rằng có người sẽ viện vào chuyện ấy để chê cười Phật pháp, bèn dùng cái tên Vân Thủy Tăng Thường Tàm để gởi thư xin nhà báo hãy lập luận cho công bằng, đừng để ngọc đẹp có vết, nhưng những vị biên tập trọn chẳng thèm để mắt đến. Về sau, ông Hạc Niên lên núi này, tôi kể đầu đuôi; ông ta bèn đem mấy thiên cảo văn đăng báo, ký tên là Thường Tàm, chẳng một ai biết đến. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 11: Các bài khác, thư 2 Nay tôi tỵ nạn sang Linh Nham, thấy họ sao lục bản của Trữ Công để soạn bài ký xây dựng điện Bảo Vương, rất sợ sẽ đem sai ngoa truyền sai ngoa khiến cho ngài Bách Trượng là vị thầy gương mẫu của trời lẫn người rốt cuộc bị vu báng có hành vi của tà ma, ngoại đạo. Do vậy, biện luận đại lược để mong những bậc thông sáng trong mai sau ai nấy tôn Phật kính Tổ, duy trì pháp đạo không suy sụp vậy. Hiểu cho tôi hay trách tội tôi, tôi đều chẳng màng! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 11: Các bài khác, thư 1 Từ sau khi ngài Bách Trượng viên tịch, hơn hai trăm năm, đến năm Cảnh Đức nguyên niên (1004) đời Tống Chân Tông, Dương Ức viết lời tựa cho bộ Thanh Quy, đối với quy định: “Bất lập Phật điện, duy thụ pháp đường” (Chẳng lập Phật điện, chỉ dựng pháp đường) liền cho rằng câu này rất hợp với lời Phật và Tổ đích thân dặn dò, đương thời đều tôn trọng ý kiến ấy. Trộm ngờ [câu ấy phải là]: “Tiền lập Phật điện, hậu thụ pháp đường” (Lập Phật điện trước rồi mới dụng pháp đường) thì mới phù hợp với ý Phật, Tổ đích thân dặn dò; nhưng gần một ngàn năm qua, không ai sửa cho đúng! Nay Hoằng Trữ thiền sư cũng dựa theo đó để luận đoán, khôn ngăn đau lòng buốt óc! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 11: Các bài khác, thư 1 Cần biết rằng: Nghiệp của chúng ta trong đời trước sâu như biển cả, tội cao tầy Tu Di. Tuy cảnh ngộ không tốt nhưng vẫn chưa đến nỗi quá đáng. Hãy nghĩ lại bao nhiêu kẻ đại phú đại quý nhà tan người chết, huống chi ta đời trước không có phước, nay vẫn chưa đến nỗi đói rét, so với những tình cảnh khổ sở của họ vẫn còn tốt đẹp hơn vạn lần! Hãy lấy “khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương” làm pháp tự lợi, lợi người. Nếu tâm chân thành thì nghiệp tiêu, phước tăng, sẽ dần dần yên vui, thảnh thơi vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 81 Đọc thư ông, có thể nói là “đã khổ còn chồng thêm khổ!” Cần phải sanh lòng cảm kích, chớ nên bảo “tu trì chẳng có ích gì”, rồi sanh lòng lui sụt, biếng nhác cũng như oán trời, hờn người. Hãy nên biết rằng: Do túc nghiệp, ông đáng phải gánh chịu nỗi khổ lớn lao, do tu trì nên đã biến khổ nặng thành nhẹ. Từ nay trở đi, chuyện gì cũng lợi người, tâm luôn tự phản tỉnh thì cảnh ngộ mai sau sẽ có thể chuyển thành tốt đẹp. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 81 Ông phát tâm trông giữ mộ phần để mong lệnh từ hễ chưa vãng sanh sẽ được vãng sanh, đã vãng sanh liền tăng cao phẩm sen thì hãy nên niệm Phật hiệu. Mỗi ngày chia ra làm hai thời đọc Tịnh Độ Ngũ Kinh. Kinh Kim Cang công đức tuy lớn, nhưng chưa nêu tỏ được pháp môn Tịnh Độ nên chẳng bằng xem Tịnh Độ Ngũ Kinh thì người mất lẫn kẻ còn đều có lợi ích thật sự. Niệm chú Đại Bi thì cũng dành ra một thời, ngoài ra hãy chuyên nhất niệm Phật. Khi niệm, từng câu từng chữ ắt phải nghe cho rõ ràng rành rẽ. Dẫu niệm thầm trong tâm cũng phải nghe cho rõ ràng! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 80 Trong số những người học Phật xưa nay cũng có những kẻ thoạt đầu thì tri kiến thật cao, cực lực tự lợi, lợi tha, về sau tri kiến tà vạy, sai lầm, lại còn dẫn dắt mọi người học theo tri kiến tà vạy, lầm lạc của chính mình, đáng buồn, đáng đau! Xét đến căn nguyên vì sao mắc phải bệnh ấy thì đều là do thích đội mũ cao đến nỗi những kẻ không hiểu biết đều tạo mũ cao cho kẻ ấy đội. Đội lâu ngày, chánh tri chánh kiến đã mất, hoàn toàn biến thành tà tri tà kiến, dẫu muốn cứu giúp thì kẻ ấy sẽ ngược ngạo tuốt gươm chống đối, chỉ đành để mặc cho hắn làm sao thì làm! Phàm những ai hảo tâm học Phật đều phải khuyên họ lập chí tự phản tỉnh ngõ hầu chẳng đến nỗi trở thành kết quả giống như thế ấy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 79 Cổ nhân nói: “Cái quan phương thành định luận” (Đậy nắp quan tài rồi mới bàn luận [công hay tội của một người] chắc chắn được). Bởi lẽ phàm phu đầy dẫy phiền não bị duyên nghiệp xoay chuyển, chưa đến lúc tay chân buông xuôi thì thường phải dè dặt, kinh sợ như vào vực sâu, đi trên băng mỏng, sợ hãm, sợ đọa. Đến lúc chân tay buông xuôi mới nói: “Ta biết nay đã tránh được!” Trong triều đại trước có một vị quan lớn tên X… học vấn, công nghiệp, phẩm hạnh cả cõi đời đều khâm phục. Từ sáu mươi tuổi trở đi liền buông lung vô độ, danh dự của ông X… bị tụt xuống vạn trượng. Thật đáng tiếc, đáng thương! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 79 Ông in kiểu này đủ biết là chẳng thông cảm cho người khác quá sức! Chính ông đọc được, chứ nếu có ai nhìn chẳng rõ, chắc là sẽ đến nỗi hỏng việc, há nên làm cho lá thư của tôi khiến cho người đọc phải hao tốn tâm lực, mục lực, rốt cuộc có ích gì cho chính mình đâu? Cái thói thông tục ấy vàn muôn phần chớ nên dùng. Hễ dùng sẽ bị tổn phước, lại còn chuốc lấy sự ghét bực, chê trách của người khác! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 78 Trong khi gặp nguy hiểm lớn lao, niệm Phật một tiếng liền không còn nguy hiểm, đủ biết từ trước đến giờ bọn nhà Nho báng Phật là tự lầm, lầm người, tội vừa sâu lại vừa nặng! Đã vừa niệm liền được gia bị thì khi lâm chung vãng sanh cũng sẽ vô ngại, cố nhiên nên cực lực đề xướng. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 78 Bài thơ của bà hay lắm, nhưng chớ nên thường làm thơ. Bởi lẽ, thường làm thơ thì trong tâm sẽ thường chú trọng cân nhắc, chọn lựa từ ngữ, niệm Phật sẽ trở thành chuyện ngoài da, làm thơ trở thành chuyện cốt tủy! Làm sao đạt lợi ích chân thật nơi niệm Phật cho được? Hết thảy văn nhân hễ muốn đạt được lợi ích thật sự đều phải nên như vậy. Huống chi bà là nữ nhân, há nên dùng thơ ca để được nổi danh ư? Phàm đối với những kinh sách giảng nói Phật pháp đều phải nên cung kính, chớ nên khinh nhờn! Muốn tặng cho người khác thì trước đấy phải đem điều này răn nhắc họ, ngõ hầu họ chẳng đến nỗi lầm lỡ gây nên tội báo! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 77 Chữ Niệm (念) trong “niệm Phật” chớ nên thêm chữ Khẩu (口). Chữ Niệm [hàm nghĩa phát xuất] từ nơi tâm. Nếu thêm vào chữ Khẩu thì Niệm (唸) sẽ có nghĩa là rên rỉ, chứ không có nghĩa là ức niệm (nghĩ nhớ) nữa. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 77 Nói tới đạo “thất phu, thất phụ có thể cứu giúp thiên hạ”, chớ có hiểu lầm! Đấy chính là “trọn hết bổn phận của chính mình, dốc lòng vun vén luân thường, cha từ, con hiếu, chẳng phụ bạc thiên chức [của chính mình]”. Lại còn đề xướng nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình, nhưng giáo dục trong gia đình phải chú trọng nhất nơi nhân quả báo ứng. Làm được như thế thì hết thảy mọi người sẽ tự có thể mong mỏi “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”, lại còn “tu trì Tịnh nghiệp, lợi khắp các hàm thức”. Đấy chính là cứu giúp, chỉ có như vậy mà thôi! Những kẻ cổ động nam nữ bình quyền hiện thời, muốn cho nữ nhân làm chuyện của nam giới, chẳng biết phát huy chuyện giúp chồng dạy con, đáng thương quá sức! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 77 Nay gởi qua bưu điện cho bà một gói Quán Âm Bổn Tích Tụng, một gói Văn Sao, một gói Thọ Khang Bảo Giám, xin hãy lắng lòng xem kỹ thì những nghĩa chánh yếu trong Phật pháp, quy củ lớn lao để làm người, pháp môn để liễu sanh tử ngay trong đời này, đạo lý để thất phu cứu giúp thiên hạ sẽ đều biết rõ! Nay đặt pháp danh cho bà là Huệ Đạo, nghĩa là dùng trí huệ để tự hướng dẫn và hướng dẫn cha mẹ ruột, bố mẹ chồng, chồng và anh em trai, chị em gái, chị em dâu, thân thích, con cái v.v… để họ cùng được gội ân Phật, cùng niệm Phật hiệu. Trong đời này làm một người lành chân thật, lâm chung sang thẳng ao báu để thọ sanh. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 77 Hiện nay các xứ đều phát khởi Niệm Phật Xã, Cư Sĩ Lâm, chỉ riêng một huyện Vô Tích đã có hơn một trăm chỗ lập Niệm Phật Liên Xã. Kẻ có hiểu biết ai nấy đều gieo lòng Thành để tu Chánh Quả nhằm mong thoát lìa biển khổ, gặp Thế Tôn. Nhưng những người ấy chắc các hạ cũng chưa thấy nghe, hoặc họ chẳng thể phát khởi lòng tin cho các hạ được. Nay thỉnh một vị các hạ bội phục nhất đến thuyết pháp cho các hạ, quyết các hạ trọn chẳng thể không sanh lòng kính ngưỡng, bắt chước theo. Người ấy ở ngay nơi làng xưa của các hạ, tức Văn Trung Công Lâm Tắc Từ. Cụ này học vấn, trí thức, chí khí, tiết tháo, trung nghĩa ngay trong thuở ấy cũng như trong đời sau, nếu không phải là kẻ mất trí điên cuồng không ai chẳng ngưỡng vọng, kính mộ. Ngay trong lúc cụ bận bịu chánh sự đến tột cùng vẫn chẳng bỏ tu trì, đặc biệt đích thân cung kính chép nắn nót ba kinh Di Đà, Kim Cang, Tâm Kinh, hai bài chú Đại Bi và Vãng Sanh thành một cuốn kinh nhỏ để tiện trì tụng trong khi ngồi kiệu đi lại. Đủ biết một đại nhân vật như vậy, chánh sự hết sức bề bộn, trong lúc ngồi xe đi lại vẫn tụng kinh chú để tu trì Tịnh nghiệp. So với cụ, chúng ta muôn phần chẳng sánh kịp một! Há nên chẳng dốc hết lòng nơi chuyện này ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 76 Gần đây nhận được thư của lệnh lang là Trí Lập, cho biết các hạ đã hai lượt tìm được tượng Quán Âm Đại Sĩ. Lần thứ nhất là mua được tượng Đại Sĩ bằng đồng sắp bị nung chảy và mộng thấy kỵ binh vũ trang theo kiểu cổ, cùng giấc mộng thấy ăn bánh bao chỉ của tăng sĩ, và nghe nói: “Hãy nhanh chóng gieo lòng Thành tu tập Chánh Quả, thoát lìa biển khổ để thấy Thế Tôn”. Qua mấy chuyện này, biết các hạ đã có thiện căn từ đời trước, tiếc rằng trong đời này chẳng gặp được thiện tri thức khơi gợi, cho nên đến nay vẫn hờ hững, lan man, dường như có, thoạt như không, vẫn chẳng khác với trước kia cho mấy, cũng đáng cảm khái than thở lắm thay! Ấy là vì bậc sĩ đại phu nơi quý địa ít người thông hiểu pháp, không được khơi gợi hưởng lợi ích “trông theo nhau [bắt chước làm lành]”. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 76 Lệnh muội đã tu Tịnh nghiệp sẵn, khi lâm chung lại được chồng, con và em dâu trợ niệm; cho nên được tướng lành đảnh đầu còn ấm [sau khi mất]. Đáng gọi là đã có thiện căn từ đời trước, nay lại được trợ duyên, may mắn chi hơn? Lại còn cảm được chồng và em dâu đều muốn quy y Phật pháp. Đấy đúng là “người theo từng loài mà nhóm lại, vật chia ra thành từng bầy” vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 74 Nhận được thư từ mấy hôm trước, biết Sư đã tu bổ tháp của Trí Giả đại sư, sai Quang soạn bài ký. Quang chữ nghĩa vụng về, chất phác, gom góp được hơn tám trăm sáu mươi chữ, thật ra là sao lục từ các ghi chép, chứ không phải do tôi soạn ra. Vì thế gọi là Thuật. Cao Tăng Truyện, Thích Thị Kê Cổ Lược đều chép sai là Ngài thọ sáu mươi bảy tuổi. Vì thế, niên hiệu hoàng đế, năm, tháng lúc Ngài sanh ra, xuất gia, vào núi Thiên Thai, cho đến khi viên tịch, mỗi mỗi đều chép lại đầy đủ để làm chứng cứ hầu dứt trừ lòng nghi. Đại sư hoằng pháp mấy chục năm, làm sao thuật trọn cho được? Vì thế chỉ lược thuật những nghĩa trọng yếu như Ngài phán giáo, truyền tâm và hoằng dương Tịnh Độ mà thôi. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 72 Lệnh từ đã khuất, khó thể khuyến khích cụ tu Tịnh nghiệp được, chỉ có thể thay mặt hồi hướng cho cụ. Mẹ ruột ông đã có tín tâm há chẳng nên thường giảng bàn hằng ngày để mong cho cụ sẽ được cao đăng phẩm sen hay sao? Làm con báo đáp cha mẹ hay độ sanh đều phải coi cách này là bậc nhất. Xin ông hãy gắng sức thì may mắn lắm thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 71 Sách chú giải kinh Pháp Hoa có mấy loại được lưu truyền, nhưng trong những sách giảng về những nghĩa quan trọng thì nên lấy Pháp Hoa Hội Nghĩa làm đầu, còn giải thích kinh văn thì sách Pháp Hoa Chỉ Chưởng giảng cặn kẽ nhất. Ba bộ Hội Nghĩa, Khoa Chú, Nhập Sớ đều noi theo bộ Pháp Hoa Văn Cú [để giảng giải], nhưng những chỗ nêu tỏ của đại sư Ngẫu Ích vượt xa các vị sư khác. Nếu muốn được lợi ích thật sự, hãy nên lấy những lời Quang đã nói trong lần trước làm điều chủ yếu [để tuân hành]. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 71 Lệnh từ đã trọn vẹn đức hạnh của phái nữ, điều thiếu sót là chưa được nghe biết pháp môn Tịnh Độ mà thôi! Xin các hạ trong lúc hồi hướng sáng tối, hãy thay cụ hồi hướng cho cụ được vãng sanh thì sẽ đáng gọi là “hiếu thảo lớn lao, tôn kính cha mẹ” vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 71 Nếu con gái không được dạy dỗ, chẳng những nó không thể giúp chồng dạy con mà còn đối với nghĩa, đối với đạo sẽ dạy con làm điều sai trái, dạy con làm ác. Phàm những tên đại gian đại ác xưa nay đều chẳng phải do mẹ hiền sanh ra! Muốn gia đình hưng thịnh, đất nước bình trị thì phải khởi đầu từ nuôi dạy con cái. Đấy là đạo để giải quyết vấn đề từ căn bản. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 71 Nếu tập khí sân hận quá mạnh, hãy nên thường giữ tấm lòng nghĩ thương hết thảy. Phàm gặp chuyện chẳng vừa ý, thảy đều thông cảm cho người khác, vun bồi sâu xa lòng Từ của chính mình thì oán hờn chẳng khởi, nhân ái thường hiện hữu, tập khí sân hận sẽ biến mất chẳng còn nữa. Đấy là những tập khí lớn lao của người đời, những tập khí lớn đã chế phục được thì những tập khí nhỏ cũng chẳng có cách nào sanh khởi được! Nhất tâm niệm Phật thì trời trong đất yên, trọn chẳng có hơi hướng bụi bặm gì! Bài thơ đẹp đẽ của ông thanh vận réo rắt, tiếc là đem phàm lạm thánh đến nỗi chẳng phù hợp với đề tài. Bốn mươi năm qua Quang đã đoạn tuyệt chuyện này (nhằm dứt thói tệ trong tâm thường cân nhắc chọn lựa từ ngữ vậy). Vì thế chẳng thể họa được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 70 Chẳng hạn như khi thấy sắc đẹp, do yêu mến liền nẩy sanh lòng dục thì đối với sắc đẹp gợi lòng yêu mến ấy liền quán chẳng qua là ta bị vẻ tươi đẹp của một lớp da mỏng gạt gẫm. Thử bóc lớp da mỏng tươi đẹp ấy đi, dẫu tâm yêu thương nồng nàn đến mấy cũng sẽ chuyển thành hoảng sợ, chán ghét. Cái tâm yêu thương trước kia trọn chẳng còn tơ hào gì nữa! Tiến hơn bước nữa là quán những thứ như máu, thịt, phân, tiểu v.v… trọn chẳng khác gì tử thi, nhà xí, tuy đầy đủ trang nghiêm, nhưng nhìn thẳng xuống phía dưới đáy [sẽ thấy rất kinh tởm]. Quán được như thế sẽ chẳng thấy lớp da mỏng tươi đẹp nữa, chỉ thấy trong ngoài trọn đủ ba mươi sáu món vật bất tịnh! Cổ nhân nói: “Quán Không lâu ngày, chẳng thấy trọn người”. Quang bảo: “Quán được như thế thì sẽ chẳng thấy người, chỉ thấy những món bất tịnh ấy mà thôi!” - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 70 Các hạ nói tập khí quá mạnh, Quang chẳng biết là các hạ nói đến thứ nào? Ăn uống, nam nữ là những thứ ham muốn lớn lao con người thường có! Các hạ đã ăn chay trường, dứt ăn mặn, quyết chẳng đến nỗi vướng mắc tập khí ăn uống. Đối với nữ sắc, chắc cũng chẳng đến nỗi dính dấp những chuyện trái lẽ. Nếu dục tâm chẳng thể chế ngự được ngay, chỉ nên thường quán Bất Tịnh thì dục tâm sẽ tự tiêu. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 70 Pháp Niệm Phật thông trên thấu dưới, chứ không phải pháp này chỉ thích hợp cho kẻ hạ căn! Kẻ hạ căn chẳng thể tu pháp khác được; chứ đối với pháp này, cố nhiên không một ai chẳng thể tu được; do vậy, pháp này là pháp môn phổ độ từ bi lớn nhất của đức Như Lai. Nhiếp tâm niệm Phật chắc chắn chẳng phải là phương cách dễ dàng, nhưng pháp nhiếp tâm chỉ có xoay cái Nghe trở lại quả thật là bậc nhất! Các hạ thiên tư thông minh, mẫn tiệp, chẳng lấy Thiền, Giáo để tự cao, lại chuyên tâm niệm Phật; đủ thấy trong đời trước đã có đại nhân duyên đối với pháp môn này. Chẳng những các hạ sẽ được lợi ích thật sự ngay trong đời này mà còn khiến cho lệnh từ lẫn quyến thuộc cả nhà đều được liễu sanh thoát tử ngay trong đời này; đáng gọi là “Ưu Đàm vượt ngoài kiếp, hoa sen trong lửa đỏ”, khôn ngăn khâm phục! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 70 Niệm Quán Thế Âm tự cảm thấy khẩn thiết là do quen nghe nói Bồ Tát tầm thanh cứu khổ. Các hạ bảo ông ta có nghiệp từ đời trước thì nói như vậy cũng khá đích xác. Đối với pháp môn Tịnh Độ, nếu ông ta không bị nghiệp chướng đời trước ngăn trở thì vừa nghe sẽ liền hành ngay, đâu phải đợi người khác khuyên nhắc đôi ba lượt mà vẫn cứ coi pháp môn này như chuyện ngoài da, coi luyện đan là chủ thể ư? Nhưng nghiệp do tâm tạo, nghiệp sẽ chuyển theo tâm. Đại trượng phu sống trong thế gian há bỏ mặc cho nghiệp ràng buộc, mỗi mỗi phải nghe theo mệnh lệnh của nó ư? Nếu ông Từ là kẻ như thế thì vừa nghe lời này ắt sẽ như thấy mẹ té vào lửa, nước, sẽ gấp rút cầu vị có đại thế lực là A Di Đà Phật cứu giúp. Há lẽ nào lại chịu thong dong luyện đan, đợi đến khi thành tựu, đầy đủ thần thông rồi mới cầu A Di Đà Phật tiếp dẫn hay chăng? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 70 Cần biết rằng: Lợi ích của pháp môn Tịnh Độ chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu hiểu cùng tột. Ông Từ là hạng người nào? Chắc là không hiểu biết nên mới nẩy sanh ý kiến ngu muội chẳng hợp tình ấy, há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? Hãy nên bảo ông ta đọc kỹ đoạn này trong Lạc Bang Văn Loại, lại còn bảo ông ta xem các sách như Tịnh Độ Thánh Hiền Lục v.v… thì những suy đoán lầm lạc, mù quáng sẽ bị tiêu diệt hết sạch! Khi niệm Phật chẳng có mảy may cảm ứng nào là vì chẳng biết Phật lực, tâm chẳng khẩn thiết. Chẳng biết tới Phật lực là do chưa nghiên cứu sâu xa các kinh luận Tịnh Độ mà ra! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 70 Kẻ vãng sanh Hạ Phẩm Hạ Sanh trong Quán Kinh chính là kẻ trọn đủ Ngũ Nghịch, Thập Ác. Khi lâm chung, tướng địa ngục đã hiện, nhưng gặp được thiện tri thức dạy niệm danh hiệu Phật, kẻ ấy bèn niệm mười tiếng hoặc mấy tiếng rồi liền mạng chung nhưng vẫn được vãng sanh. Nay đã sẵn cái tâm thuần hiếu, kính trọng, ngưỡng mộ cha mẹ, nếu có thể phát hoằng thệ nguyện xưng niệm danh hiệu Phật (Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, ắt phải thề khắp vì chúng sanh trong pháp giới. Nếu chẳng phát cái tâm ấy thì chính là tình kiến phàm phu, chẳng dễ gì cảm thông được). Dùng công đức ấy để tiêu trừ tội nghiệp tăng trưởng phước huệ cho cha mẹ, cầu Phật từ bi tiếp dẫn vãng sanh thì tâm hợp với đạo, tâm hợp với Phật, nào cần phải đợi mẹ cùng sanh, hoặc cứ phải đợi mẹ vãng sanh trước rồi ông ta mới vãng sanh sau? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 70 Phàm những bậc danh nhân tăng - tục xưa nay đã dùng tụng kinh niệm Phật để cứu vớt [vong linh] những kẻ cô quạnh kể sao cho xiết! Chưa chắc ông Từ chẳng hề nghe chuyện ấy. Trong trang năm mươi tám, năm mươi chín của quyển bốn sách Lạc Bang Văn Loại có đến hai lượt chép chuyện “lâm chung thỉnh Tăng niệm Phật liền được vãng sanh”. Điều này khiến cho các vị đại lão trong nhà Thiền phát tâm niệm Phật. Đủ biết lòng Từ rộng lớn của đức Phật, hễ có nguyện ắt Ngài sẽ thuận theo. Vì thế chẳng cần biết là đã tu lâu hay mới tu, Phật đều bình đẳng rủ lòng nhiếp thọ. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 70 Người bạn họ Từ bẩm tánh thuần hậu, thành khẩn, tiếc là chưa hiểu rõ về mặt Lý nên dùng tri kiến của phàm phu để lầm lạc suy lường trí Phật. Ông ta nói được kim đan, đắc thần thông, thấy mẹ [cũng được sanh vào cõi] trời [hay trong cõi] người thì mới chịu cùng với mẹ sanh về Tây Phương! Trong thời khắc ấy, nếu chỉ riêng mình ông ta được vãng sanh thì trong tâm sẽ chẳng thể cam lòng! Ý ấy tuy tốt lành, nhưng xét về mặt Sự lại chẳng khác gì chính mình đang chìm dưới giếng lại toan cứu người cho mấy! Một là vì ít xem kinh luận Tịnh Độ, hai là chưa qua lại với tri thức Tịnh Độ, cho nên mới có ý kiến ngu muội không thông suốt như thế! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 70 Trong đời trước, lệnh từ đã có nhân duyên lớn với Tịnh Độ, hãy nên đem sự lý chẳng thể nghĩ bàn của Tịnh Độ để khuyên nhủ ngõ hầu cụ biến hết công đức làm việc từ thiện lẫn công đức tụng kinh thành tư lương vãng sanh, quyết định giã biệt dòng phàm, cao dự thánh hội. Há có sự tôn kính, hiếu thảo với cha mẹ trong cõi đời nào hơn được chuyện này? Thành tựu một người vãng sanh tức là thành tựu một phàm phu làm Phật, há chẳng dốc hết sức khuyên nhủ đấng sanh ra ta để họ ắt được thỏa sở nguyện ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 70 Nhận được thư, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Những lời Quang nói phần lớn giống như [lời lẽ của] kẻ bộ hành teo chân. Nếu khách đi đường chẳng vì kẻ [teo chân] ấy không đi được mà chê bỏ thì chẳng ngại gì theo con đường do kẻ không thể đi được một bước ấy đã chỉ dẫn để được về ngồi yên trong nhà. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 70 Quang thấy con người hiện thời đối với chuyện phụng sự cha mẹ đều nói suông là đã kể như xong chuyện, chứ thật khó tìm được kẻ nào gắng sức tu trì. Thuở trước, những hành vi của ông đều phạm phải lỗi lầm to lớn, nay hãy nên gắng hết sức tu trì thật sự hòng bù đắp. Nếu chỉ chuộng những lời lẽ bóng bẩy, rỗng tuếch nhằm sướng tai khoái mắt người khác, đâm ra người ta sẽ chê trách lỗi cũ rồi trách tội. Dẫu có lừa được người khác, há có lừa được tự tâm hay chăng? Chẳng thể lừa tự tâm được, vì thế thiên, địa, quỷ thần đều chẳng thể lừa, huống là Phật, Bồ Tát ư? Vì tự tâm dung nhiếp với Phật, Bồ Tát, thiên, địa, quỷ thần vậy! Từ nay, chuyện gì cũng nên cầu chân thật, tâm tâm tự phản tỉnh thì lòng sẽ ngay thẳng vì đạo, hợp với Như Lai, sẽ tự có thể cảm ứng đạo giao, sống được [Phật, Bồ Tát] gia bị, mất được Ngài tiếp dẫn vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 69 Trung Hoa Tân Báo đã muốn đăng kèm thêm Phật học, phàm những truyện tiểu thuyết khơi dâm, gợi dối, lẽ ra đừng đăng tải thì quốc dân mới được hưởng ích lợi thật sự! Nếu như chỉ mong thích hợp với thị hiếu của hạng hạ lưu trong xã hội thì tăng thêm một phần báo cố nhiên chẳng bằng giảm đi một phần báo vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 69 Đối với Tướng Tông, ông khá thông hiểu. Nhưng nhờ vào đấy để chiết phục lũ ngông cuồng khiến chúng hồi hướng Tịnh Độ thì được, chứ nếu chuyên nhất dụng tâm nơi ấy, đem tín nguyện niệm Phật vứt ra sau ót, sợ sẽ thường làm chủ nhân trong thế giới Sa Bà đấy nhé! Bởi lẽ, Sa Bà là do chính mình có, cũng rất có tiếng tăm lớn, nhưng bị Sa Bà trói buộc chẳng được tự tại thì chẳng thà không có còn hay hơn! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 69 Quang làm người không có gì là được hay không được! Người đến chẳng cự tuyệt, người đi chẳng đuổi theo. Đến hay đi mặc họ, chẳng can dự gì đến tôi! Năm nay công việc hết sức bận bịu, không rảnh rỗi để trở về đất Tần. Bởi lẽ, nếu trở về đất Tần thì Đại Sĩ Tụng, Phổ Đà Sơn Chí đều không có người giảo chánh, đối chiếu, lo toan. Huống chi còn có chuyện chùa Pháp Vân ở Nam Kinh lập thêm Viện Mồ Côi, cụ Phùng Mộng, Vương Nhất Đình v.v… đều lôi Quang gia nhập để góp phần náo nhiệt, nhưng may mắn là Quang không có tâm tham. Nếu hơi có tâm tham danh, chắc danh vị “khai sơn đời thứ nhất” của chùa Pháp Vân há chịu nhường cho người khác! Nhưng Quang xem danh vị ấy hệt như tù nhân trong nhà giam, chỉ sợ lỡ bị ràng buộc vào đấy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 69 Gã X… đến đất Tần (Thiểm Tây) có quan hệ rất lớn. Nếu hắn ta băng thanh ngọc khiết (trong trắng như băng, sạch như ngọc), noi theo quy củ thì quá nửa người đất Tần sẽ bị đoạn mất thiện căn. May mắn là hắn ta đã bộc lộ toàn thể tham - sân - si, bị người đất Tần miệt thị cho nên không ai chịu tin theo những gì hắn ta nói. Ông gởi thư hỏi những điều hắn chẳng thể biết được nên hắn trọn chẳng thể viết thư trả lời. May là ông gởi thư hỏi, chứ nếu không, hắn sẽ cho rằng đất Tần không có ai! Biết thì không khó, làm được mới là khó! Hắn hoàn toàn tin tưởng Quang, nhưng do hiểu lầm ý nghĩa một lá thư liền trở thành phản đối, đủ biết hắn không có tín tâm chân thật, chưa sanh được nhẫn nhục mà sân hận đã lừng lẫy, chẳng đáng buồn ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 69 Nay gia cảnh đã nghèo nàn, lại chẳng làm một chuyện gì, cứ lầm lạc mơ tưởng cảnh giàu sang thuở trước, điều này cũng cho thấy ông chẳng khéo biết sống trong cảnh nghèo nàn! Nếu ông quên được cảnh giàu thuở trước lẫn cảnh nghèo sau này, Quang bảo đảm ông nhất định sẽ niệm Phật vãng sanh Tây Phương! Nếu không, sẽ khó khỏi đời sau còn khổ sở hơn đời này nữa đấy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 68 Hãy thử nghĩ: Người trong thiên hạ những kẻ khổ hơn ta chẳng biết nhiều gấp mấy ngàn lần? Ta may mắn nửa đời người vẫn còn tốt đẹp, nay tuy chẳng tốt đẹp, nhưng vẫn còn hơn những người cuộc sống chẳng tốt đẹp nhiều lắm. Nam nữ trong thế gian làm tôi tớ cho kẻ khác rất nhiều! Chuyện gì cũng phải đích thân làm, đấy chính là bổn phận trong đời người. Dẫu làm tôi tớ cho kẻ khác thì chỉ cần ta chẳng mang bụng dạ xấu, chẳng làm chuyện xấu thì cũng rất có thể diện. Nếu chính mình sử dụng người khác thì cảm thấy rất vinh diệu, còn nếu chính mình phải phục dịch người khác thì lại cảm thấy rất tủi nhục. Đấy chính là suy nghĩ của kẻ trượng phu hèn hạ trong thế gian! Nếu là bậc đại quân tử thì phú quý chẳng dâm dật, tuy nghèo hèn vẫn chẳng thay đổi chí hướng, an vui trong mọi cảnh ngộ, dẫu phú quý vẫn giữ bổn phận của kẻ nghèo hèn; dẫu nghèo hèn vẫn cảm thấy chẳng thiếu sót, áy náy gì! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 68 Quả ắt phải có nhân, chớ nên oán trời, trách người. Quân tử hành xử theo đúng địa vị, nếu phú quý sẽ sống theo hoàn cảnh phú quý. Người phú quý có tài lực lẫn thế lực sẽ dùng tài lực và thế lực của chính mình để lợi người, lợi vật. Gặp cảnh nghèo hèn sẽ sống theo cảnh nghèo hèn. Xưa vốn phú quý nay đã nghèo hèn thì cần kiệm, bớt tiêu dùng, giống như từ trước đến giờ vốn là kẻ nghèo hèn. Sống ở nơi Di Địch thì hành xử theo kiểu Di Địch. Nếu gặp nhằm đời loạn, phải bỏ nhà tỵ nạn, ở nơi xa xôi, hoang vu, cũng sẽ sống như người ở nơi hoang vu. Gặp cảnh hoạn nạn bèn xử sự theo cảnh hoạn nạn. Đã gặp phải những chuyện lo buồn, tai nạn thì vẫn chẳng oán hờn, cứ chấp nhận giống như chính mình đáng phải hứng chịu nỗi lo buồn, tai nạn ấy! Do vậy, quân tử không khi nào chẳng vui theo mạng trời, trong lòng thản nhiên. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 68 Bốn mặt một hộp hương nhỏ của tiệm hương X… ở Thượng Hải có [in hình] năm mươi mấy vị Phật; năm ngoái Quang trông thấy liền gởi thư cho ông chủ, chưa được trả lời. Trong mùa Xuân, tiệm hương X… nọ ở Hạ Môn cậy một vị cư sĩ xin Quang viết chữ. Do mục lực lẫn tinh thần không đủ, tôi chỉ đề bốn chữ. Họ nói có gởi hương tới theo đường bưu điện. Thư nhận được mấy hôm rồi hương mới được gởi tới. Hương có tới mấy loại nhưng đều chẳng ngửi được! Ấy là vì họ chỉ cốt sao có mùi thơm, chẳng cần biết vật liệu chế tạo hương là sạch hay nhơ. Chớ nên đốt hương Ấn Độ vì họ bỏ thêm chất Xạ vào hương. Chẳng những mùi hương ấy khiến cho người ta ngầy ngật mà sợ rằng còn khiến cho hoa quả, phụ nữ có thai sẽ do vậy mà bị rụng hoa, đọa thai nữa! Những kẻ buôn bán loại hương ấy gây tội nghiệp lớn lao chẳng thể nào kể xiết! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 67 Chuyện buôn bán hương dễ vun bồi phước nhất mà cũng dễ tạo nghiệp nhất! Chế tạo hương không tinh khiết, ganh đua trang hoàng cho mới lạ: Đem hình tượng Phật, Bồ Tát in trên tờ hướng dẫn cũng như in trên hộp đựng hương. Lại còn đem hình tượng Phật, Bồ Tát gắn vào chính giữa vòng nhang, kẻ vô tri đua nhau mua sắm. Cái tội khinh nhờn kể sao cho xiết? Tờ hướng dẫn, hộp đựng hương bị [người ta dùng xong] tùy tiện vứt đi. Cầu lợi như vậy, tôi sợ là chẳng những con cháu tuyệt diệt mà còn sợ khi kẻ ấy một hơi thở ra không hít vào được sẽ vĩnh viễn đọa trong địa ngục A Tỳ bởi đã phát khởi lòng khinh nhờn hình tượng Phật, Bồ Tát cho cả ta lẫn người, khiến cho người kính Phật cũng mắc đại tội, huống là kẻ chẳng có lòng tin ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 67 Ông hỏi như vậy, tôi đáp như vậy! Nếu có mấy người giống như ông thì tôi sẽ mệt nhọc đến chết mất! Ông đã có Văn Sao, có sách Tịnh Độ, nhưng chẳng bắt chước theo những thứ ấy, cứ hướng về tôi để chọn lấy những lời lẽ ngoài miệng hoặc nơi ngòi bút. Nếu tôi có thể hiện khắp các sắc thân thì cố nhiên không trở ngại gì! Nếu không, chắc là ông chưa được lợi ích mà tôi đã chết trước vì nhọc nhằn rồi! Nếu mai sau vẫn cứ lôi thôi như thế này, tôi sẽ không trả lời nữa đâu! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Lấy tên ghép thành câu đối và làm kệ là thói quen của cõi tục trong đời gần đây. Ông hãy nên làm những chuyện chánh đáng theo lẽ thường, chớ đừng không có chuyện gì bèn bới ra chuyện để làm! Há lẽ nào Quang lại vui thích vì được ông tâng bốc như thế ấy? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Tiêu Sơn hoàn toàn chưa từng đọc kinh Phật, nhưng trong Niên Phổ đã chép khi ông ta thọ hình trọn chẳng biết đến đau khổ. Người thiếp của ông ta là bà X… niệm Quán Âm, chắc là được Quán Âm gia bị mà ra, cho nên bị cực hình mà chẳng đau khổ! Đấy cũng là do lương tâm phát hiện. Vợ ông ta cũng chẳng biết Phật pháp, dâng sớ xin chết thay cho chồng, chính mình và hai đứa con đều không nhắc tới niệm Phật một chữ nào! Con người sắp chết, lời nói ắt lành. Nếu dựa trên tâm hạnh của Tiêu Sơn thì lẽ ra ông ta phải rất ghét người thiếp ngu mê thì mới hợp với tâm ông ta vậy! Ông ta đã cảm kích người thiếp niệm Quán Âm, há đâu lại nghiêm cấm dân chúng thắp hương lễ Phật? Đủ biết là tuy ông ta không tin Phật, nhưng đến khi đại nạn xảy tới, trong lương tâm cũng thốt ra lời tin tưởng! Học thuyết khiến con người bị lầm lạc lắm thay! Bởi lẽ, với thiên tư của Tiêu Sơn, nếu nghiên cứu Phật pháp đến mức cùng tận, há lẽ nào chỉ cống hiến cho nước, cho dân, cho thân như thế mà thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Chuyện diệt Phật nếu thành sẽ có quan hệ lớn lao đối với xã tắc, chứ không phải chết đi sẽ đọa trong địa ngục A Tỳ mà thôi! Thời Gia Tĩnh [triều đình] một mực ưa chuộng Đạo Giáo, ghét Phật giáo. Nếu trọng dụng Tiêu Sơn, đích xác ông ta sẽ vì nước, vì dân, hưng khởi điều lợi, trừ mối tệ, nhưng do đã lậm sâu chất độc của Trình - Châu ắt sẽ coi diệt Phật giáo là công đức bậc nhất rồi dốc chí mạnh mẽ thực hiện vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Con người sống trong thế gian họa - phước dựa dẫm lẫn nhau. Tiêu Sơn do chết dưới tay kẻ quyền gian mà danh được rền khắp vũ trụ. Nếu không mắc cái họa này, hễ được đắc chí, nhất định sẽ diệt Phật thì đối với đất nước, đối với chính mình đều bất lợi lớn lao. Vì sao biết thế? Ông ta làm Điển Sứ tại Địch Đạo vì dân tạo điều lợi, trừ điều tệ, thói tệ mấy trăm năm đều trừ sạch. Niên Phổ của ông ta chép (trong thời gian làm Điển Sứ), [dân chúng] nơi ấy (tức huyện Địch Đạo) thích lễ Phật, thắp hương, ngay cả kẻ làm quan vẫn có người làm như vậy; bởi thế, ông ta bèn nghiêm cấm. Thoạt đầu nại cớ bất tiện, không lâu sau thì ai nấy đều biết ông ta là kẻ “sùng chánh, ghét tăng”. Ông ta làm Điển Sứ tại Địch Đạo chưa đầy một năm mà còn như thế, nếu làm Tể Tướng há chẳng thể không thực hiện chuyện diệt Phật giáo lớn lao ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Nếu bỏ hết những loại thuốc có dùng tới những con vật sống [để chế thuốc] thì [các thầy lang chữa bệnh] ngoại khoa sẽ khó thể chữa trị được. Chúng ta giữ tấm lòng lợi vật, hãy đừng ăn nói theo cái kiểu “thúc đẩy đến cùng tận nghĩa lý” ấy thì người ta sẽ nghe theo. Nếu không, đâm ra người ta sẽ đem chuyện thúc đẩy đến cùng tận nghĩa lý để trách móc ông đấy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Vì người chẳng thể ăn chay hoàn toàn mà Phật khai duyên Tam Tịnh Nhục và những ngày Lục Trai, Thập Trai, còn ông một chữ cũng chẳng cho nói mà lại có thể khiến cho hết thảy mọi người đều chẳng tham đắm vị thịt được hay không? Còn như Quang dùng một chuyện đau lòng nhất để khiến cho ai đọc đến trong lòng sẽ hồi hộp bất an, ắt sẽ ăn ít đi cho đến dứt hẳn, ông lại bảo là khơi gợi cơ duyên giết chóc rồi bảo hãy tước bỏ [đoạn văn ấy] đi! Vậy là “giới” của ông nghiêm ngặt hơn giới của Phật nhiều lắm, huống là [quan niệm về giới của] Quang ư? Sao ông chẳng lường nặng - nhẹ đến mức như thế ấy? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Tâm đã tạo được nghiệp thì tâm sẽ chuyển được nghiệp, nhưng tâm phải cực thành khẩn thì mới có hiệu quả thật sự. Phận làm con phải uyển chuyển nương theo lễ nghi thế gian, đối với những gì cha mẹ quy định thì chớ nên không làm theo. Dâng rượu, hiến đồ mặn [cho cha mẹ] cũng chẳng phải là không được, nhưng trong tâm phải thường sám hối túc nghiệp cho cha mẹ mong họ sẽ hồi tâm. Hễ có dịp bèn thừa cơ dùng lời lẽ mềm mỏng khuyên nhủ, đấy là chân hiếu. Nếu chỉ biết thuận theo lễ nghi thế gian, chẳng phát tâm độ cha mẹ, tức là thấy cha mẹ bị té xuống giếng bèn quăng đá theo để mong cho cha mẹ lập tức mất mạng! Vì thế, hễ cha mẹ không có lòng tin thì hãy uyển chuyển làm theo lễ nghi thế gian, còn cha mẹ có lòng tin thì hãy nên theo đúng pháp để tạo ích lợi cho huệ mạng. Hãy nên làm sao cho thích nghi để đôi đằng đều được lợi ích! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Niệm Phật mà còn nhớ nghĩ kèm thêm danh hiệu của hai vị Bồ Tát, lâu ngày chắc tâm lực sẽ bị tổn thương. Niệm Phật tâm nghĩ nhớ tượng Phật và tượng hai vị Bồ Tát, so ra đỡ tốn tâm lực hơn nhớ danh hiệu. Phàm là người học Phật hãy nên y theo ngôn giáo của đức Phật, há nên tự lập chương trình? Sữa bò lấy từ bò, tuy chẳng thương tổn sanh mạng, nhưng vẫn gây tổn hại cho bò, cố nhiên đừng nên dùng. Dẫu có dùng cũng chẳng mắc lỗi phạm giới! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Trong Đại Bi Chú, không cần phải thêm chữ vào phía dưới câu “mạ mạ”. Hễ làm vậy sẽ đâm ra trở thành chướng ngại. Cổ đức trì tụng đều không thêm vào. Tuy trong kinh có chép, nhưng câu ấy không thuộc chú văn, cố nhiên không phải là không thể noi theo khuôn phép không dùng như vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Niệm Cao Vương Kinh khá có lợi ích, nhưng kinh ấy không thật sự do đức Phật nói. Người thật sự tin Phật cố nhiên nên y theo những điều đã dạy trong phẩm Phổ Môn mà chú trọng khuyên người khác niệm danh hiệu Quán Thế Âm để cầu Ngài gia bị. Đối với phương pháp uống nước dạy trong kinh Địa Tạng, kẻ hờ hững hời hợt sẽ chẳng thể đạt được hiệu quả! Vì thế hãy nên dùng lòng chí thành niệm Phật để làm phương cách tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Tai ương, hoạn nạn xảy đến cũng là do túc nhân. Nếu có thể quy mạng Phật, Bồ Tát, sẽ tự chuyển dời được. Thoạt đầu ông do lòng Thành hứa nguyện ăn lạt, ấy là một phen dốc lòng Thành vì mọi người. Đến khi khổ cảnh đã qua, tâm lực hơi mệt mỏi liền cảm thấy khốn khó. Người tu hành cố nhiên nên chọn lựa sao cho thích đáng; phô bày hạnh lạ để mê hoặc mọi người chính là điều bị đức Phật răn cấm sâu xa. Hãy nên ăn chay là được rồi, chẳng cần phải tiếp tục không dùng thức ăn để nuốt cho trôi cơm nữa! Chỉ nên thương xót bọn họ vô tri mà thường khuyên dạy ngõ hầu họ gieo thiện căn là được rồi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Kinh Phật ý nghĩa vô cùng. Dẫu chẳng hiểu rõ ràng, nhưng giống như đặt một vật cực thơm ở trong thân thì thân sẽ tự thơm tho. Ông toan coi hết thảy sách đều cũng giống như thế thì sẽ giống như đem vật hôi thối bỏ trong thân, thân có thơm tho được hay chăng? Kinh Kim Cang dạy: “Kinh này nghĩa chẳng thể nghĩ bàn, quả báo cũng chẳng thể nghĩ bàn”. Những sách khác bất luận xấu hay tốt, há có nghĩa ấy hay chăng? Phàm đọc sách thế gian, tâm liền tán loạn chẳng tịnh. Phàm xem kinh Phật, tâm liền lắng tịnh. Do nghĩa ấy có thể thấy đức Phật là bậc đại thánh nhân, lời Ngài nói chính là khuôn phép để chuyển phàm thành thánh. Vì thế, kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa. Như người nhiễm hương, thân có mùi thơm. Đấy gọi là Hương Quang Trang Nghiêm”. Ông muốn coi hết thảy sách giống như kinh Phật sẽ trở thành kẻ chẳng biết thơm - thối, buồn thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Người trì giới hễ gặp người hay gặp thần đều đem luân hồi sanh tử ra khuyên dụ. Dẫu cúng cỗ chay, đãi cơm chay, há thần lẫn người sẽ vì đó mà oán hờn ư? Huống chi ta trì giới của đức Phật, những tà quỷ thần ấy dám oán hờn, giáng họa ư? Nếu thật sự oán hờn thì vị thần ấy có còn là chánh thần, người ấy có còn là con người chánh trực hay không? Nếu hành vi của chính mình chân thật, người lẫn thần sẽ bị cảm hóa, làm sao oán được? Nếu chính mình lén lút ăn, khi kính thần, đãi khách thì làm ra vẻ trì giới. Như thế thì thần ắt giận, người ắt oán bởi kẻ ấy giả dối. Ngụy quân tử sẽ giống như gái làng chơi hễ gặp người ta bèn khoe mình trinh khiết, có ai tin tưởng đâu! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Do giữ giới không sát sanh liền đến nỗi chẳng chịu xử phạt [khi học trò phạm lỗi], không trị bệnh, không ăn cơm! Ông đúng là kẻ chấp nhặt chết cứng, nhai bã của cổ nhân, chẳng thể tiêu hóa được! Như thế thì làm sao tự lợi, lợi người được đây? Huống chi ông nói: “Mèo bắt chuột, rắn nuốt ếch. Cứu con này ắt phải giết con kia”. Nếu theo như lời ông nói thì hễ kiêng giết, ắt trước hết phải giết sạch những con vật nào sát sanh! Nhưng trong một đời, con người sát sanh để ăn chẳng biết số tới bao nhiêu, cố nhiên phải giết hết sạch con người đi thì mới đạt được cái quả không sát sanh vậy! Đáng thương lắm thay! Có trí thông minh như vậy mà chẳng thông đạo lý đến mức như thế đấy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Sao ông chuyên môn dùng cách chấp trước chết cứng để bàn luận Phật pháp vậy? Ai bảo ông “chấp trung vô quyền” (chấp vào đạo Trung Dung, chẳng biết quyền biến). “Chấp trung vô quyền” còn không nên; thế mà trước hết ông đã dốc sức chấp chặt vào một bên, chưa hề có một chút hơi hướng, dáng vẻ Trung Dung nào hết! Ông thấy Lục Tổ giữ lưới phóng sanh liền cho là Ngài đã phạm giới trộm cắp và nói dối. Đấy chính là kiến thức “bất sủy kỳ bổn, nhi tế kỳ mạt giả” (chẳng suy xét tới cái gốc, chỉ lo vun vén cái ngọn) như Mạnh Tử đã nói. Ông thật đáng gọi là một gã hủ Nho, sao mà cũng chẳng biết nặng, nhẹ đến mức ấy? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Một chú tiểu hết sức khinh bạc, quỷ quyệt, coi hết thảy mọi người đều không ra gì! Do vậy, thầy nó cậy Quang giáo huấn (thầy nó là bạn rất thân của Quang), Quang nói rõ nguyên do khiến cho thầy ấy trong lúc đó mặt không còn hạt máu, đã sợ hãi khôn cùng. Về sau đưa nó đến, Quang bèn hòa nhã, bảo nó cặn kẽ: “Đừng trái lệnh ta. Hễ trái nghịch, quyết chẳng dễ dãi dung tha”. Tâm nó tuy kinh sợ, nhưng rốt cuộc do chưa từng đích thân thử [nếm mùi xử phạt] nên chưa đầy hai ngày đã phạm quy củ. Lúc Quang sắp đánh, liền nói trước quy củ với nó: “Không được động đậy, không được khóc!” Chưa đánh nó đã né trước. Quang nói: “Đây là lần thứ nhất ta chưa phạt. Còn né nữa sẽ nhất định trừng phạt”, rồi mới đánh, [nó đành đứng ngay đơ] giống như cái cây được trồng vậy! Từ đấy trở đi, cả nửa năm sau chưa từng phải nói lớn tiếng một lần nào, huống là phải dùng đến kiểu tức giận không thể nguôi như thế ư? Đấy là chuyện xảy ra trong năm Quang Tự 12 - 1886 (nhằm mùa Xuân. Đến ngày Rằm tháng Tám, Quang xuống núi, sang núi Hồng Loa ở Bắc Kinh. Từ đấy chưa hề trở lại Trường An, đã ba mươi tám năm rồi). - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Giận tức học trò, sao lại nổi đóa đến nỗi chẳng thể nguôi được? Chẳng qua là tạm hiện tướng nghiêm khắc cho chúng nó kiêng sợ mà thôi! Nếu nghiêm khắc quá đáng, bất quá [lũ học trò] cũng chỉ kiêng sợ tới mức như thế mà thôi, đâu còn kinh sợ hơn nữa được! Phương cách dạy dỗ là nghiêm nghị, chánh đáng. Mỗi một lời nói, mỗi một hành động đều chẳng cẩu thả, khinh bạc mảy may nào thì học trò sẽ như đến chỗ thầy dạy của nhà vua. Nếu thường ngày trọn chẳng có dáng vẻ nghiêm nghị, trang trọng, lại còn hề hà, hệch hạc với chúng nó thì dù có nổi nóng đến chết uất như thế cũng có ích gì cho chúng nó đâu? Do ông hỏi câu này, tôi biết ông và thầy của ông đều chẳng khéo nêu gương. Nếu không, chắc chắn sẽ chẳng đến nỗi giận tức như thế! Huống hồ còn nói “rộng dung cho học trò tự sửa đổi” và nuông chiều dung dưỡng thói gian trá ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Ông hỏi: “Khi hóa sanh có hiểu biết rõ ràng hay chăng?” thì đủ biết là ông đọc sách Tịnh Độ và Văn Sao đều theo kiểu nuốt trộng quả táo, trọn chẳng quan tâm mùi vị ra sao? Người niệm Phật khi lâm chung biết trước lúc mất, há chẳng thể nhận biết rõ ràng ư? Dẫu chẳng thể kể với người khác nhưng đã được tiếp dẫn bởi lòng Từ của đức Phật thì có lẽ nào lại mơ hồ mờ mịt, như đang nằm mộng nhưng chẳng biết là mộng, cũng chẳng biết làm thế nào để tỉnh ư? Ông đúng là biết nói những lời lẽ thiếu đạo lý! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Ông chỉ chuyên biết chấp trước tà kiến, coi đó là chánh pháp. “Bờ bên kia” quả thật phải tự lên, nhưng nếu chẳng niệm Phật đến mức “tâm tịnh, cõi nước tịnh”, làm sao tự lên được? Ông nghe lý tánh liền muốn phế sự tu. Chỉ có chí thành đến mức cùng cực, tâm tương ứng với Phật thì mới có thể Cam Lộ Quán Đảnh, há nên bảo là do sức tác động từ bên ngoài? Do một khắc công phu mà khiến cho chúng sanh trọn khắp pháp giới đều ngộ thì mới chính là sức tác động từ bên ngoài! Khi chính mình chưa đạt đến mức tâm tương ứng với Phật thì làm sao được Phật gia bị? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Đối với thuyết “[lễ bái thần thánh thì cũng giống như lễ bái] cha mẹ trong nhiều đời”, đấy cũng là cưỡng nói. Cha mẹ trong nhiều đời trọn khắp lục đạo, sao ông không lễ khắp ngựa, trâu, dê, gà, chó, lợn? Do vậy, đức Phật dạy con người kiêng giết phóng sanh là vì [chúng sanh] đã bao kiếp sanh ra lẫn nhau cho nên dạy con người hãy phát khởi cái tâm từ bi để thực hiện chuyện cứu vớt. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Đối với câu nói “tỳ-kheo hành đạo chẳng lạy Đế Thích”, sao ông lại gạt bỏ hai chữ “tỳ-kheo”? Do tỳ-kheo là đệ tử Phật, lạy [Đế Thích] sẽ không hợp lễ, chứ không phải là người tại gia học Phật đều chẳng được phép lạy! Người tại gia tuy thông hiểu Phật pháp, nhưng tạm thời lễ bái một vị thần chân chánh trong thế gian thì cũng chẳng phải là không được. Nhưng nếu ngày đêm thường lễ bái [thần thánh] giống như lễ Phật thì cũng chớ nên! Đấy chính là như thường nói: “Kính nhi viễn chi” (Kính trọng nhưng tránh xa) vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Như Lai sanh ra từ hông phải, sau bảy ngày mẹ Ngài liền mất, sanh lên trời Đao Lợi. Về sau, đức Phật thành Phật, lên cõi trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ, an cư một Hạ (ba tháng) trên cõi trời. Vua Ưu Điền nghĩ nhớ đức Như Lai do vậy mới tạo tượng. Ông đã đọc Văn Sao mà sao không biết [chuyện này]? Còn khi lâm chung thì đức Phật do lòng đại từ bèn thị hiện tướng nằm cát tường giống như người đời. Vì muốn răn nhắc chúng sanh nên cũng làm như kẻ bệnh thân thể chẳng được thoải mái, thảnh thơi, bảo: “Nay lưng ta đau nhức”. Sau đấy, do sợ phàm phu tưởng là thật, lại bay vọt lên hư không, hiện mấy chục thứ thần biến rồi mới nhập diệt. Đã nhập kim quan, khi Phật Mẫu từ trên trời xuống, lại từ kim quan ngồi dậy, an ủi mẹ. Xong xuôi, vẫn nằm trong quan tài. Đến khi Ca Diếp từ núi Kỳ Xà Quật đến, từ trong quan tài Phật ló hai chân ra, Ca Diếp nâng chân Phật ve vuốt. Những chuyện này hãy xem chi tiết trong phần sau (tức hai quyển cuối) kinh Đại Niết Bàn (bản bốn mươi quyển). Ngoại đạo hủy báng nói lời như vậy, bọn họ giống như con chó chỉ biết phân thơm, ngược ngạo chửi bới thức ăn ngon là hôi thối! Nếu là chó thì cố nhiên sẽ tin tưởng như vậy chẳng ngờ. Nếu chẳng phải là chó thì [sẽ cảm thấy] bẩn tai, dơ miệng, há nhắc đến những lời ấy hay chăng? Lời lẽ hủy báng của ngoại đạo phần nhiều là như vậy đấy, chỉ có người hiểu lý mới không bị mê hoặc! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 “Trái giác, hợp trần” là nói theo bản thể, chứ không phải là nói về Sự tu (tu hành trên phương diện sự tướng). Bản thể khi chưa tu giống như vàng chưa tách ra khỏi quặng, sợ con người chẳng biết là Phật tánh nên gọi là Giác. Tu rồi bản thể sẽ tỏ lộ giống như vàng tách khỏi quặng, đấy chính là do tu mà hiển tánh, do Thỉ Giác hợp với Bổn Giác vậy! Như vậy thì giống như đã thành vàng ròng, chẳng còn là quặng nữa! Ông chỉ biết nói bừa đạo lý, trọn chẳng chịu suy nghĩ nghĩa lý sâu xa, nhọc công tôi uổng phí biết bao nhiêu bút mực để rồi ông biến thành trò trẻ con đùa bỡn, biết bao giờ mới thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 [Nếu ai thấy] cảnh Tây Phương thù thắng rành rành ngay trước mắt, kẻ ấy phải tâm tâm niệm niệm tương ứng với Phật thì mới nên. Nếu không, vừa trông thấy cảnh ấy sẽ ngược ngạo phát sanh ma sự! Ví như thân chưa lành bệnh, chẳng dám hưởng sự vui sướng vì mát mẻ. Nguyện của ngài Liên Trì là nhất tâm niệm Phật, cố nhiên là chánh lý; còn như lời ông nói thì chẳng niệm mà được thấy ngay [thánh cảnh Tây Phương] nên trở thành nói nhăng, nói càn! Kẻ mù từ lúc sanh ra chẳng thấy được mặt trời rực rỡ, chim cú ban ngày chẳng thấy được Thái Sơn, chứ nào phải mặt trời rực rỡ chẳng mọc, Thái Sơn chẳng tồn tại, mà do chính kẻ mù, chim cú bị nghiệp ngăn chướng nên chẳng thấy được đấy chứ! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Phật tuy từ bi rộng lớn, nhưng muốn độ chúng sanh đều cần phải chiết phục - nhiếp thọ. Dẫu khinh mạn Phật, hủy báng Phật, Phật thật sự chẳng sanh lòng yêu, ghét, nhưng nếu không chiết phục sẽ không thể khuyên can được! Vì thế, thần hộ pháp ắt phải gieo họa cho kẻ ấy để những ai bắt chước kẻ ấy làm ác đều kinh sợ, lòng từ bi ấy không chi bằng! Lời ông nói chính là lời lẽ chẳng hiểu sự vụ, ăn nói lẫn lộn! “Hết thảy duy tâm” quả thật là lời luận tột cùng, nhưng cũng chẳng thể không nêu rõ ý chiết phục, chỉ chuyên nói duy tâm được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Do có những vị thị hiện làm kẻ ác gặp khổ liền dứt ác, hoặc do gặp ác báo mà sanh thiện niệm liền tự đổi mới, cho nên những sự tích làm súc sanh, làm ngạ quỷ thật nhiều. Hiện thân ngạ quỷ Diện Nhiên để rộng mở môn tế độ; những khoa nghi Mông Sơn,Bài Diệm Khẩu, Thủy Lục hiện thời đều bắt nguồn từ đây! Những chuyện [Phật, Bồ Tát] hiện thân súc sanh, đến cuối cùng mới hiển lộ Bổn khiến cho những kẻ trong hiện tại hoặc đời sau đều sẽ do đây mà sanh lòng tin niệm Phật, đoạn ác tu thiện chẳng thể đếm xuể, ông trọn chẳng để mắt tới, nên bảo là có ích gì, chẳng đáng buồn hay sao? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Nghiệp thông ba đời, phàm phu bèn né tránh chẳng dám đón đầu, còn thánh nhân thị hiện giáng sanh trong thế gian lại lãnh nhận nghiệp giống như trả nợ. Các ngài đã vượt thoát ra ngoài sanh tử, nhưng chẳng ngại thị hiện lãnh nhận túc nghiệp trong đời này giống như người đời hòng dứt cái tâm giết chóc của người đời sau. Ông hiểu như thế, thật có thể nói dùng lòng phàm phu để lầm lạc suy lường thánh nhân, tội lỗi vô lượng. Tuy chẳng thể biết được sở chứng của vị Tăng ấy, nhưng chớ nên chấp chết cứng “Sư chắc chắn không có nghiệp báo” đến nỗi người đời chẳng sanh lòng kinh sợ, tận lực trì thánh hiệu! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Dùng văn tự để khuyên người khác là chuyện cực hay, nhưng cũng phải có phương cách. Như những chữ ông đã viết lúc ban đầu thì đúng là người nghiên cứu dẫu dùng để ghi sổ cũng chẳng chịu dùng. Gần đây tuy chẳng noi theo thói cũ, nhưng lại nói bừa viết loạn thật giống như điên cuồng. Nếu gặp phải bậc cao minh, chắc họ sẽ coi thường ông. Hơn nữa, hãy nên y theo chương trình của phàm phu để tu trì, đừng mong vượt trỗi người khác thì sẽ có lợi ích thật sự. Nếu không, sau này nhất định sẽ có ngày nổi cơn điên cuồng lớn lao đấy! Do vậy sẽ đâm ra khiến cho kẻ vô tri lui sụt lòng tin! Xin hãy đọc kỹ Văn Sao và các trước thuật Tịnh Độ của cổ đức ngõ hầu trừ khử được tập khí ấy, chẳng đến nỗi bị ma dựa. Nếu không, khó bảo đảm chẳng bị ma dựa. Bịt tai trì chú làm sao bằng dứt vọng trì chú? Bịt tai cũng là lề thói của ma đấy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Phật pháp coi trọng chuyện lợi người; đạo lợi người nên khởi đầu từ nơi người thân. Nếu chẳng đem đạo này khuyên lơn cha mẹ, anh em, vợ con trước mà lo khuyên người khác tức là bỏ gốc chạy theo ngọn! Cần phải cùng thực hiện, cùng hành cả hai thì mới nên! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Biết có những điều không thể làm được nhưng vẫn dốc hết khả năng để thực hiện thì chính là tâm hạnh đại từ đại bi của Bồ Tát. Biết có những điều chẳng nên làm nhưng cứ nhất loạt chẳng kiêng giữ thì sẽ trở thành chủng tử địa ngục! Kẻ tà kiến thường đem những điều chẳng thể thực hiện để ngăn trở người khác, bảo: “Con người mỗi một hơi hít vào có vô số trùng nhỏ nhoi bị hút vào bụng, đều là sát sanh, đều là ăn thịt, làm sao ông chẳng sát sanh, chẳng ăn thịt cho được?” Điều ấy thật giống như toàn thân vùi lấp trong hầm xí rồi cũng muốn lôi kẻ khác vào trong ấy. Người ta chẳng chịu nghe theo, bèn nói: “Ngươi chê ta là hôi thối, vậy trên thân ngươi thường có ruồi, muỗi, rận tuôn phân vãi tiểu, mà vẫn chẳng phải là ở trong hầm xí, vẫn chê ta hôi thối ư?” Những loại tri kiến ấy đều thuộc tà kiến, đều phát sanh từ những kẻ thông minh, đáng sợ thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Buông thõng ống quần là tập quán của phương Nam; chứ nếu là người phương Bắc thì cũng không có thói quen ấy, huống là một vị cư sĩ học Phật ư? Vì thế, cư sĩ cũng nên buộc chặt ống quần lại thì mới nên. Những vị chân tu trong Tăng chúng, khi ngủ cũng không tháo [dây buộc] ống quần ra, huống là trong ban ngày ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Ông là phàm phu, chẳng phải là thánh nhân, làm sao khỏi ngủ, thôi ăn cho được? Chỉ không tham ngủ, chẳng tham ăn, chỉ cốt dưỡng sức, khỏi đói mà thôi! Nếu như ông nói, cậy vào thần chú để thôi ngủ; nếu thật sự trì chú được linh cảm lớn lao chắc sẽ có thể không ngủ. Ngay trong đêm đầu tiên trì chú ông đã không ngủ, tức là tâm thiết tha đến cùng cực, tinh thần đã hơi bị tổn thương, cho nên không ngủ. Nếu để tinh thần bị tổn thương lâu ngày thì sẽ ngủ vùi chẳng tỉnh dậy được! Kẻ sơ tâm thường vì nhất thời tinh tấn quá độ, về sau ngã lòng biếng nhác. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Ông chỉ nên “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, tin sâu nhân quả, tận lực giữ vẹn luân thường”, kiêm dùng tín nguyện để trì danh cầu sanh Tây Phương. Dùng những điều này để tự hành, mà cũng dùng những điều ấy để hóa độ người khác. Dẫu chẳng thể có bản lãnh lớn lao, vẫn có thể đội trời đạp đất, chẳng thẹn làm người, chẳng thẹn làm thầy vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Nếu ông giữ được cái tâm “gốc chánh, nguồn trong” để làm chuyện vun bồi nhân tài thì sẽ “chẳng giữ địa vị mà thực hiện sự cai trị, chẳng lên tòa mà thuyết pháp”, vui sướng chi bằng, há gây trở ngại gì cho niệm Phật? Sáng tối hãy tùy sức xưng niệm. Ngoài những lúc ấy ra, khi nào chẳng cần phải dùng tới tâm, hễ thuận tiện bèn niệm niệm. Chỉ cần có đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, sẽ tự được vãng sanh. Nếu cứ nói “đích thân cày ruộng dễ niệm Phật”, tức là chẳng biết lúc phải tự cày ruộng do nhọc nhằn nên quyết chẳng thể niệm được! Ông nghĩ như vậy đều là vì chẳng tự phản tỉnh, mang tình kiến “đứng núi này trông núi nọ”, chẳng phải là trí thức thấu hiểu sâu xa tự tâm, thấu hiểu triệt để cõi đời vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Bàn đến số mạng thì hãy nên lấy thiên Lập Mạng của Viên Liễu Phàm làm gốc, bất luận là ai đều có thể đạt được lợi ích. Lưu tâm nơi ấy thì lợi ích ấy lớn lắm! Nhưng ý nghĩa trong ba thiên Cải Quá (sửa lỗi), Tích Thiện và Khiêm Đức (vun bồi đức khiêm nhường) đều phù hợp với mọi căn cơ để có thể nói với người khác được! So với thầy thuốc cứu sống người, công đức càng lớn hơn! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Căn bệnh nổi bướu của ông chẳng cần phải dùng tơ nhện, chỉ niệm Quán Âm cũng được lành. Do ông hoàn toàn thiếu chánh tín nên lòng luôn rong ruổi theo thuốc men. Những vị vĩ nhân lỗi lạc trong thế gian thường do bị bệnh vặt liền dùng thuốc đến nỗi mất mạng. Bọn họ dốc sức nơi thuốc men, mà cũng chưa chắc đã dùng sai thuốc, chỉ vì túc nghiệp sai khiến nên thành ra như vậy. Phàm với những bệnh cực khó trị, hãy đều nên trị bằng cách niệm Quán Âm. Nếu kiền thành, ắt sẽ có hiệu nghiệm lạ lùng. Sao tâm ông lại sân hận hừng hực đến mức như thế ấy? Đủ biết: Chắc chắn đời trước ông là kẻ có quyền thế lớn lao, cho nên tập khí đã trở thành tánh! Nay hãy nên học tánh khiêm tốn, kiềm chế, luôn biết mình chẳng đúng, chẳng thấy người khác sai trái, lâu ngày chầy tháng sẽ hàm dưỡng thành tánh, tập khí tiêu diệt. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Phàm phu tu hành hãy nên phát đại Bồ Đề tâm lợi người, lợi vật. Chuyện lợi người lợi vật chính là điều gì sức mình có thể làm được thì hãy gắng sức làm. Chuyện gì chẳng thể làm được thì ắt phải thường giữ tấm lòng ấy, [như vậy] thì sẽ chẳng trái nghịch với nguyện tâm Đại Thừa vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Trong vòng trời đất, số lượng con người thật đông, túc căn mỗi người mỗi khác. Dẫu được đức Phật giáo hóa, nhưng những kẻ do chủng tánh chẳng lành liền nẩy sanh tà kiến, giống như trời đất lấy hai khí Âm - Dương để hóa sanh vạn vật, tuy khí Âm và Dương là một, nhưng vạn hữu được sanh ra chẳng giống nhau. Thứ ngọt ngào, thứ độc địa đều tùy theo chủng loại. Những kẻ nói “vì [ngoại đạo lẫn nhà Phật] đều cùng có những lời lẽ nói về niệm Phật nên bảo là giống nhau” thì có khác gì nói “do cùng nhận chịu khí Âm - Dương liền bảo là giống hệt như nhau” ư? Quê ông không có ai thông hiểu Phật pháp khiến cho những thứ tà thuyết như thế dấy lên mạnh mẽ. Ông đã không có con mắt trí huệ chân chánh, chỉ nên “ngươi là ngươi, ta là ta, ai giữ pháp nấy, ai hành đạo nấy”, chẳng gia nhập bè đảng của bọn họ, mà cũng chẳng công kích, phê bình họ sai trái thì dù có sống chung với họ vẫn chẳng có những chuyện tiêm nhiễm, đố kỵ nhau v.v… Hòa quang nhưng không đồng trần chính là phương cách để giữ mình. Nói “hòa quang” không có nghĩa là tu trì theo kiểu của họ mà chỉ là không công kích, không phê bình, mà cũng chẳng khen ngợi! Nếu bị họ xoay chuyển thì sẽ trở thành “đồng trần”; nếu “đồng trần” thì sẽ trở thành tội nhân trong Phật pháp! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Trong hai ba năm qua, vợ chồng Lâm Hồng Do cùng bị bệnh nặng; ấy là do túc nghiệp chiêu cảm, cố nhiên hãy nên nghiêm túc sám hối. Lại còn phải suy xét hành vi của chính mình, nếu có điều nào chẳng đúng pháp hãy cực lực sám trừ, sửa đổi lỗi cũ, từ nay tu tập, ngõ hầu liền được từ ân gia hộ. Xin hãy đem ý Quang nói với họ. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Câu đối treo nơi đại điện hãy nên lấy đạo lý trong nhà Phật để soạn thành văn, chứ văn của người ấy và văn của ông đều là những thứ văn chương thù tạc trong khi nhàn rỗi. Nay tôi nghĩ ra một đôi câu đối như sau: Nguyện trọng, bi thâm, cử tam căn nhi phổ độ, Chân cùng, Hoặc tận, siêu Thập Địa dĩ độc tôn (Nguyện nặng, Bi sâu, độ trọn khắp cả ba căn, Chân cùng, Hoặc hết, độc tôn trỗi hết Thập Địa) “Tam căn” chỉ khắp lục đạo, tam thừa. “Chân cùng” là lý để chứng đã được chứng đến mức cùng cực. “Hoặc tận” là Hoặc (phiền não) cần phải đoạn đã đoạn đến hết sạch. “Thập Địa” là Thập Địa Bồ Tát, là bậc đã gần thành Phật. “Duy” là chỉ một. Dùng chữ “độc tôn” thì cảm thấy rõ nghĩa hơn một chút. [Chứ nếu dùng chữ] “duy tôn”, chắc kẻ kém chữ nghĩa sẽ không hiểu rõ lắm nên tạm dùng chữ “độc tôn”, tuy chữ Độc chẳng đúng luật bằng - trắc cho lắm. Xin hãy châm chước để sử dụng; nhưng loại câu đối này cũng không phải là viết thiếp, đề thơ dùng trong thi cử nên [không tuân thủ luật bằng - trắc chặt chẽ] cũng không quan trọng lắm. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Quang một mực chẳng thích chụp hình, bởi lẽ chụp hình luôn luôn là chuyện hao phí tiền bạc của tín thí, dùng tiền tài hữu dụng để làm chuyện vô ích hoa mỹ rỗng tuếch, người tu hành há nên làm ư? Ông hãy xét kỹ lời tôi, thấu hiểu sâu xa lòng tôi, tuy chưa gặp mặt mà đã gặp nhau bằng tấm lòng, nào còn thiếu sót, áy náy chi? Nếu không, dẫu có cùng ở chung một nhà với Phật mà tâm chẳng vâng theo, như Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa), Thiện Tinh vẫn phải đọa vào địa ngục A Tỳ ngay trong lúc sống, huống hồ những kẻ hời hợt, hờ hững hiện thời ư? Xin hãy tận tụy thực hiện nhằm nêu gương cho học trò và người trong làng nước, đấy chính là điều tôi mong mỏi vậy. Sáng chiều lễ Phật là được rồi, há nên sau khi lễ Phật liền lễ Quang? Lễ Quang rốt cuộc có ích chi đâu? Nếu cứ nói “vì nhớ đến ân chỉ dạy” thì hãy lễ trong khóa lễ sáng tối mồng Một, hôm Rằm, còn thường ngày chẳng cần phải lễ! Chỉ cần ông có thể nghe theo lời Quang nói thì sẽ là đứa con thật sự của đức Phật, Quang và ông sẽ cùng sanh về Tịnh Độ ngay trong cuộc đời này, là bạn thiết nơi Liên Bang, may mắn vô cùng! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 66 Tôi chưa từng thấy những bài tán dương các vị tổ sư Liên Tông. Bài tán của ông Đổng rất hay, Quang cũng soạn một bài tán. Tuy chẳng hay bằng bài của ông Đổng, nhưng cũng có thể dùng được. Tịnh Độ Tông khởi đầu từ đức Phổ Hiền, Viễn Công tiếp nối nguồn pháp nơi Chấn Đán (Trung Hoa), lưu truyền rộng rãi khắp trong ngoài nước khiến cho khắp mọi thánh - phàm đều chứng Niết Bàn trong hiện tại. Cuối bộ kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn về Tây Phương, đấy là lần xướng suất đầu tiên trong giáo pháp của đức Phật Thích Ca vậy (Tiểu Thừa đoạn sạch Kiến Tư Hoặc liền liễu sanh tử, chứng Chân Đế Niết Bàn. Do vậy, coi liễu sanh tử là chứng Niết Bàn. Trong Đại Thừa thì thành Phật mới là Niết Bàn rốt ráo, chẳng thể coi loại Niết Bàn ấy (tức Chân Đế Niết Bàn của Tiểu Thừa) là Niết Bàn rốt ráo của Phật được). - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 65 Cư sĩ sống trong chùa miếu, bất quá chỉ là một đạo nhân trông coi miếu mà thôi. Ông bảo người ấy trụ trì pháp đạo thì tiếm lạm cũng lớn lắm đấy! Thế tục gọi vị Tăng sống trong miếu là Trụ Trì, là Đương Gia, kẻ ấy cũng xưng hô như thế, do thuận theo thế tục cho nên chẳng trái nghịch cho lắm! Ông bảo là “trụ trì pháp đạo” tức là ăn nói sai lầm hoàn toàn, đem phàm lạm thánh! Hắn ta có đức gì để trụ trì pháp đạo vậy? Chỉ trông coi miếu mà thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 64 Mấy chục năm qua, đối với tiên phụ, tiên mẫu, tiên sư, tiên huynh (tiên huynh chính là vị thầy dạy chữ cho Quang), Quang trọn chẳng ghi thuật một chữ nào bởi chẳng muốn hùa theo thói xấu hư trương thanh thế, cũng như chẳng muốn người ta bảo: “Sợ rằng đấy là những lời lẽ tô vẽ, chưa chắc đã là chuyện thật!” Há tôi chịu đề xướng chuyện này cho kẻ đã quy y [với mình] ư? Thử hỏi người ấy chỉ có thể không thẹn với chức vị của mình mà thôi, chứ rốt cuộc đối với nước nhà, đối với dân tộc có công đức gì đáng cho người khác ca tụng chăng? Hễ phong thái này dấy lên thì những kẻ hèn kém tới mức chẳng chịu đựng được sẽ đều bắt chước làm theo; có thể nói là kẻ bày trò gây tội chẳng phạm tội lỗi gì chăng? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 64 Con người sống trong thế gian, hãy nên trọn hết những nghĩa vụ đáng phải nên trọn. Như lời ông nói thì vẫn cứ muốn xin Quang giám định và soạn lời tựa cho Vân Du Tập Ai Vãn Lục. Đúng là ông muốn ép tôi làm nô lệ! Đối với những thói xấu kiêu căng, xa hoa, rỗng tuếch, hời hợt ấy, tuy chúng ta chẳng thể đẩy lùi phong thái suy đồi xấu xa đó được, há nên phụ họa, bắt chước làm theo để lũ hậu sinh ưa phô trương thanh thế giả dối, ghét sự nhàm chán sẽ đua nhau coi đó là cách tối thượng hòng mua danh chuốc dự, chẳng đáng buồn ư? Ông đừng nên làm như vậy! Nếu ông cứ nhất định muốn làm vậy, đừng gởi [sách ấy] đến cho tôi, buộc tôi phải đốt đi! Ông hãy đốt ngay ở chỗ mình để đôi bên khỏi phải nhọc lòng! Ông học Phật đến nỗi có tri kiến kiểu đó thì không học Phật sẽ còn như thế nào? Vợ con ông trơ trọi, khổ sở, không nơi nương tựa, mà vẫn cứ muốn dấy lên cái thói xa xỉ ấy, tức là trên tuyết lại thêm băng, đối với kẻ sống lẫn người chết đều tổn hại vô ích! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 64 Đối với kẻ mang tri kiến thông tục, nếu khuyến hóa được thì hãy thiện xảo khuyến hóa. Nếu chẳng thể, hãy nhất tâm niệm Phật; chỉ sanh lòng thương xót bọn họ bất luận họ là kẻ sát sanh hay là sanh mạng bị giết. Lại cần phải sanh lòng vui mừng, cảm thấy may mắn: “Nếu ta không được nghe Phật pháp thì hiện tại sẽ giống như những kẻ giết loài vật để ăn ấy, tương lai sẽ đọa làm loài vật sẽ bị chúng nó giết”. Sanh được hai tâm ấy rồi cực lực niệm Phật thì sân hận chẳng sanh, thiện duyên tăng trưởng, trong tương lai ắt có cảnh đại tương ứng, chẳng đến nỗi suốt ngày dùng Phật pháp để kết ác duyên. Hoa Nghiêm Hạnh Nguyện Toàn Kinh (tức phẩm Hạnh Nguyện trong bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm) có câu: “Bò uống nước thành sữa, rắn uống nước thành nọc độc. Kẻ trí học sẽ liễu sanh tử, kẻ ngu học sẽ vào Nê Lê”. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 63 Hôm qua nhận được thư, khôn ngăn than thở. Mười mấy năm qua ông hoàn toàn chẳng dụng công nơi tâm địa của chính mình, chỉ gắng gượng chống giữ bề ngoài! Con người sống trong thế gian ai nấy đều có chức phận. Ông trên có cha mẹ, giữa có em trai, bọn họ đã chẳng thể nghe theo ông thì chỉ đành để mặc họ. Chính mình hãy vì cha mẹ, các em… mà niệm Phật siêu độ cho những con vật bị giết nhằm cởi gỡ oán kết cho cha mẹ, các em v.v… Há nên sanh cái tâm sân hận cực lớn ấy? (Tâm hiếu - đễ ở chỗ này). Cái tâm ấy chính là tâm mạnh mẽ nhất để đọa trong ác đạo, độc trùng đấy! Nếu do vậy mà mạng chung, ông chẳng sanh làm rắn độc, thú dữ thì sẽ sanh vào đâu đây? Học Phật phải giải thoát phiền não (cứ trọn hết lòng mình, chẳng bận tâm người khác có nghe theo hay không), ông lại ngược ngạo tăng trưởng phiền não. Thử nghĩ: Nếu ông không được nghe Phật pháp, há có thể nào khác biệt với cõi đời hay chăng? (Sợ rằng tâm ông còn hiếu sát, ham ăn còn mạnh mẽ hơn họ nữa kia). Mong từ đây hãy chỉ xét nghĩ tự tâm, đừng màng người khác sai trái. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 63 Qua tướng trạng lúc chết của cháu Chuẩn, dường như nó sẵn có túc căn. Ông hãy nên vì chuyện này mà hiểu sâu xa rằng “nhân quả quyết chẳng luống uổng!” Nếu ông không biết niệm Phật, làm sao Hiền Chuẩn có được tướng tốt lành [khi lâm chung] ấy? Cũng như chẳng biết: Nếu không có nỗi đau đớn này để đâm một nhát vào cái tâm thương yêu đắm đuối con cái của vợ chồng ông thì làm sao mong thành tựu được cái tâm chán lìa Sa Bà hòng đạt được đại lợi ích quyết định vãng sanh? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 62 Hơn nữa, ông là phàm phu sát đất mong được liễu sanh thoát tử ngay trong đời này, nếu chẳng có cảnh khổ bức bách sẽ rất khó thành tựu cái tâm “ưa tịnh, chán uế” chân thật! Sanh, già, bệnh, chết, yêu thương phải chia lìa, oán ghét mà cứ phải gặp gỡ, mong cầu chẳng được [toại nguyện], Ngũ Ấm lừng lẫy, tám nỗi khổ ấy cùng nung nấu, những ai có chí khí quyết chẳng sanh tâm tham luyến ràng buộc thế giới này! Nhưng đã làm người trong thế gian, cũng quyết chớ nên vứt bỏ những chuyện mình đáng nên làm, cứ một mực mang quan niệm yếm thế! Chẳng do chuyện này mà tấn đức tu nghiệp, lại ngược ngạo sanh lòng oán hận, tức là cái tâm vẫn còn có ý niệm kiêu căng! Ngay từ chuyện này, đủ thấy rằng ông là kẻ khí lượng hẹp nhỏ, chưa thể gánh vác đạo “hành xử thuận theo địa vị” của thánh nhân thế gian, huống là vô thượng đại đạo muốn phổ độ hết thảy chúng sanh cùng sanh về Tây Phương liễu sanh thoát tử ư? Bởi lẽ, kiến thức ấy hoàn toàn là kiến thức của kẻ chưa hề nghe tới đại đạo thế gian xuất thế gian vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 62 Nhận được thư, biết ông lại mất một đứa con, đau lòng thở dài sườn sượt! Tuy nhiên, người hiểu lý quyết chẳng vì cảnh ngộ của chính mình mà bảo: “Đạo trời vô tri, Phật pháp chẳng linh!” Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay đã tạo đủ thứ ác nghiệp, làm sao kết liễu được? Cái quả xưa kia đã chín, cái nhân ngày nay còn chưa chín, há nên vì con cái lần lượt chết mà bảo là “không có nhân quả!” - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 62 Đối với những lời lẽ báng Phật của ngoại đạo, há nên căn cứ vào đấy, coi là đúng ư? (Nếu ông đã thấy những sự tích ứng hóa của Phật Thích Ca, ắt sẽ biết được đại khái. Dẫu chưa thấy, há nên nghe lời báng bổ liền hoài nghi ư?) Chẳng thấy Đạo Chích chửi bới: “Vua Nghiêu bất nhân, vua Thuấn bất hiếu, vua Đại Vũ dâm dật, Thành Thang, Châu Vũ Vương giết chóc bừa bãi, Khổng Tử trộm đạo” đó ư? Hơn nữa, những câu ông hỏi phần nhiều chẳng hợp lý, tôi đã chỉ bày đại khái rồi, chẳng muốn giải thích cặn kẽ nữa! Tiếp đấy, nghĩ ông chánh tín chưa vững vàng, chánh trí chưa mở mang, nếu bị quở trách chắc sẽ ôm lòng oán hận rồi đâm ra ngã lòng. Vì thế chẳng thể không chỉ bày đại lược để trọn hết tấm lòng tôi giống như một bà già dụ con hãy quay về nhà vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 61 Ông nhàn rỗi vô sự, đối với những chuyện hợp lý lại nêu lên đủ mọi câu hỏi chẳng hợp lý! Tuy là ham học, nhưng cũng thấy rõ ông chẳng biết suy nghĩ sâu xa! Vì sao vậy? Trong thế gian, con người nhờ vào thức ăn, y phục để giữ mạng sống; nếu chẳng biết chọn lựa sao cho thích hợp với chính mình thì thức ăn, y phục đều trở thành thứ giết người. Nếu chúng đã gây ra cái chết thì có nên bảo người trong thế gian bỏ sạch thức ăn, y phục hay chăng? Hay là hãy nên bảo người ta châm chước, lượng định những thứ thích hợp để ăn, để mặc vậy? Phật pháp không gì lớn lao chẳng bao gồm, không điều nhỏ nhặt nào chẳng nêu lên; há nên luận bàn theo kiểu chấp nhất? Những câu hỏi của ông tựa hồ có lý, nhưng thật ra đều thuộc loại chẳng khéo dụng tâm. Nếu ông tin tới nơi tới chốn, xin hãy sốt sắng hành trì, đợi tới khi nghiệp tiêu trí rạng sẽ khôn ngăn tự cười mình ngu dại chấp trước, hổ thẹn khôn cùng vậy! Nếu chẳng tin tưởng, nếu chẳng lại lấy Phật làm thầy, vẫn cứ dấn thân vào phường ngoại đạo y như cũ thì cũng đành để mặc ông mà thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 61 Há chẳng phải là Đại Sĩ cảm ứng, khiến cho một vị cư sĩ từ Giang Tây đến đây? Ông ta vốn làm quan Hàn Lâm dưới triều Thanh trước kia, bút mực siêu diệu. Gặp mặt Quang, Quang hỏi: “Ông ăn chay hay chưa?” Ông ta thưa: “Con ăn chay kỳ!” (nghiên cứu Phật học đã tám chín năm, nhất tâm niệm Phật, nhưng chưa ăn chay trường). Quang lớn tiếng quở mắng, ông ta cực lực bội phục. Do vậy, bảo ông ta hãy soạn sách, ông ta hết sức vui lòng. Thỉnh một vị văn học gia tu chỉnh Sơn Chí, còn phần nói về công hạnh của Đại Sĩ thì do Hứa cư sĩ tu chỉnh; khi tu chỉnh xong sẽ hợp chung lại. Lại còn cho in riêng phần ấy để lưu truyền rộng rãi ngõ hầu người trong thiên hạ đều được gội ân đức của Đại Sĩ. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 60 Tôi bẩm tánh cương trực nên trọn chẳng nẩy sanh ý niệm Trụ Trì đạo tràng, thế độ đồ đệ. Gần đây có kẻ dốc hết tánh mạng muốn xin Quang cho xuất gia, Quang cũng dốc hết tánh mạng từ chối. Thoạt đầu cự tuyệt người xin quy y, nay chỉ đành mặc kệ mà thôi! Tôi vốn chẳng chuộng bày vẽ màu mè, dẫu là chữ viết, tranh vẽ của bậc danh nhân cũng chẳng màng! Đã từng hơn ba lần chụp ảnh, hễ bị ép buộc thì cho người ta chụp. Trừ những tấm kẻ ấy giữ lấy ra, Quang trọn chẳng cần đến! Hễ họ gởi hình tới thì cũng tùy tiện tặng cho người khác, nhất loạt chẳng giữ lại. Nếu ông có thể nghe theo lời tôi thì sẽ là bạn thiết của tôi, cần gì phải muốn có hình dạng xấu xa của tôi vậy? Người niệm Phật hãy nên chuyên ròng lễ Phật, chứ lạy một ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo có lợi ích gì đâu? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 60 Năm hai mươi sáu tuổi (nhằm năm Quang Tự 12 - 1886 ), rời Thiểm Tây đến núi Hồng Loa ở Bắc Kinh. Năm Quang Tự 19 (1893), từ Bắc Kinh đến chùa Pháp Vũ, tới nay đã ba mươi mốt năm rồi. Làm một kẻ nhàn rỗi vô tích sự tại Pháp Vũ (do Trụ Trì chùa Pháp Vũ [là hòa thượng Hóa Văn lên Bắc Kinh] thỉnh Đại Tạng Kinh, tôi làm người kiểm giảo cho Ngài nên Ngài bảo tôi cùng theo về chùa. Do biết Quang chẳng muốn đảm nhận chuyện gì bèn cho ngồi chơi không. Các đời Trụ Trì sau đấy đều y theo lệ cũ, cho nên mới được [rảnh rỗi] lâu dài như thế). Phàm những chuyện thuộc về Thường Trụ đều nhất loạt chẳng tham dự hoặc nghe biết. Thoạt đầu, hễ trong núi có nhân duyên gì cần phải viết lách thì đa số sai Quang viết, Quang liền dùng giọng điệu của người [sai viết] ấy. Nếu chẳng tiện dùng giọng điệu của người ấy, bèn dùng danh xưng khác. Suốt hai mươi mấy năm, hai chữ “Ấn Quang” chưa từng bao giờ lộ ra ngoài. Do vậy, không một ai thăm hỏi và gởi thư. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 60 Thuở bé, tôi học chữ với anh ruột; thoạt đầu, gặp lúc loạn lạc nên phải đình hoãn hai năm. Tiếp đấy lại lắm bệnh nên học hành chẳng ra gì. Mới sanh ra được nửa năm liền mắc bệnh mắt, suốt sáu tháng chưa từng mở được mắt; trừ lúc ăn ngủ ra, cứ khóc suốt ngày đêm không ngừng. Về sau, mắt được lành, vẫn còn thấy được ánh mặt trời. Năm mười mấy tuổi, đọc lời văn báng Phật của Hàn - Âu rất thích, lại còn muốn học Lý Học. Cho nên đối với thơ văn đều chẳng muốn làm. Anh ruột tôi thấy tôi vốn bệnh tật đã lâu nên mặc kệ. Năm hai mươi tuổi xuất gia (nhằm năm Quang Tự thứ bảy - 1881). Tu Tịnh nghiệp là do kinh Di Đà, Tịnh Độ Phát Nguyện Văn và Long Thư Tịnh Độ Văn phát khởi, chứ tuyệt không được một tri thức nào khai thị! Bởi lẽ, tiên sư và những người giao du đều hâm mộ ý chỉ nhà Thiền, Quang trọn chẳng được chỉ dạy, tự lượng chính mình không có được trí thức ấy nên chẳng dám [tu Thiền]. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 60 Ông Hạng muốn quy y, sao chẳng chọn bậc đạo đức cao siêu để làm thầy, cứ muốn tôn Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo làm thầy? Chủ kiến đã sai lầm, nhưng sợ nếu không chấp thuận, sẽ bảo Quang là kẻ chẳng biết đếm xỉa tới tình người! Nay bèn đem lầm đáp lạc, đặt pháp danh cho ông ta là Trí Nguyên. Ông ta tên là Bổn Nguyên, nay đặt pháp danh là Trí Nguyên. Cần biết rằng: Trí Nguyên (nguồn trí) chính là Chân Như Phật tánh của chính mình, hết thảy phước đức trí huệ đều phát xuất từ cái nguồn này. Người đời mê trái bổn tánh nên chân trí chẳng thể hiển hiện được! Tất cả tri kiến đều thuộc suy tính vọng tưởng; nếu thật sự biết được cái nguồn này, niệm niệm phản chiếu thì sẽ dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, lại còn tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương thì trong đời hiện tại sẽ dự vào bậc hiền thánh, lúc lâm chung quyết định vãng sanh cõi Cực Lạc. Như thế thì sẽ có thể gọi là bậc đại trượng phu đệ tử thật sự của đức Phật. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 59 Những sự lý được trình bày [trong bài ký về sự sanh Tây của cụ Sa do Quang soạn] trọn chẳng phải là bỗng dưng hư cấu. Nếu có chỗ nào sai lầm, xin hãy mau chỉ cho biết để tiện sửa đổi cho đúng. Nếu không, tôi sẽ xếp bài viết này vào Văn Sao để mong lưu truyền rộng rãi khuôn mẫu tốt đẹp khiến cho những kẻ câu nệ hẹp hòi trong mai sau sẽ do đấy mà bỏ được tri kiến lầm lạc, đạt được chánh tri kiến. Triệu Tôn Nhân cũng soạn một bài ký. Ông Phác muốn soạn truyện thì được, nhưng toan dựng tháp thì chớ nên. Cư sĩ tại gia chỉ nên xây mộ, huống chi đang lúc con người đa số làm càn, chẳng tuân giữ bổn phận này, nếu xướng suất như thế thì sẽ phá hoại khuôn mẫu trong pháp môn. Xin hãy nói với ông Phác. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 59 Bài văn ông yêu cầu viết tôi đã soạn xong rồi, đặt tên là Phổ Khuyến Giới Sát Khiết Tố Vãn Hồi Kiếp Vận Thuyết (khuyên khắp mọi người kiêng giết, ăn chay nhằm vãn hồi kiếp vận), nói trọn khắp những chuyện cúng tế trời đất, Khổng Tử, Quan Đế, tổ tông, phụng dưỡng cha mẹ, đãi khách, tự cung phụng v.v… đều chẳng nên sát sanh, ăn thịt! Lại còn nói kèm chuyện cưới vợ, sanh con, chúc thọ cũng chớ nên sát sanh, ăn thịt. Chánh văn hơn hai ngàn sáu trăm chữ, in kèm vào cuối quyển nhất sách Quán Âm Tụng (do quyển này có đoạn liên quan đến chuyện Đại Sĩ thị hiện trong loài vật) vừa đúng ba trang - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 58 Hơn nữa, cư sĩ Kiện Am thông hiểu Nho lễ sâu xa. Năm trước, Trần Chánh Hữu đã gởi cho tôi bài cụ viết bàn về tệ dùng rượu thịt trong tang lễ, đọc thật thống khoái; biết cư sĩ hoàn toàn lấy việc [bảo tồn] đạo Nho làm trách nhiệm của chính mình. Huống chi gần đây lại tin tưởng Phật pháp sâu xa, chuyên chí tu trì. Con cụ Sa hãy nên vâng nối chí và đạo của cha, nhất loạt chẳng noi theo thói tục dùng rượu thịt nhằm mãn chí nguyện của cha. Nếu cứ làm theo thói tục, không những chẳng tương ứng Phật pháp mà còn chống đối cha nữa! Xin hãy nói với các con của cụ, nếu không, sợ rằng họ sẽ bị những kẻ vô tri mê hoặc, lay động thì đâm ra chẳng tốt đẹp gì! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 57 Văn Sao ấn bản mới có thể in thành sách trong tháng Ba hoặc tháng Tư. Ông hãy bảo con cụ Sa chịu đảm nhiệm in chừng đó bộ để thí tặng cho những người có tín tâm, thông văn lý, một là cởi gỡ nỗi tiếc nuối của cha, hai là có thể lưu truyền sự tích của cha. So với những kẻ in ra những tờ thiệp gởi cho người khác, [người ta] xem xong liền quăng đi, sẽ vượt trội vạn lần! Nếu chịu phát tâm thì hãy mau báo cho biết để tiện viết tên vào sau sách. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 57 Tôi tính dựa trên tình hình thực sự [vãng sanh của cụ Sa] như trong bài viết đã gởi tới để viết một bài khác đăng kèm vào sau bộ Văn Sao trong ấn bản mới. Hãy nên nói với con ông cụ sớm đem tờ cáo phó gởi tới. Có những chuyện gì tôi chọn lọc được sẽ trích lược để dùng. Hơn nữa, cụ vẫn áy náy vì chưa từng gặp được Quang, nay tôi ghép sự tích của cụ vào trong Văn Sao cũng nhằm cởi gỡ nỗi áy náy ấy! Trong khi hồi hướng vào khóa tụng sáng tối, Quang còn đọc tên hồi hướng cho cụ trong hai mươi mốt ngày nhằm trọn hết tình giao du với nhau trên mặt tinh thần trong pháp môn. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 57 Nhận được thư, biết cư sĩ [Sa] Kiện Am quy Tây, khôn ngăn mừng cho cư sĩ, nhưng lại than cho dân vùng Như Cao (đã mất bậc hướng dẫn). Tôi thấy cụ Sa Kiện Am bình sanh có tín tâm, lâm chung chánh niệm. Tuy chưa nghe cụ nói thấy Phật, nhưng có thể thầm niệm theo người nhà thì cụ cũng được sanh Tây. Do xưa kia, đức Phật có lời thề: “Nếu có chúng sanh chí tâm tin ưa, muốn sanh về nước ta, thậm chí mười niệm, nếu chẳng được sanh, sẽ chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Lại còn: “Mười phương chúng sanh phát Bồ Đề tâm, tu các công đức, chí tâm phát nguyện, muốn sanh về cõi ta. Nếu lúc lâm chung, ta không cùng đại chúng vây quanh hiện diện trước mặt người ấy thì sẽ chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Cư sĩ Kiện Am suốt đời tu trì, lâm chung chánh niệm, đủ để vãng sanh. Huống chi lại có những chuyện như mùi hương lạ, đỉnh đầu vẫn còn ấm để làm chứng ư? Đây là do nương theo Phật lực vãng sanh, vãng sanh tức là đã liễu sanh thoát tử rồi. Đấy là chuyện quyết định, trọn chẳng hàm hồ! Nếu tu các pháp môn khác, đừng nói có các cảnh tượng như thế vẫn chẳng thể liễu sanh tử; dẫu là bậc có đại trí huệ, có đại thần thông, muốn đi liền đi, muốn tới liền tới thì người chẳng thể liễu sanh tử vẫn chiếm hơn một nửa! Do vậy phải chuyên chí tu trì pháp môn Tịnh Độ. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 57 Quán Thế Âm Bồ Tát chỗ nào cũng có, há chỉ ở tại Phổ Đà ư? Nếu chưa từng đến thì tới chiêm ngưỡng đạo tràng một lần, chứ đã tới rồi mà nhà nghèo, lắm việc, chẳng cần phải tới nữa! Con trai ông đã sẵn có túc duyên với ông, hãy nên khéo dạy dỗ. Đừng mặc cho nó quen thói kiêu căng đến nỗi thành phường hư hỏng. Những đứa con em không ra gì trong cõi đời đều là do cha anh chẳng khéo nuôi dạy mà ra! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 56 Lúc này không rảnh rỗi để viết lời tiểu dẫn cho Phật thất! Đợi tới tháng Sáu, sớm muộn gì cũng sẽ gởi tới. Có lẽ nên cử hành [Phật thất] vào đầu mùa Đông vì khi ấy gặt hái đã xong, ai nấy đều nhàn rỗi thì người niệm Phật sẽ nhiều, nhưng chỉ nên chú trọng niệm Phật, chớ nên bày vẽ phô trương, thêm thắt lung tung v.v… Nói tới chuyện đến núi [Phổ Đà] dâng hương thì hãy nên thôi đi, bởi lẽ nhà ông không dư dả lắm, lại còn phải làm việc dưới quyền người khác, đi về hơn cả tuần, tốn kém mấy chục đồng mà vẫn chẳng thể tùy ý làm công đức khiến cho những người mình giao thiệp đều sanh hoan hỷ. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 56 Nay gởi cho ông một gói Văn Sao, xin hãy trao cho Lý Miễn và con ông ta. Chỉ chịu nương theo sách này để tu tập sẽ tự có thể siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nếu chỉ nhìn vào mặt văn chương thì thật là gai mắt, chẳng thể đạt được lợi ích thật sự! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 55 Nhận được thư, biết cả nhà niệm Phật, khôn ngăn vui mừng, an ủi. Lúc niệm Phật đột nhiên khởi vọng tưởng, chỉ cần chẳng xoay chuyển theo vọng niệm ấy, lâu dần nó sẽ tự chẳng dấy lên nữa! Không nói dối cũng phải luyện tập dần dần, lâu ngày sẽ tự chẳng còn nữa! Nói đến ảnh chụp thì Quang một mực chẳng thích chụp hình vì chỉ hao tốn tiền bạc, trọn chẳng có ích gì! Nếu cứ muốn có thì tôi sẽ sang Thượng Hải chụp rồi gởi tới. Ở đây đã qua kỳ dâng hương, không có thợ chụp ảnh. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 55 Lý Trọng Hòa đã muốn quy y thì chẳng ngại đặt pháp danh cho ông ta. Ông ta tên là Thọ Bình; phàm cái thật sự thọ (sống lâu) thì chỉ có tự tánh. Tánh ấy nếu chẳng có trí sẽ chẳng hiển được, có trí ấy thì sẽ biết nhất niệm tâm tánh của hết thảy chúng sanh và tam thế chư Phật, lục đạo chúng sanh thảy đều bình đẳng. Cái trí bình đẳng ấy thật sự là tối thượng, tối diệu. Nay đặt pháp danh cho ông ta là Trí Thượng, dùng cái trí tối thượng ấy để tự hành, dạy người tu trì Tịnh nghiệp, ngõ hầu hết thảy chúng sanh cùng sanh về Tây Phương, cùng chứng được cái vốn sống mãi bình đẳng vô nhị ấy. Đấy chính là chuyện quan trọng nhất, làm được như thế sẽ chẳng thẹn là đệ tử của Như Lai, xin hãy nói với ông ta. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 54 Lạy kinh niệm Phật nên lấy cung kính chí thành làm gốc. Cung kính lớn lao thì công đức, lợi ích lớn lao, cung kính nhỏ nhoi công đức, lợi ích sẽ bé tẹo. Nếu chẳng cung kính, chỉ làm ra vẻ đạo mạo thì chính là tự dối mình, chứ muốn dối người cũng không được, huống là dối Phật, Bồ Tát ư? Xin hãy chân thật cung kính hành trì thì lợi ích sẽ không chi lớn bằng! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 53 Ăn chay chẳng khó, khó là vì chẳng chịu bỏ cái tâm tham sung sướng bụng miệng! Nếu chẳng tham thỏa thích bụng miệng thì ăn chay có bất tiện chi đâu? Tuy thỉnh thoảng ăn chay, nhưng trong những ngày không ăn chay cũng phải ít ăn mặn đi, bởi hết thảy loài vật đều tham sống sợ chết, đều biết đau đớn, khổ sở, chỉ vì miệng chẳng thể nói được, nên phải làm thức ăn cho con người. Nếu chúng nói được thì nỗi niềm bi ai, oán hận của chúng khi sắp bị giết há còn nỡ nghe ư? Nghĩ đến điều này thì sẽ chẳng nuốt thịt xuống khỏi họng được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 53 Quan Đế quy y với Trí Giả đại sư (dưới thời Tùy Văn Đế) mở ra đạo tràng núi Ngọc Tuyền, chuyện này được chép trong sách Phật Tổ Thống Kỷ. Phật giáo coi Quan Đế là thần hộ trì già-lam cũng vốn vì lẽ này. Đợi khi nào rảnh rỗi, tôi sẽ đem bài văn ấy thuật rõ. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 53 Cháu ông chẳng biết nỗ lực làm người, ấy là do chẳng được dạy dỗ từ bé mà ra. Lúc bé không được dạy dỗ thì lớn lên sẽ khó trở thành người đàng hoàng được! Ông gặp cảnh ngộ như thế chỉ nên thường nghĩ nhớ tới cha mẹ ông và anh của ông, đừng sanh phiền não, hãy sốt sắng niệm Phật, cầu Phật gia bị cho nó, ngõ hầu nó sẽ hiểu biết, tự có thể làm người tốt. Nếu chính mình sanh phiền não thì vô ích cho nó lẫn thân ông cũng như công lao nuôi dạy đứa cháu đều bị tổn hại. Nếu ông chí thành niệm Phật và niệm Quán Âm, nhất tâm khẩn cầu [Phật, Bồ Tát] gia bị cho nó, lòng Thành đến cùng cực đá vàng cũng phải nứt, dần dần nó sẽ chuyển biến thành người tốt, chẳng đến nỗi cứ mãi là gã lãng tử hoặc kẻ vứt đi. Hãy nên đừng phân biệt, hãy nghĩ [đứa cháu ấy] giống như đứa con bất tài của chính mình, chỉ cầu Phật, Bồ Tát xót thương, gia bị. Đấy chính là diệu pháp độc nhất vô nhị để chuyển biến. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 53 Thế đạo hiện thời đã loạn đến cùng cực, nguồn cội đều do con cái từ thuở bé chẳng được cha mẹ khéo dạy dỗ về nhân quả báo ứng, cũng như “lợi người chính là lợi mình, hại người chính là hại mình”. Hãy nên nói tường tận lợi - hại với vợ để cô ta sẽ tận tụy giáo huấn con cái, đừng mặc cho chúng quen thói khiến tật xấu trở thành tánh đến nỗi gây hại cho gia đình, cho đất nước, cho thiên hạ vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 52 Hơn nữa, phàm muốn học Phật thì tâm địa phải thanh tịnh. Phàm hết thảy những tâm bất thiện đều là cấu nhiễm, ắt phải dọn trừ sạch sành sanh. Phàm hết thảy thiện tâm ắt phải mở rộng ra, tức là: Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật, tự hành như thế mà dạy người khác cũng như thế. Đối với người trong cõi đời còn nên khuyên bảo rộng khắp, huống là cha mẹ, vợ con v.v… há chẳng làm cho họ được thấm gội Phật ân, vẫn luân hồi y như cũ, lỗi đạo làm con, làm cha, làm chồng lắm thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 52 Pháp môn Tịnh Độ là pháp rộng lớn hết sức giản tiện, hết sức sâu xa trong Phật pháp. Nếu nương theo các pháp khác để tu trì thì ai có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này? Nếu y theo pháp môn Tịnh Độ, chỉ cần có đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, không một ai chẳng được vãng sanh. Đấy chính là nghĩa lý lớn lao phải nên chuyên chú nơi pháp môn Tịnh Độ vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 52 Nhận được thư, biết tâm ông mộ đạo khá chân thật, thiết tha, ý muốn quy y, nhưng Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo, quả thật chẳng đáng làm thầy một ai! Nhưng nếu có thể chuyên chí tu trì, y theo những lời Quang đã nói để hành thì cố nhiên chẳng có chuyện gì ông không được mãn nguyện. Ví như kẻ không chân ngồi ở ngã ba đường, có người hỏi nẻo về nhà liền chỉ thẳng nên đi theo đường nào. Quyết đừng vì kẻ ấy không thể đi được mà chẳng chịu nghe lời để rồi tự mình lạc mất lối về! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 52 Quang già rồi, mục lực chẳng đủ nên cự tuyệt hết thảy thư từ. Nay xem thư ông, khôn ngăn đau lòng. Ông đọc thư tôi, nếu sửa được lỗi trước thì mai sau nhất định được vãng sanh. Nếu không, cứ theo thói hư giả thì làm sao đạt được lợi ích thật sự? Nghe theo hay không tùy ông, tôi chỉ trọn hết tấm lòng tôi mà thôi! Ông nói đến chứng Miêu Ôn, không biết là bệnh gì, cũng chẳng biết thuốc nào trị được! Hãy nên bảo gia đình người ấy chí thành niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, kiêng giết, ăn chay thì sẽ có hiệu quả. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 50 Ông học Phật pháp sao lại học thói khoa trương rỗng tuếch, hời hợt của bọn thương nhân trong thế gian? Ông nói gởi một hộp bánh là được rồi, há nên nói thật bùi tai như thế? Quý trọng như vậy mà lại bảo Quang nếu cần nữa hãy viết thư xin gởi thêm, đúng là ông coi Quang như đứa trẻ nít. Ông chẳng hiểu việc đời quá mức! Từ nay phải ngăn dè thói xấu hèn khoa trương rỗng tuếch hời hợt kiểu đó thì niệm Phật sẽ được lợi ích thật sự. Nếu không, dẫu có tu trì cũng đều bị thói khoa trương rỗng tuếch hời hợt chôn vùi hết sạch. Rốt cuộc chẳng giúp được gì mà vẫn chẳng biết là tự chuốc lấy họa, ngược ngạo đổ thừa Phật chẳng từ bi, Phật pháp không linh! Chẳng biết là do chính mình khoe khoang mà cảm thành, buồn thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 50 Hơn nữa, cấm chế nhà Phật cũng có lệ tùy theo nơi chốn, tùy theo thế tục để lập. Ngay như tăng y ngày nay cũng đâu phải là tăng y đã được chế định tại nước Phật; nhưng do được lưu hành đã lâu bèn coi là đúng pháp. Vả nữa, Phật quy định Tăng luôn để đầu trần, chân đất. Để đầu trần thì mùa Hạ tuân theo được, chứ mùa Đông mà tuân theo sẽ chẳng được mấy ai! Đi chân đất càng khó thấy mấy ai tuân theo! Do vậy, chớ nên cố chấp những điều cành nhánh để luận, hãy nên nương theo cội nguồn để tu thì sẽ có ích. Nếu mỗi một điều đều chuẩn theo nguyên tắc như trong thời Phật thuở trước thì những kinh hiện thời đều chẳng nên thọ trì, mà phải thọ trì những kinh văn tiếng Phạn được viết trên lá bối thì mới là chẳng trái nghịch Phật pháp vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 48 Pháp môn vào buổi cuối Thu, sai ngoa quá nhiều, nhưng chỉ nên sanh lòng chánh tín, trì các tịnh giới thì là đã đạt được căn bản, còn những thứ cành nhánh khác hãy để thong thả. Nếu một mực noi theo lối cổ thì người đời nay đã không thông hiểu sâu xa những cấm chế của đức Phật, mà mỗi một việc làm trong hiện thời đều chẳng thể theo đúng như lời Phật dạy, sẽ trở thành ngôn luận cự tuyệt người khác bước vào Phật pháp. Nếu mỗi một việc đều phải theo đúng như cấm chế của đức Phật thì tăng nhân hiện thời đều là kẻ bạch y học đạo, chưa chắc mỗi một điều đều có thể hợp pháp, hợp luật, huống là hai chúng tại gia ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 48 Chẳng phải là Quang cự tuyệt không cho người ta nghiên cứu những tông khác; chỉ vì có những kẻ chẳng thông cảm nên mới giáng cho Quang những lời chê bai ngặt nghèo, bảo Quang cấm ngặt người khác không được nghiên cứu những tông khác! [Bị gieo tiếng ác như vậy] thì Quang sẽ ngấm ngầm được phước, còn đại chúng cho Quang là kẻ oan gia nơi cửa Phật. Xin ông hãy tự cân nhắc để quyết định! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 47 Phật pháp giống như hư không, trọn không có Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương bàng, trên, dưới! Nói Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương bàng, trên, dưới là ước theo địa vị chính mình đang đứng để nói. Chính mình đã chẳng thể khế hợp với thái hư thì ắt phải luận theo địa vị nơi mình đang đứng; chẳng ngại gì ở trong nơi không có Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương bàng, trên, dưới mà ước theo Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương bàng, trên, dưới do chính mình đã định. Thiền Tông, Tướng Tông, Mật Tông không một tông nào chẳng hay, nhưng là người niên kỷ đã ngoài năm mươi, có được pháp cậy vào Phật lực để phàm phu dầy dẫy triền phược có thể liễu sanh tử mà lại dốc sức nơi pháp môn cậy vào tự lực thì tuy có thể giúp cho sự thấy hiểu Tịnh nghiệp một cách viên thông, nhưng tôi thật sợ ông tâm lực chẳng đủ, sẽ lấy pháp đó làm chánh, coi pháp này là lệ thuộc không quan trọng, chắc sẽ khó đắc lực! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 47 “Tam luân thể không” chính là chẳng cậy công, chẳng nghĩ đó là đức. Nếu như lời ông nói thì sẽ thành hỗn độn, vô tri. Thế nào gọi là “Thể không”? Nói “Thể không” nghĩa là rành rẽ phân minh, phân biệt rõ [đối tượng nhận lãnh] đáng nên bố thí hay không nên bố thí, nhưng chẳng thấy mình có công đức đối với người ta, cũng chẳng thấy người ta nhận lãnh ân đức của mình. Kinh Kim Cang dạy: “Chẳng chấp vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để bố thí” chính là nhằm diễn tả ý này vậy! Nếu chẳng phân biệt kẻ tốt lẫn người xấu, cứ tận lực thí cho người xấu thì sẽ khiến cho kẻ ấy tạo nghiệp, sẽ trở thành tội lỗi, chẳng gọi là công đức được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 46 Ông nói trong khi làm việc cũng không quên niệm Phật, ấy là tướng cái tâm niệm Phật thuần thục, sao lại bảo là hôn trầm, thuộc về vô ký (không thiện, không ác)? Nhưng cũng chưa phải là “vô niệm mà niệm”, mới chỉ có hơi hướng của “vô niệm mà niệm” đó thôi! Nếu tưởng đấy chính là “vô niệm mà niệm” thì sẽ giống như dùi gỗ thấy khói bốc lên liền bảo là đã được lửa, thôi không dùi nữa, sẽ không có cách nào được lửa cả! Ông công phu khá tốt, đạt đến cảnh giới ấy cũng chẳng phải là dễ dàng, nhưng cần phải chuyên tinh dụng công, đừng học theo thói ham cao chuộng xa, thấy lạ nghĩ khác của con người hiện thời thì tương lai sẽ đạt được lợi ích, sẽ tự có những điều chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng đấy là chuyện thuộc về Hạnh môn, chứ trong Tín Nguyện môn càng phải nên dốc sức ngõ hầu quyết định đạt được lợi ích sâu xa do niệm Phật. Nếu bắt chước các tông khác, chuyên chú trọng vào công phu, bỏ mặc tín nguyện chẳng nhắc tới thì sẽ trở thành pháp môn cậy vào tự lực, mất mát lớn lắm! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 46 Nếu ông muốn tạo lợi ích giúp cho Thánh Định, do bà ta lúc sống thường ăn chay, khi làm ma chay chắc ông cũng chẳng đến nỗi dùng rượu thịt. Trong khi tang ma và cúng giỗ sau này, xin ông hãy bảo lệnh lang đừng bắt chước thói tục. Trong khóa tụng sáng tối, lúc hồi hướng Quang sẽ đọc pháp danh của bà ta để hồi hướng trong hai mươi mốt ngày cho trọn hết tình thầy trò. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 45 Linh Nham theo lệ không niệm kinh, bái sám, phóng Diệm Khẩu, làm pháp sự hệ niệm, làm đàn Thủy Lục, truyền pháp, thâu nhận đồ đệ, giảng kinh, truyền giới, làm pháp hội. Công khóa hằng ngày giống như Phổ Thông Phật Thất. Chỉ những ai có tín tâm, chẳng chú trọng màu mè, hoa dạng, xin mở Phật thất thì liền chấp nhận. Nếu chèo kéo thân hữu rộng rãi và dẫn nữ quyến trẻ tuổi đến trước hôm mở thất và xong thất mới đi thì cũng không chấp nhận. Năm Dân Quốc 17 (1928), Trương Minh Kỳ (là đệ tử quy y) mở Phật thất bốn mươi chín ngày, không một ai bỏ đi. Năm Dân Quốc 18 (1929) cũng mở Phật thất hai mươi mốt lần, cũng không một ai bỏ đi. Năm Dân Quốc 19 (1930), có hai mươi mấy lần mở Phật thất cũng không quá năm sáu gia đình đến dự, nhưng cũng chỉ ở một hai ngày hoặc đôi ba ngày mà thôi. Năm Dân Quốc 20 (1931) do người đông phòng hẹp, liền cho xây cất lớn, Phật thất càng đông hơn. Nay gởi cho ông một tờ sao bài bi ký, ông đọc sẽ biết. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 45 Hôm qua nhận được thư, biết Thánh Định đã vãng sanh Tây Phương, lâm chung chánh niệm, chết rồi đảnh đầu vẫn ấm, vẻ mặt càng đẹp, đang lúc nắng gắt mà chẳng hôi thối. Chỉ ngay từ mấy tướng lành ấy đã có thể quyết đoán bà ta được vãng sanh. Còn về phẩm vị vãng sanh thì nói chung là Trung Phẩm. Do Trung Phẩm đều là phẩm vị vãng sanh của người trọn vẹn điều lành nơi giới và điều lành thế gian; cũng chẳng cần phải nói cho dễ nghe, cứ khăng khăng bà ta Thượng Phẩm vãng sanh. Dẫu cho Hạ Phẩm Hạ Sanh thì nghiệp đã vượt trỗi chư thiên trong tam giới rồi, huống hồ vãng sanh trong bậc Hạ thuộc Trung Phẩm ư? Bốn mươi chín ngày không ngớt tiếng niệm Phật, chẳng những hữu ích cho người đã khuất mà quyến thuộc hiện tại cũng được lợi ích lớn lao! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 45 Những lời nói trong nhà Thiền tốt nhất là chỉ nên bỏ mặc, đừng bàn đến! Nếu muốn biết hiểu rõ ý nghĩa nguyên do của những lời lẽ ấy thì phải ngộ đôi chút. Nếu không, dẫu có đọc sách Thiền thì cũng như nói chuyện với người ngoại quốc, hoàn toàn chẳng thấu hiểu được cái hay trong ấy. Huống chi ông tuổi đã cao rồi, thời thế lại như thế này, há nên dùng thời gian đáng quý báu nhất để nghiên cứu những câu nói không thể suy luận ấy ư? Thường có những kẻ ở trong nhà Thiền mấy chục năm vẫn chẳng hiểu được những câu nói ấy có ý nghĩa gì! Dẫu có dùng ý tưởng để suy đoán đi nữa thì cũng là nói mớ trong mộng mà thôi! Xin hãy bỏ ý niệm ấy đi! Hãy nhất tâm niệm Phật, niệm đến mức Phật lẫn tâm đều mất thì vừa nhìn vào những câu nói ấy sẽ khôn ngăn bật cười. Nếu chẳng được như thế thì chỉ cần vãng sanh vẫn có thể đích thân chứng được lý ấy, huống là hiểu được những lời lẽ ấy ư? Nếu chẳng coi lời Quang là đúng, cứ suốt ngày đọc ngữ lục nhà Thiền thì Tông cũng chẳng thể thông mà Tịnh cũng chẳng chú trọng. Khi sanh tử xảy đến, chỉ đành theo nghiệp thọ sanh! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 44 Quán Thế Âm là chỗ nương tựa cho pháp giới chúng sanh, nếu ai nấy đều biết, sẽ có đông đảo người do vậy mà cầu mong tiêu tai thoát họa cho đến liễu sanh thoát tử. Tiếc cho cõi đời chưa có một bản sưu tập đến nỗi những kẻ chẳng tu tập Phật pháp đều chẳng được biết. Đấy chính là nguyên do vì sao Quang thỉnh ông Hứa Chỉ Tịnh soạn sách Đại Sĩ Tụng này vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 42 Chúng ta chỉ cần phát khởi cái tâm làm lành cho người khác, còn người ta có phụng hành hay không thì tùy họ. Ấn Quang sanh lòng tin đối với pháp môn Tịnh Độ là nhờ quyển Hạ của Long Thư Tịnh Độ Văn, đủ biết sách ấy có ích cho con người vừa sâu vừa xa vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 42 Pháp Niệm Phật lý cực cao sâu, sự thật bình thường, muốn cầu tâm tương ứng với Phật thì điều thứ nhất là phải chí thành khẩn thiết, điều thứ hai là [lắng] nghe. Quay trở lại nghe nơi tiếng niệm Phật, cùng giữ được lòng thành và lắng nghe thì sẽ tự trừ được hôn mê tán loạn! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 41 Các hạ muốn thọ Tam Quy Ngũ Giới, sao chẳng chọn vị nào đạo đức học vấn cao siêu, lại chọn một ông Tăng chỉ biết cơm cháo thì các hạ cũng muốn dự vào đội ngũ ngu phu ngu phụ, chẳng muốn gia nhập hàng ngũ của những vị cao siêu, lạ lùng, đặc biệt ư? Tuy nhiên, đang trong thời thế này, hành theo ngu phu ngu phụ vẫn thực tế hơn! Nếu kẻ cao siêu kỳ đặc chịu buông xuống những chuyện cao siêu, lạ lùng, đặc biệt, ắt sẽ có kết cuộc cao siêu, lạ lùng, đặc biệt lớn lao! Nếu không chịu buông xuống thì cũng chỉ đạt được kết cuộc là hư danh cao siêu, lạ lùng, đặc biệt, quyết chẳng đạt được sự cao siêu, lạ lùng, đặc biệt thật sự. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 41 Hãy nghĩ xem: Nếu tổ tiên chẳng để lại căn nhà ấy thì có còn làm người được hay chăng? Lại may mắn là tổ tiên để lại lắm của cải, chứ nếu nghèo trắng tay thì sẽ tranh giành với ai? Suy nghĩ đến điều ấy thì nhường cho bọn anh em trong họ mấy chục đồng có gì mà không được? Phạm Văn Chánh (Phạm Trọng Yêm) còn tậu nghĩa điền cho cả họ, huống là anh em cùng một nhà ư? Họ Phạm từ đầu đời Tống cho đến cuối đời Thanh đỗ đạt chẳng dứt, ấy là do đức dầy của Văn Chánh Công và con cháu đời đời vâng giữ, tu tập tổ đức mà ra. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Hãy thử xét xem: Xưa nay những ai giúp người lợi vật, tôn kính tổ tiên, thương yêu cho dòng họ, con cháu không ai chẳng nắm địa vị cao, hưởng phước dầy, đời đời kế thừa tổ đức triền miên chẳng dứt? Kẻ chỉ biết lợi mình, chẳng đoái hoài tổ tông, đất nước, nhân dân, không ai ba đời chẳng nối tiếp nhau tuyệt diệt hay chăng? Vì sao vậy? Do căn bản tâm địa đã hoại, giống như dùng nước có chất độc để tưới tắm cây hoa, lúa, đậu, chẳng những vô ích mà còn có hại! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Bảy anh em của ông nội lệnh hữu do cùng một cha sanh ra, con cháu của ông nội thứ năm đều là hậu duệ của cùng một ông cố. Vì hai gian nhà cho thuê thâu nhập hơn ba trăm đồng liền muốn kiện nhau nơi cửa quan, chắc sẽ tốn bộn tiền. Chuyện kiện tụng chỉ là khoe tài cãi lý, muốn biến vô lý thành chuyện hữu lý! Nếu họ khởi lên ác tâm, thốt ra lời ác [chửi bới, tranh chấp nhau], sẽ khiến cho người chung quanh cũng như người đời xầm xì: “Nhà ấy tổ đức đã suy nên lũ con cháu trong cùng một nhà tranh chấp lẫn nhau, anh em bêu riếu nhau!” Nhục lây đến tổ tiên, tội không chi lớn hơn nữa! Chuyện nhỏ tí tẹo trong gia đình, hãy nên nghĩ đến ân đức tổ tiên mà đặc biệt rộng lượng, chớ nên [xử sự] giống như tranh chấp cùng người đời! Dẫu là đối với người trong cõi đời đi nữa, vẫn nên làm chuyện nghĩa, chỉ mong cho ai nấy được sống yên vui, dẫu ngàn vàng cũng chẳng nuối tiếc! Huống chi [ai nấy] đều là hậu duệ của cùng một cụ cố hay sao? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Lại nữa, nếu vợ sanh con thì sẽ là phiền lụy lớn lao. Không con thì sẽ yên vui tột bậc! Nhưng cháu cả một bầy, chứ đâu phải chẳng có đứa con nào! Luận sát sao theo sự thật thì ông có phước thù thắng hơn anh em ông nhiều lắm, nhưng người đời phần nhiều chẳng thấy được điều này, nên suốt cả đời làm đầy tớ cho con cái. Thử suy nghĩ sẽ thấy quả thật là một điều may mắn lớn lao! Lời này tuy trái nghịch tình cảm, nhưng thật ra là chí lý chí tình. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Quang là Tăng nhân, trọn chẳng khuyên người khác tạo nghiệp. Người ta đã đem thân giao phó cho ông thì hãy nên trọn hết đạo vợ chồng. Chuyện này chính là nghĩa trọng yếu trong đường tu hành, là điều chí tình nơi luân thường. Xin ông hãy phát Bồ Đề tâm, dẫn dắt cô ta là kẻ chẳng biết “dục chính là cội khổ” cùng sanh về thế giới Cực Lạc vô dục, ngõ hầu chẳng phụ đời trước có duyên với nhau, đời này làm vợ chồng vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Hãy nên nói: “Nếu chẳng tu hành Tịnh nghiệp sẽ vĩnh viễn tuyệt giao!” Cô ta sẽ gắng sức thực hành. Đối với chuyện có sanh con hay không, chẳng cần phải bàn đến nữa! Bởi lẽ anh em ông thật đông con, há cứ cần chính mình phải có con thì mới chẳng tuyệt dòng nối dõi tổ tiên ư? Ấy là vì vợ chồng ăn ở với nhau bởi có túc duyên. Chẳng thể làm cho vợ mình gieo thiện căn, nỡ lòng bỏ mặc cô ta đọa trong ác đạo ư? Kinh Thi có câu: “Thê tử hảo hợp, như cổ cầm sắt. Huynh đệ ký hấp, hòa lạc thả trạm. Nghi nhĩ thất gia, lạc nhĩ thê noa” (Vợ con hòa hợp, như gảy đàn cầm, như đánh đàn sắt. Anh em hòa thuận, vui sướng, yên ổn. Gia đình êm ấm, vợ con vui vầy). Khổng Tử nói: “Phụ mẫu kỳ thuận hỹ hồ!” (Cha mẹ đẹp lòng vậy thay). Ông nhất ý tu hành, đoạn tuyệt dục sự, chắc cô ta sẽ oán hận triền miên, hoặc đến nỗi uất ức mà chết. Nếu ông quả thật đạt được Thượng Phẩm Thượng Sanh thì không bị trở ngại lớn lao gì. Nếu không, sẽ mắc lỗi trái ý cha mẹ, trở thành kẻ oán đối của vợ thì cũng là phiền lụy lớn lao, so với nỗi phiền lụy do nới lỏng dục sự đôi chút thì sẽ sâu đậm hơn nhiều lắm! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Bồ Tát sống trong cõi tục tuy cũng có vợ con nhưng không có dục niệm, cũng vì thuận theo tình cảm con người mà có lúc làm chuyện vợ chồng, bởi phàm phu chẳng thể vô tình. Nếu muốn trọn chẳng thân ái, chắc sẽ tạo thành oán hận đến nỗi khởi lên họa hại hủy báng Phật pháp. Chẳng những không thể tăng trưởng thiện căn mà còn tạo thành nghiệp hủy báng, đọa lạc trong ác đạo. Vì thế, trước hết phải dùng dục để lôi kéo, sau mới làm cho con người tiến nhập Phật trí. Đấy chính là lòng đại từ bi uyển chuyển thuận theo tình cảm của con người, khéo bày phương tiện. Chỉ nên tiết dục, bất tất phải tuyệt dục. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Đức Như Lai thuyết pháp đều thuận theo tình người, chẳng ép người khác làm chuyện khó khăn. Như kẻ thọ giới Ưu Bà Tắc, hoặc thọ một, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn điều, hoặc thọ trọn đủ, đều tùy theo ý muốn của con người. Ngay như giới dâm, kẻ xuất gia phải đoạn hoàn toàn, chứ với người tại gia chỉ ngăn cấm tà dâm. Bởi lẽ, nam nữ lập gia đình có quan hệ lớn với luân thường nên chẳng ngăn cấm; nhưng đã thọ giới nhà Phật thì ắt phải tiết dục. Nếu chẳng vì [có người nối dòng để] thờ phụng tổ tiên, chỉ mong vui sướng, tuy chẳng phạm giới vẫn phạm lỗi lớn; chẳng qua so với tà dâm thì giảm nhẹ hơn mà thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Ông nay muốn cầu được vãng sanh Tây Phương ngay lập tức, ý niệm ấy cũng tốt, nhưng chỉ nên thuận theo nhân duyên của chính mình. Nếu đặc biệt khởi lên cái tâm quyết liệt, cứ mong được vãng sanh ngay thì sẽ trở thành cái gốc để bị ma dựa đấy! Cái họa mai sau làm sao tưởng tượng được! Sách Trung Dung có câu: “Quân tử tố kỳ vị nhi hành. Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn” (Quân tử hành xử theo đúng địa vị; gặp cảnh hoạn nạn bèn cư xử theo đúng cảnh hoạn nạn). Cách cư xử theo đúng cảnh hoạn nạn ấy nay ông hãy nên bắt chước làm theo. Gặp cảnh tật bệnh, phiền não bèn cư xử theo đúng cảnh tật bệnh, phiền não, coi chính mình là kẻ thường bị bệnh tật thì không có cái tâm bộp chộp mong gấp được lành, cứ nhất tâm niệm Phật thì mới chóng lành. Thấy quyến thuộc đáng giận hay đáng yêu liền nghĩ những người ấy chính là hòn đá thử vàng để ta trui luyện công phu nên đặc biệt đối với kẻ đáng giận sẽ chẳng sanh lòng giận, đối với kẻ đáng yêu sẽ chẳng sanh lòng yêu. Đấy gọi là “chuyển phiền não thành Bồ Đề, chuyển bệnh khổ thành an lạc”. Nhất tâm niệm Phật cầu mau được vãng sanh. Nếu như chẳng thể vãng sanh được ngay, chớ nên khởi lên tâm niệm bộp chộp, mong gấp đạt được thì bệnh khổ sẽ tự tiêu diệt, quyến thuộc sẽ tự hòa thuận tốt lành. Xin ông hãy suy nghĩ sâu xa. Bệnh chưa hoàn toàn bình phục hẳn, trọn chớ nên gần nữ sắc! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Trong cõi đời, những người ăn chay phần nhiều khỏe mạnh, những ai ăn thịt thường lắm bệnh tật. Do ăn thịt trược ác nên dễ sanh dục tâm, ăn chay thanh tịnh nên dục tâm nhẹ ít. Kẻ ngu chẳng hiểu lý, tưởng ăn thịt để bổ dưỡng con người, đấy là muốn cho cả mình lẫn người sẽ đều biến thành súc sanh trong đời kế tiếp và đời sau, chẳng đáng buồn ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Vợ và em gái ông nhất định muốn dùng thịt để đãi khách, hai người ấy chết đi chắc chắn phải biến thành lợn, dê, gà, vịt, tôm, cá. Nếu chẳng biến thành những thứ bị người khác giết để ăn thì trời đất cũng sẽ đổi vị trí, mặt trời, mặt trăng sẽ xoay sang phương Đông. Vì sao vậy? Do nhân như vậy nên phải cảm quả như vậy. Xin hãy đem lời này của Quang đưa cho họ xem, chắc còn có thể cứu được! Nếu không, chắc họ sẽ thường biến thành món ăn ngon nhất cho người ta đãi khách, chẳng biết họ sẽ vừa lòng thỏa ý hay đau khổ mong mỏi được cứu nhưng vạn phần chẳng có cơ duyên được cứu? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Tôi đã nhận được bài văn Mười Thứ Lợi Ích, đem tặng hết rồi. Suy nghĩ cặn kẽ thì thấy những điều được nói trong bài văn ấy sẽ có thể khiến cho những gã đứng ngoài cửa dấy lên lời dị nghị, hễ tặng hết bài văn ấy xong hãy đừng in nữa thì hơn. Tôi chẳng bảo những lời ông nói không đúng, chỉ là chưa nói được cương lãnh trọng yếu. Cương lãnh trọng yếu là ở chỗ nào? Chính là ở chỗ [sát sanh] sẽ kết oán thù triền miên, đời đời kiếp kiếp tàn sát lẫn nhau. Ông chỉ nên chí tâm niệm Phật để làm phương kế siêu thoát cho những kẻ giết chóc và những con vật bị giết chóc thì sẽ có lợi ích lớn lao. Nếu khăng khăng đem bài văn ấy đăng trong các tờ báo Phật giáo thì rốt cuộc có được mấy ai xem? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Những kẻ ăn thịt kia do tâm tham sai khiến, muốn bảo họ đừng ăn thì phải từ nhân quả báo ứng và nỗi đau khổ, oán kết phát sanh vì bị giết hại mà nói thì mới dễ lay động lòng người được! Nếu chỉ biện minh là tịnh hay bất tịnh thì đấy chỉ là sự việc nơi cành nhánh. Hơn nữa, người ta đã muốn ăn thì đâu cần bận tâm thịt là thứ bất tịnh! Trước kia, có một vị đại cư sĩ hoằng pháp mấy chục năm, nhưng hằng ngày vẫn ăn thịt (tên của vị này Quang chẳng nói, ông cứ suy ra là biết liền), huống chi những kẻ hời hợt, hờ hững ư? Nếu ông thật sự muốn làm lợi người khác, hãy nên lưu truyền những lời răn dạy cực thống thiết của cổ nhân. Còn như trong bài văn ông đã soạn, ông nêu ý nghĩa “một người phóng sanh thì mười nhà được hưởng lợi ích” và thuyết “những thứ ấy chẳng phải là tam tịnh nhục” thì đấy chính là những nghĩa lý chi ly, vụn vặt, phiền phức của các vị giảng sư. [Nghe nói về những nghĩa ấy], kẻ có tín tâm thì còn sanh được thiện tâm, chứ kẻ không có lòng tin chắc sẽ phỉ báng. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Thuốc là vật dùng để trị bệnh, hễ bị bệnh do nghiệp gây ra thì thuốc men chẳng làm gì được cả! Huống hồ sắp chết thì thuốc có thể hồi sanh được hay chăng? Dẫu không phải là do nghiệp gây ra mà chí tâm niệm Phật thì cũng sẽ tự chẳng sanh bệnh. Mắc bệnh thì uống thuốc cũng được! Nếu chuyên trông cậy vào thuốc thì nhà phú quý, nhà thầy thuốc sẽ không có ai bệnh tật, đều trường thọ cả rồi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Ông chấp chặt hẹp hòi như thế, cho rằng đã nói quy y niệm Phật thì không được ăn, tức là dạy kẻ ăn thịt nhất loạt chẳng niệm Phật! Những kẻ ăn thịt ấy chỉ biết thịt là thứ có vị ngon, chẳng biết sau này khi chính mình cũng sẽ là thức ăn có vị ngon để cho người khác giết ăn thì trong tâm họ mới cảm thấy khó chịu. Kẻ ấy đã chẳng hiểu sự việc như thế thì đành để mặc cho kẻ ấy sau này đợi người khác giết ăn là được rồi; cần gì phải phí sạch tâm tư khuyên nhủ hắn! Hắn đã mong cầu được người khác ăn hắn, ông khuyên hắn đừng muốn tìm cầu sự khổ ấy, đâm ra trong tâm hắn lại chẳng yên vui! Cứ để mặc hắn đi, để cho hắn đem thân làm món ăn cho người khác; đến lúc ấy, dẫu tâm can đau xé cũng vô ích. Khi ấy hắn sẽ tự hiểu sự sai lầm trong lúc này và lời ta đã nói với hắn chẳng phải là dọa dẫm thì cũng đã muộn rồi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Mua loài vật phóng sanh, nếu dựa theo lý rốt ráo “tự thương, thương người” để luận, [khi con vật bị chết trước lúc được phóng sanh] cố nhiên nên đem chôn, chớ nên đổ xuống nước khiến xác con vật đã chết trôi lềnh bềnh trong nước, rốt cuộc chẳng phải là kế sách tốt đẹp! Nếu bảo là vì nó đã chết, liền đem cho người khác ăn và thí cho người nghèo ăn thì cũng không phải là không được. Hãy nên bảo người ăn niệm Phật cho con vật đã chết ấy thật nhiều bởi nó là con vật được phóng sanh; nếu không, ăn vào sẽ bị mắc tội. Nếu có thể niệm Phật cho nó thì đôi bên đều được lợi ích. Dùng điều này để khuyên bảo thì cũng có thể dẫn dụ người ăn kia gieo được chút thiện căn. Dẫu chưa thể thả được sanh vật thì đối với những thức ăn do chính mình sắm sửa, hãy nên niệm Phật cho nó thì đôi bên cũng đều được lợi ích. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Sư Hoằng Nhất chỉ muốn làm một gã tự giải thoát, muôn phần chẳng thể đảm nhiệm sự việc được! Do thầy ấy tâm hạnh tỉ mỉ, tinh tế, hễ phải đảm nhiệm công việc sẽ bị tổn thương, hễ bị tổn thương sẽ phải bỏ cuộc giữa chừng. Nếu tự mình dụng công thì sẽ được yên vui. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Lệnh hữu bị bệnh, chỉ nên khuyên ông ta trở về nhà dưỡng bệnh. Vàn muôn phần chớ nên để ông ta tới Phổ Đà; do ông ta quen thói kẻ cả, thức ăn phải nấu nướng khéo léo, nhà cửa phải lộng lẫy, người hầu hạ phải lanh lợi, hễ gặp một chuyện gì không vừa ý liền sanh phiền não! Ở Pháp Vũ chẳng có một điều nào hợp ý ông ta được đâu! Huống chi ông ta tự cao tự đại, trọn chẳng có tín tâm, tuy anh ông đã ghi tên xin quy y giùm ông ta, thế mà khi Quang đến Thượng Hải, ông ta trọn chẳng có một lần nào đến thăm hỏi (Quang không trách ông ta bất kính, nhưng do vậy biết ông ta tự đại cũng như thiếu hẳn tín tâm). Làm sao tới núi dưỡng bệnh cho được? Nếu chẳng nói rõ những chuyện này, chắc ông ta sẽ nghe theo lời hai anh em ông khuyên, đường đột chẳng nghĩ thân phận, tánh tình của mình như thế nào, Pháp Vũ là nơi chốn như thế nào để rồi đến ngay, sẽ trở thành chướng ngại, không bao lâu sẽ phải bỏ đi, đâm ra bị tổn hại vô ích! Ngàn vạn phần đừng khuyên ông ta tới núi kẻo đến nỗi đôi bên đều bất an. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Người đời nay hễ hiểu kinh giáo đôi chút bèn chú trọng nơi nghiên cứu, hễ hơi hiểu Thiền ý bèn chú trọng nơi tham cứu. Nguyên nhân nói chung là do họ không biết chính mình là nghiệp lực phàm phu chẳng thể tự chứng giải thoát được! Cái cực thâm diệu nằm ở chỗ cực bình thường! Ví như một câu Phật hiệu vốn cực bình thường, nhưng niệm tới cùng tột thì trăm ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghĩa đều có thể hiểu được! Lại như gốc cây, vốn cực bình thường, nhưng sanh rễ, nẩy mộng, đâm cành, trổ nhánh, nẩy lá, đơm hoa, kết quả, thật mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn! Vì thế, kẻ biết nhìn vào, biết thực hiện cái bình thường thì chính mình mới thật sự có sở đắc. Nếu chỉ biết thâm diệu thì phần nhiều khó thể tận tụy thực hiện được, trở thành kẻ chỉ biết nói những lời lẽ thâm diệu mà thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Lăng Nghiêm quán nhiếp khá rõ ràng, nhưng giải thích kinh văn dễ dàng, rõ ràng nhất thì không gì bằng sách [Lăng Nghiêm] Chỉ Chưởng; nhưng đa số những chỗ trọng yếu trong Chỉ Chưởng lại không theo sát kinh văn, đấy là do mỗi người khéo hiểu mà thôi! Thoạt đầu cần phải nghiên cứu Tịnh Tông đến chỗ không còn bị dao động, mê hoặc thì mới có thể đọc rộng rãi các kinh luận. Nếu chưa hiểu rõ Tịnh Tông, hễ đọc rộng rãi các kinh luận sẽ khó khỏi bị kinh giáo hoặc lời lẽ của tri thức xoay chuyển, ngược ngạo gác bỏ Tịnh Độ ra ngoài. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Kinh Lăng Nghiêm quả là bản kinh mầu nhiệm để hoằng dương Tịnh Độ, nhưng kẻ chưa hiểu pháp môn Tịnh Độ thường do kinh Lăng Nghiêm mà ngược ngạo coi thường pháp môn Tịnh Độ. Đấy gọi là “kẻ nhân thấy là nhân, kẻ trí thấy là trí”, do chính mình chưa có đủ chánh nhãn, cứ cậy vào ý kiến của chính mình để hiểu ý kinh mà ra! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Phàm khi nghiên cứu, ắt phải lắng lòng, dứt bặt suy nghĩ, ngưng thần đọc kỹ thì sẽ như vào trong đảo châu báu lớn, ắt sẽ có thu hoạch. Nếu chỉ mong đọc ào ào cho nhanh, hận chẳng vừa đọc là xong ngay, thì chẳng những không hiểu được nghĩa lý của kinh mà lâu ngày chắc sẽ bị bệnh đến nỗi tổn khí, thổ huyết v.v… Người khéo được lợi ích, không gì chẳng tạo lợi ích; kẻ cam chịu tổn hại, không gì chẳng phải là tổn hại! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Kinh Lăng Nghiêm có gì mà chẳng thể nghiên cứu được! Nhưng cần phải lấy Tịnh Độ làm chủ thì hết thảy kinh sẽ xiển dương lợi ích của Tịnh Độ. Phần mở đầu kinh Lăng Nghiêm gạn hỏi cái tâm khó khăn như thế thì biết chúng sanh đời Mạt nếu cứ muốn nghiên cứu [kinh điển xuông] để giải quyết sự việc thì sẽ tự lầm, lầm người lớn lao! Huống chi trong phần Hai Mươi Lăm Pháp Viên Thông, kinh xếp pháp Viên Thông của ngài Thế Chí trước pháp Viên Thông của ngài Quán Âm, hàm ý lấy Tịnh Độ làm [pháp môn] chủ yếu cũng lớn lao thay! Đến phần giảng rõ về cảnh Ngũ Ấm Ma, [Phật dạy] kẻ phá được hai ấm Sắc và Thọ mà vẫn còn có chuyện bị ma dựa, đủ thấy sự khó khăn khi dùng tự lực để liễu sanh tử, sự dễ dàng khi dùng Phật lực để liễu sanh tử. Nghiên cứu được như thế thì sẽ có lợi ích lớn lao. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Ông muốn xuất gia đã lâu, chẳng biết khẩn thiết như thế nào? Nay thấy [cách xử sự khi] ông ở chùa Thái Bình thì cũng là phường hời hợt, hờ hững. Tức là ông muốn xuất gia chỉ nhằm cầu được thanh nhàn, tự tại mà thôi! Nếu thật sự muốn tu trì sẽ chẳng đến nỗi thong dong, lửng lơ như thế! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Thư của Lâm Tâm Liên hỏi về Lý Trác Ngô. Người này cũng thuộc hạng “tưởng chừng là đúng mà thật ra là sai!” Xét ra, ông ta xuất gia nhưng không thọ giới, liền tự nói pháp, tới khi người trong vùng chê là tà thuyết, ngông cuồng, trái nghịch, bèn đội mũ làm nhà Nho. Xét theo học thức của Trác Ngô, làm sao có thể phô bày, đề cao tâm pháp của Thích - Nho được? Ông ta đột ngột hoàn tục tức là hành vi không có đường lối nhất định, cứ làm bừa theo ý mình. Há còn đáng gọi là bậc quân tử hiểu lý, thấu hiểu tận cùng tánh hay chăng? Cuốn Cư Sĩ Truyện đặc biệt viết truyện về ông ta, quả thật là đề cao quá đáng! Sợ ông Lâm vẫn chẳng chấp nhận lời Quang là đúng, vì thế tôi viết kèm thêm vào thư gởi cho ông. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Người học đạo chuyện gì cũng phải noi theo thật tình, cuối thư há nên dùng chữ “trăm lạy” sáo rỗng? Chắc là ông nghĩ khuôn phép sáo rỗng ấy là cung kính đấy chăng? Từ nay về sau đừng nên như thế nữa! Chỉ nói “đảnh lễ” là được rồi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Cần biết rằng: Những giáo pháp được nói trong suốt một đời đức Phật đều thuộc về pháp môn tự lực, chính là giáo lý theo đường lối thông thường; còn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt, hoàn toàn cậy vào Phật lực. Nếu có thể đoạn Hoặc chứng Chân ngay trong đời này thì chẳng cậy vào Phật lực cũng chẳng mắc lỗi gì! Chứ nếu đã không thể đoạn Hoặc chứng Chân ngay trong đời này mà lại chẳng cậy vào Phật lực thì nếu không ngu ắt cũng là cuồng! Những bậc đại thông gia hiện thời thường là như thế đấy, buồn thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Hiện nay, tăng nhân tuy nhiều, nhưng kẻ có thể hoằng pháp thật ít. Do thỉnh pháp sư chẳng dễ, cho nên đến nỗi như thế. Nhưng nghe kinh giống như tu trì Tịnh nghiệp, hễ nêu rõ nguyên do của tự lực và tha lực thì sẽ có lợi lớn lao. Nếu chỉ cầu thông đạt giáo nghĩa, chẳng chú trọng Tịnh Độ thì sợ rằng sẽ không có sức đoạn Hoặc chứng Chân. Muốn đới nghiệp vãng sanh mà lại chẳng sanh tín nguyện thì tuy có Phật lực nhưng không có cách nào nương cậy, sẽ trở thành kẻ có nhân không quả, nghiệp thức mờ mịt! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Một câu Nam Mô A Di Đà Phật chỉ cần niệm cho thuần thục thì thành Phật còn có thừa, không học Mật pháp nào phải áy náy gì? Mỗi ngày niệm Phật ba chục vạn câu thì ý căn lẫn thiệt căn đều nhạy bén, nhưng đừng chỉ hâm mộ niệm cho nhiều! Hãy nên dốc sức nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối mà thôi! Hơn nữa, những kẻ tu hành phù phiếm, hời hợt hiện thời phần nhiều đều chẳng tu hành chân thật, chỉ mong được hư danh. Quang từng thấy rất nhiều kẻ công khóa hằng ngày niệm Phật tới mười vạn câu Di Đà, nhưng đều là phô phang thanh thế sáo rỗng nhằm dối mình lừa người mà thôi! Hễ nhiễm phải thứ tập khí ấy thì sẽ chỉ nhọc nhằn chứ không có công hiệu gì đâu! Nhỏ thì sẽ biến không thành có, lớn thì đem phàm lạm thánh, chẳng những không có công lao gì mà tội lỗi cũng chẳng thể nói trọn hết được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Đối với dòng họ ngoài đời, năm tháng xuất gia, những chỗ đã trụ, những chuyện đã làm, đấy chính là những dữ liệu về bậc đại thông gia có công đối với pháp đạo nên được người đời sau sao chép để nêu gương nhằm phát khởi cái tâm kính ngưỡng, mong mỏi, hâm mộ của người khác nên không thể nào chẳng làm như vậy. Còn như Quang là một ông Tăng tầm thường, ngoài chuyện ăn ngủ ra, trọn chẳng biết gì cả, trọn chẳng làm được gì! Sao đáng để noi theo khuôn sáo ấy? Dùng khuôn sáo ấy sẽ trở thành khắc phân người giả làm Chiên Đàn, đẹp thì đẹp mặt thật đấy, nhưng chỉ thối tha, không thơm tho gì! Cũng giống như đem đất, gỗ giả làm vàng ngọc, choáng lộn thì choáng lộn thật đấy, nhưng chỉ có sắc chứ chẳng thể tỏa sáng được! Khi chưa xuất gia, Quang đã coi chuyện hư trương thanh thế là điều đáng thẹn, huống chi nay đang muốn theo gót các vị thượng thiện nhân ưu du trong thế giới An Dưỡng! Há chịu biến không thành có để lừa đời, dối mình ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 40 Quang vốn là chủng tử địa ngục hủy báng Phật pháp, may mắn nhờ vào thiện căn đời trước, giữa chừng giác ngộ xuất gia tu trì Tịnh nghiệp để mong thoát khỏi cõi khổ não này mà thôi! Nào ngờ [Mã] Khế Tây cứ muốn ép tôi vào địa ngục A Tỳ, biến tôi vốn là chủng tử địa ngục rốt cuộc thành một vị Bồ Tát sống! Hay thì hay thật đấy! Nhưng Diêm La đại vương quyết chẳng chấp nhận đem phàm lạm thánh, ắt sẽ phải mời tôi là một vị Bồ Tát giả tới hiển hiện thần thông trong vạc sôi, lò than, rừng gươm, núi đao v.v… nơi ấy! Sợ rằng sẽ phải đem đầu mặt giao nộp mà thôi! Chẳng những không thể sanh về Tây Phương mà còn sợ rằng sẽ phải thường ở mãi trong địa ngục A Tỳ không thể thoát ra! Nếu ông thương xót tôi, quyết sẽ đem truyện ấy [Ấn Quang Đại Sư Truyện] đốt sạch hết đi khiến cho ông ta chẳng còn làm những chuyện bịa đặt sáo rỗng ấy nữa thì may mắn muôn phần, vạn phần vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 38 Gạt bỏ Tây Phương Di Đà, coi đó là chấp lấy pháp ở ngoài tâm; đấy chính là căn bệnh chung của những kẻ tham Thiền nhưng không hiểu được ý, chỉ chấp có tâm, chẳng biết có Tịnh Độ, cũng như [chẳng biết có] vị giáo chủ cõi Tịnh Độ. Ý họ cho rằng: “Hết thảy duy tâm mà Di Đà ở Tây Phương tức là chấp lấy pháp ở ngoài tâm”, chẳng biết: Do hết thảy duy tâm nên Sa Bà chỉ là do sự nhơ uế trong tâm cảm thành, Cực Lạc cũng chỉ do sự khiết tịnh trong tâm cảm thành! A Di Đà Phật ở Tây Phương chính là đức Phật thiên chân nơi tự tánh của chúng ta, đức Phật thiên chân trong tự tánh của chúng ta chính là A Di Đà Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chẳng thấu hiểu nghĩa lý “duy tâm”, lầm lạc sanh ý niệm lấy - bỏ, lỗi ấy kể sao cho xiết? Ngoài tâm không cảnh, ngoài cảnh không tâm, do tâm tịnh thì cõi Phật tịnh, do tâm uế thì cõi Phật uế. Cảnh thiện hay ác là do tâm thiện hay ác cảm thành. Trọn chẳng có chuyện thiện tâm, tịnh tâm lại cảm ác cảnh, uế cảnh, hoặc ác tâm uế tâm lại cảm được thiệVừa nhận được Quán Âm Linh Cảm Lục và Phật Học Sơ Giai do ông gởi tới, khôn ngăn cảm phục. Năm Mậu Ngọ (1918), Quang nhận lời thỉnh của ông Trần Tích Châu tu chỉnh [Phổ Đà] Sơn Chí, Quang tính sưu tầm khắp mọi sự tích linh cảm của ngài Quán Âm trong Đại Tạng để đưa vào trong Sơn Chí, nhằm nêu rõ thật nghĩa nơi Bổn và Tích của vị chủ nhân núi này. Hiềm rằng mắt vẫn lòa như cũ, không cách nào viết lách được, nay thấy bản biên tập của các hạ, khôn ngăn mừng cho chúng sanh không nơi nương tựa trong cõi Sa Bà đã có được nơi che chở. Tôi sẽ cất giữ [cuốn sách này] trong phòng chứa kinh. Nếu vạn nhất được toại nguyện, mắt được sáng lại, sẽ thực hiện ý nguyện sửa chữa, tu chỉnh Sơn Chí lần nữa, ắt sẽ chọn lọc sử dụng tài liệu trong cuốn sách này nhằm đáp tạ ân lớn lao của Đại Sĩ, hòng an ủi nỗi khổ tâm của các hạ, mà phẩm sen của lệnh nghiêm, lệnh từ cũng sẽ được chuyển cao lên hơn nữa. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 37 n cảnh, tịnh cảnh! Do bởi lẽ ấy cho nên nói: “Ngoài tâm không cảnh, ngoài cảnh không tâm”. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 35 Trong từ ngữ “cách ấm chi mê” thì Ấm có nghĩa là sắc thân, tức Ngũ Ấm. Do điều này, bậc Bồ Tát chưa đoạn sạch Kiến Tư Hoặc trong tam giới hễ thọ sanh thì vẫn còn có cái làm cho họ bị mê hoặc, vì thế gọi là “cách ấm chi mê”. Rất nhiều vị đại căn khí lúc thoạt đầu cũng mê muội trái nghịch giống như phàm phu, nếu gặp được duyên hoặc vừa nghe khai thị liền ngộ ngay lập tức, thật giống như người thuộc hai cuộc đời khác nhau, đấy đều là do đời trước đã gieo thiện căn sâu xa nhưng chưa đoạn được Phiền Hoặc, hễ vừa chuyển sang đời sống khác liền trở thành mê trái.[Kinh luận thường] gọi lúc chưa chết là Hiện Ấm, gọi lúc chết rồi nhưng chưa thọ sanh là Trung Ấm, thọ sanh rồi thì gọi là Hậu Ấm. Hậu Ấm là ước theo lúc chưa chết mà nói, chứ nếu ước theo lúc đã thọ sanh để nói thì phải gọi là Hiện Ấm. Thuyết “cách ấm” chỉ cho điều này! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 35 Tác phẩm lớn lao của ông là [Phật Học] Đại Từ Điển chữ quá nhỏ, mắt Quang chẳng thể đọc được! Ngẫu nhiên đọc một hai đoạn, tựa hồ có chỗ cần phải thương lượng, châm chước, nên cũng viết vào sau thư này. Những điều ông giảng giải về từ ngữ “được Phật tiếp dẫn” không sai, nhưng Thiên Thân Luận chính là Vô Lượng Thọ Kinh Luận, cũng còn gọi là Vãng Sanh Luận. Trong Đại Tạng Mục Lục gọi là Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá. Ưu Ba Đề Xá chính là từ ngữ tiếng Phạn để chỉ Luận vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 35 Phàm là người niệm Phật, ắt phải phát đại Bồ Đề tâm phổ độ chúng sanh thì trong hiện tại các duyên sẽ thuận thảo, thích đáng, lúc lâm chung chánh niệm vãng sanh. Từ đấy, thoát khỏi hàng phàm phu, dự vào hội thánh hiền, nương theo Phật từ lực và nguyện luân của chính mình trở vào Sa Bà hiện khắp các sắc thân độ thoát chúng sanh. Há nào phải khư khư như viên Thượng Thư chỉ mong được nhờ ân hòng diệt tội ư? [Dẫn giải] như thế sẽ khiến cho người đọc đoạn trừ được những tri kiến kém hèn, mở mang, khơi gợi tín tâm chân thật. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 34 Nếu chỉ sao lục nguyên văn, trọn chẳng bình luận thì kẻ ngu sẽ tưởng niệm Phật chính là một pháp để tích trữ tiền bạc trong cõi Âm! Từ đấy một người xướng, trăm kẻ họa, chỉ mong làm quỷ có tiền, đánh mất chỗ nương dựa để tạo lập công phu vãng sanh Tây Phương! Người trí thấy vậy sẽ chê kẻ biên soạn trọn chẳng có chánh nhãn. Nếu bình luận nguyên do thì đôi điều đều đạt được! Nếu không, cả hai điều đều mất. Những sách vở trong thế gian đều có những chỗ giúp nêu tỏ Phật pháp, nhưng do người soạn chưa mở được chánh nhãn nên thường đến nỗi [dẫn đến hiệu quả] trái nghịch. Như Kỷ Văn Đạt, Viên Tử Tài cực lực muốn làm cho người khác tin sâu nhân quả, nhưng chưa hiểu rõ tự tâm, nên thường viết những câu tự mâu thuẫn, hoặc hiểu lầm tin tức, ngỡ ma cảnh là Phật cảnh, huống là những kẻ khác ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 34 Chuyện của Trương Bân đích xác chẳng phải là ngụy tạo! Điều đáng tiếc là ông ta chưa gặp được bậc tri thức sáng mắt dạy cho biết nguyên do niệm Phật. Nếu biết được nguyên do, dùng cái tâm khẩn thiết ấy để phát nguyện tự lợi lợi người, chắc ông Bân sẽ cao đăng chín phẩm, chứng quả Vô Sanh! Há còn lo tích trữ mấy kho kim tiền để đợi sau này sử dụng trong cõi Âm nữa ư? Còn như vua cõi Âm bảo: “Phàm ai thọ Bát Quan Trai Giới chí tâm niệm Phật một tiếng thì cũng đúc được một đồng tiền bằng bạc” cho thấy người đời dùng niệm Phật để tích trữ tiền [nhằm sử dụng sau khi chết] nhiều lắm! Họ chẳng biết tới công đức niệm Phật, chỉ mong có tiền để dùng sau khi chết, giống như đem Như Ý bảo châu đổi lấy một tấm áo, một bữa ăn! Há chẳng đáng tiếc ư? Tuy nhiên, do vị Thượng Thư khẩn cầu người thợ bện dép cỏ Bồ nên liền được sống lại để chuộc tội - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 34 Vừa nhận được thư, biết các hạ có chí mong lợi người nhưng lại thận trọng nơi sự, sợ rằng có chỗ không thích đáng sẽ gây trở ngại cho pháp đạo, đáng gọi là “chân tâm hộ pháp, chân tâm lợi người”. Lại do thấy Quang nghèo nàn tiền bạc, liền đặc biệt gởi cho mười tấm bưu phiếu, cảm ơn lắm. Đời Mạt ít có tri thức thật sự, thường có những gã tục Tăng vô tri dạy người khác niệm Phật, bảo: “Cứ niệm Phật một tiếng thì sẽ có một đồng trong cõi Âm!” Nhưng kẻ ngu thấy biết nhỏ nhoi, nói: “Mỗi ngày niệm Phật mấy vạn tiếng liền có mấy vạn đồng! Buôn bán trong thế gian nhọc nhằn, gian nan, trọn chẳng có được chuyện lợi ích lớn lao như thế ấy”, liền phát tâm niệm Phật coi như phương kế tích tụ tiền tài, trọn chẳng biết tới nguyên do niệm Phật! Do kẻ ấy tâm tâm niệm niệm dùng lòng chí thành để mưu tính tích tụ tiền bạc nên sẽ tùy tâm tùy nghiệp mà hiện thành tiền. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 34 Hơn nữa, trong sách Quán Âm Linh Cảm Lục, nơi mặt trước của trang hai mươi hai trong chương thứ năm, đoạn chép về Lương Cung Thần , Quán Âm nói với Phạm Vương về mười thứ tướng mạo danh nghĩa của chú tâm, thứ nhất là “đại từ bi tâm thị” (tâm đại từ bi là tướng mạo danh nghĩa của chú Đại Bi), cho đến thứ mười là “vô thượng Bồ Đề tâm thị”. Năm trước, trong sách Phật Học Chỉ Nam, ông đã từng sử dụng cú pháp như thế này: Đem chữ Thị đặt trên đầu mỗi câu, Quang đã từng nói cặn kẽ. Nay lại sử dụng cú pháp như thế, biết các hạ bận bịu nhiều việc trọn chưa thể kiểm nghiệm từng điều. Chuyện này tuy nhỏ nhặt, nhưng để cho bậc thông gia trông thấy ắt sẽ chê cười, còn kẻ chẳng phải là bậc thông gia trông thấy sẽ bắt chước! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 33 Quang do vô tri lại muốn giúp lưu thông nên bèn dùng lối đánh số để chỉ ra những chỗ sai ngoa do lưu truyền sao chép trong ấy và những chỗ chưa được giảng giải hết sức thông suốt, viết riêng vào một tờ giấy khác để mong ông ta sẽ lại sửa chữa. Cổ nhân soạn sách chẳng hiềm ba bốn lượt sửa đổi bản thảo. Biết ông Hoàng và các hạ là bạn tâm giao, sẽ trọn chẳng trách móc Quang phiền phức, vụn vặt, mà sẽ vui vẻ sửa chữa để mong sao trong hội Long Hoa thường được Di Lặc Thế Tôn đề cao là bậc đa văn trí huệ đệ nhất. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 32 Ngày Hai Mươi Ba mới nhận được bài chú giải Đại Sĩ Bi (văn bia thuật hành trạng của Phó Đại Sĩ) do ông Hoàng [Hàm Chi] biên soạn. Trộm nghĩ văn tự, điển cố trong bài văn bia ấy cực khó thấu hiểu tường tận được. Vì thế, ông Tôn Ngọc Tiên tính cậy các hạ chú giải nhằm phát khởi thiện căn của hết thảy người đọc, ngõ hầu được sanh về Tịnh Độ ngay trong đời này, tương lai sẽ phụ trợ đức Di Lặc trong hội Long Hoa. Lợi ích ấy quả thật chẳng nông cạn! Nay thấy trong bản chú giải của ông Hoàng, phàm những điển tích người khác chẳng dễ biết mỗi mỗi đều được nêu ra, chẳng những Quang và Ngọc Tiên vui mừng, an ủi khôn cùng, mà Di Lặc Bồ Tát nơi cõi Thường Tịch Quang và trời Đâu Suất cũng mỉm cười bảo [ông Hoàng] đã nêu bày thông suốt được bản hoài xuất thế của Ngài! Nếu bài văn ấy được khắc, ắt sẽ được lưu truyền khắp cõi, vĩnh viễn không ngừng. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 32 Trong lá thư lần trước, ông đã nói đại lược về Huệ Mạng Kinh, Quang chưa hiểu được ý. Nay nhận được thư, biết các hạ muốn nhổ trọn các cội rễ tà kiến, nêu đích danh sách ấy [là kinh điển tà vạy của ngoại đạo giả danh Phật pháp] và dẫn lời Quang đả phá, bài xích, có thể nói lòng từ sâu xa, lòng bi lớn lao đến cùng cực không gì hơn được nữa! Cảm tạ! Bộ Văn Sao hủ bại của Quang nhờ được các hạ tán dương quá mức sẽ được lưu thông tận phương xa, sẽ có ích lớn lao cho kẻ sơ cơ học Phật. Đợi đến khi người ấy đã biết được đường lối sẽ chẳng ngại gì coi [Văn Sao] như chó rơm. Nếu vẫn coi như khuôn thước thì cũng không phải là chẳng được! Bởi lẽ, pháp không có hơn - kém, được lợi ích tùy nơi mỗi người mà thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 31 Muốn được lợi ích thật sự nơi Phật pháp, phải hướng về cung kính mà cầu, đấy chính là thường pháp chẳng thể thay đổi trong suốt mười phương ba đời vậy! Tiếc cho người đời nay phần nhiều coi thường chuyện này; do vậy, chỉ mang cái danh nghiên cứu suông, chẳng đích thân đạt được thực chứng! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 30 Mấy hôm trước, em trai ông Mạnh Do là Quần Tranh tính thí tặng các sách nói về nhân quả do các hạ đã soạn và Long Thư Tịnh Độ Văn cũng như bộ Văn Sao của Quang, nhưng vì người đọc sách trong hiện thời trọn chẳng chú trọng cung kính kinh sách của thánh hiền, sợ người được tặng sách sẽ đọc với thái độ như đọc sách Nho thì tội lỗi vô lượng. Do vậy, Quần Tranh gởi thư cho Quang, xin soạn một bài văn khuyến cáo, tính cho khắc ván, in vào đằng sau bìa sách, ngõ hầu những kẻ hiểu biết sẽ chẳng đến nỗi giữ mãi thói quen [khinh nhờn] ấy! Quang liền viết một bài gởi cho ông ta, nhưng do học thức kém cỏi, thật khó thể cảnh tỉnh kẻ khác được! Tuy thế, ắt sẽ có người do vậy mà sửa đổi đôi chút thói quen cũ ấy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 30 Đến hôm qua [ông Tôn] lại gởi thư tới, ý muốn thực hiện ngay chuyện này để mong sao Phó Đại Sĩ Ngữ Lục sẽ được lưu hành cùng với Di Lặc Truyện, bảo Quang gởi thư xin các hạ hãy vì chúng sanh mà phát Bồ Đề tâm, ngõ hầu mọi người đều được biết tới đạo uyên áo của đức Di Lặc, cầu khẩn khôn ngằn! Do vậy, bèn đem bản Phó Đại Sĩ Tập do Quang đã châm chước sửa đổi gởi đi bằng thư bảo đảm và bỏ luôn thư của Ngọc Tiên vào phong bì, mong ông hãy thỏa mãn ý nguyện nhỏ nhoi của Ngọc Tiên và Quang mà vung ngọn bút lớn lao khiến cho quang minh của ngài Di Lặc được chiếu trời soi đất đến tận đời vị lai. Đạo tràng của Phó Đại Sĩ ẩn sâu trong xó núi. Gần đây thật ít cao nhân tới trụ, nên bản ngữ lục ấy qua nhiều lần sao chép, khắc ván thường tăng thêm phần sai ngoa, hoặc thêm phần thừa thãi, hoặc bị sai sót. Quang thấy vậy khôn ngăn đau tiếc, bèn dùng tri kiến kém hèn để châm chước, sửa chữa. Bản khắc lại của pháp sư Hưng Từ sẽ dựa theo bản [sửa chữa] này. Nhưng trong cõi đời không có bản nào hoàn chỉnh, Quang lại không có sự hiểu biết chân chánh, chưa chắc mỗi một điều đều đúng pháp. Những chỗ được sửa cho đúng chiếm hơn một nửa, dẫu có những chỗ bị sửa đúng thành sai thì cũng chỉ chiếm chưa tới một nửa. Do trong cõi đời không có một bản hoàn chỉnh nên không thể [dựa vào đâu để] châm chước, cân nhắc sửa đổi được. Do vậy, nếu giữ chết cứng thái độ thận trọng, theo lệ chẳng dám sửa đổi một chữ thì tấm lòng đau đáu của Đại Sĩ sẽ bị phong kín bởi văn tự sai ngoa, thiếu sót, thừa thãi, sẽ không có cách nào phô bày rõ rệt được! (Đây chính là nỗi khổ tâm “chẳng lượng sức, cứ làm chuyện châm chước, giảo định” của Quang). - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 29 Mật Tông lấy Tam Mật Gia Trì khiến cho phàm phu được chứng thánh ngay trong hiện đời, công đức lực dụng ấy chẳng thể suy nghĩ được, chẳng thể bàn bạc được, nên gọi là “lực dụng chẳng thể nghĩ bàn”. Tuy Mật Tông đề suông tông chỉ ấy, nhưng cần phải là đúng người thì mới có thể làm được! Hạng người ấy là hạng người nào? Chính là các vị như Kim Cang Trí, Thiện Vô Úy v.v… Nếu không phải là hạng như vậy thì đạo chẳng thể không hành suông. Những kẻ học Mật Tông hiện thời đều chỉ học được ngoài da, hoàn toàn không có Kim Cang giới lực lẫn Bồ Đề đạo tâm. Họ chẳng chú trọng trì chú để đoạn Hoặc chứng Chân mà phần lớn bắt chước hiện chữ, hiện hình tướng, để hỏi cát - hung, họa - phước, nhân trước, quả sau, giống như tác dụng của linh quỷ. Đấy gọi là làm cho Mật Tông bị bại hoại; tôi sợ quở tội họ còn chẳng xuể, nói chi là thành thánh ngay trong cõi phàm! Chúng ta chỉ nên lấy pháp môn Tịnh Độ làm một tòa núi Tu Di lớn lao để dốc hết toàn thân nương tựa, ngõ hầu chẳng bị hết thảy tri thức lay động hòng có thể liễu thoát ngay trong đời này! Nếu không, sóng sẽ theo gió dấy lên, trọn chẳng có lúc nào ngưng thì buồn thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 28 Từ ngữ “quang ảnh môn đầu” (光 影 門 頭) chỉ cho tình trạng “kiến đạo chẳng chân thật”. Ấy là vì lấy mặt trăng trên bầu trời và thân hình con người để ví cho đạo. Những kẻ chỉ thấy được ánh trăng và bóng người bèn cho là đã đắc, há có được chăng? Hơn nữa, nếu dùng mặt trăng để ví cho đạo, lấy ánh trăng, bóng trăng để ví với chỗ đạo lưu lộ thì cũng được. Ánh trăng, bóng trăng chính là chỗ lưu lộ của mặt trăng, nhưng hãy nên từ ánh trăng, bóng trăng mà ngẩng lên nhìn vầng trăng trên trời, đừng ngỡ ánh trăng và bóng trăng trong nước là vầng trăng thật sự! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 28 Càng về sau càng thua kém đời trước cũng là chuyện thường được Giáo nói đến! Nếu chẳng thể chỉ ra lời nói ban đầu do ai nói, chẳng thà không nêu ra [thì hơn]! Nói chung, hết thảy mọi sự được tiền nhân sáng lập, người đời sau kế thừa. Tuy càng về sau, càng tinh vi, càng mầu nhiệm, nhưng công hiệu vẫn chẳng thể vượt trỗi lúc ban đầu, bởi điều ấy do tiền nhân sáng lập. Huống chi các vị tiền nhân sáng lập, trước thuật trong Phật pháp phần nhiều là hạng Pháp Thân đại sĩ thừa nguyện tái lai. Người đời sau kế thừa, dẫu có đổ công sức làm cho pháp ấy tinh vi, nghiêm mật trỗi vượt tiền nhân, nhưng đại cương, yếu chỉ, những lời bàn luận sâu xa thâm nhập được lý, không có gì chẳng phải do tiền nhân đã tìm ra. Dẫu chưa nêu rõ ra thì [những gì người đời sau nêu ra] vẫn là suy luận dựa theo ngữ mạch của những lời tiền nhân đã nói. Vì thế, tuy những gì về sau này trỗi hơn những gì thuộc thuở ban đầu, quả thật vẫn kém hơn thuở ban đầu vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 28 Nguồn tâm sẵn có của chúng ta đều bị tình thức ngăn lấp nên chẳng thể hiển hiện được. Nếu có thể phản chiếu hồi quang, thấy ngay được tình thức huyễn vọng ấy thì nó sẽ còn khởi từ đâu được nữa? Như vậy thì trong chẳng do tâm, ngoài chẳng do cảnh, hai đằng đều bị cắt đứt, chính giữa cũng chẳng lập. Cái gọi là “tình thức” hóa thành trọn chẳng còn gì! Tình thức chướng lấp đã trừ thì nguồn tâm triệt để hiển lộ. Đấy chính là cảnh tượng đại triệt đại ngộ trong Tông môn vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 28 Kẻ mờ mịt Phật tánh, mù mờ Chân Như bèn bài xích người kiến đạo là chuyện thường thấy, cần gì phải hỏi tới xuất xứ? Dẫu có chỉ ra xuất xứ thì cũng chưa chắc người ấy đã là kẻ đầu tiên thốt ra lời ấy. Do vậy, chẳng thà không chỉ ra xuất xứ thì hơn! Bồ Đề Đạt Ma truyền y bát tại Trung Quốc nhằm thời Ngũ Đại, đến đời Lục Tổ chỉ truyền pháp ấn, chứ không truyền y bát. Hãy nên tra trong Lục Tổ Đàn Kinh sẽ biết được nhân duyên. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 28 Tam Muội Luật Sư (1580-1654), người huyện Quảng Lăng, năm 21 tuổi, xin xuất gia với pháp sư Tịnh Nguyên tại Di Đà Am trong làng, rồi thọ Cụ Túc Giới tại chùa Cam Lộ ở Nhuận Châu vào năm 29 tuổi, y chỉ Huệ Vân Luật Sư để chuyên tâm nghiên cứu Luật Tông, nghiêm trì tịnh giới, rất được ngài Huệ Vân coi trọng, thường sai thay mặt Huệ Vân diễn giảng. Sau đấy, Sư bế quan ba năm tại núi Cửu Tử. Sau khi xuất quan, Sư chủ trì pháp hội Long Hoa tại Ngũ Đài Sơn, cảm được Văn Thù Bồ Tát phóng quang, hiện thân cưỡi sư tử trên hư không. Năm 1639, khi ngồi thuyền trở về Thạch Tháp, đi ngang Long Đàm, thuận chân viếng thăm núi Bảo Hoa (huyện Cú Dung, tỉnh Giang Tô) thấy tổ đình điêu tàn, Sư liền phát tâm trùng tu chùa này. Năm sau, Sư chống tích trượng sang Bảo Hoa, sai học trò là Kiến Nguyệt làm Giám Viện, mỗi năm tổ chức truyền giới đàn hai lần. Ngày Hai Mươi Sáu tháng Sáu năm 1654, sau khi truyền giới xong tại giới đàn chùa Tam Tháp (Thiệu Hưng), Sư trở về Bảo Hoa, bảo học trò trong vòng từ ba đến bảy ngày nữa Sư sẽ vãng sanh. Ngày Mồng Một tháng Sáu nhuận, Sư giao phó chùa Bảo Hoa cho Kiến Nguyệt. Mồng Bốn tháng Sáu, Sư tự tắm rửa, ngồi xếp bằng trong nước, mỉm cười qua đời trong tiếng trợ niệm Phật hiệu của môn nhân. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 28, phần chú thích 154 Quang bẩm tánh ngu bướng, đã không hiểu biết, lại chẳng hiểu đời nên chẳng thể mềm mỏng thuận theo tình người. Vì thế, phát nguyện suốt đời làm một Tăng nhân ăn nhờ ở đậu mãi mãi, may được cư sĩ chẳng chê bỏ Quang là hạng không ra gì. Phàm nói ra điều nào dẫu cuồng ngạo, trái nghịch, cũng đều được cư sĩ khen ngợi, cảm thấy hổ thẹn đến cùng cực! Tục ngữ có câu: “Nhặng xanh bám vào đuôi ngựa Ký bèn đi được ngàn dặm”. Lòng Quang ngu thành, nhờ sức của các hạ mà khiến cho hết thảy những ai có tín tâm đều cùng sanh lòng kính nể kinh tượng, ngõ hầu diệt được tội khiên của tôi, tăng thêm phước huệ cho họ. Xét tới nguồn cội, đều là được thành tựu bởi các hạ vốn là một bậc thiện tâm vui đạo vậy. Hết sức cảm ơn! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 28 Câu chữ trong nhà THIỀN cần phải có con mắt khác để lãnh hội! Nếu chẳng khéo hiểu ý sẽ chưa khỏi “y văn giải nghĩa, tác tam thế Phật oan” (dựa theo văn tự để hiểu ý nghĩa khiến cho ba đời chư Phật phải bị oan uổng). Lỡ như trái nghịch giáo nghĩa, chỉ thành “ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết” (rời kinh một chữ, sẽ giống như lời ma nói). Dễ thì dễ như trở bàn tay, khó thì khó như lên trời. Nếu không phải là bậc Tông lẫn Giáo đều thông, hai mắt viên minh, cố nhiên chẳng nên khinh thường, dễ duôi theo đuổi việc chú giải kinh ấy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 27 Kinh ấy (tức Pháp Bảo Đàn Kinh) cũng có thể lợi người mà cũng có thể khiến cho người khác bị lầm lẫn! Nếu có thể đối với pháp nào, chuyện nào cũng đều nêu rõ tông chỉ “trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật”, lại chẳng trái nghịch giáo nghĩa thì dẫu có nói “Lục Tổ xuất thế” cũng không phải khen ngợi quá lố! Nếu không, đã chẳng làm cho người khác thấy được Tánh, lại còn đến nỗi do Tông mà trái Giáo thì lợi ích nơi Tông lẫn Giáo hai đằng đều bị mất, sẽ ứng với ý nghĩa trong câu nói thứ hai của Công Mỹ (tức câu “hễ lạc mất ý chỉ sẽ mau vào Nê Lê”), cố nhiên vẫn chẳng bằng để nguyên diện mục sẵn có của nó thì hay hơn! Các hạ có tâm lợi người tha thiết, Quang cũng ôm lòng tha thiết ngừa cho người khác khỏi bị sai lầm; vì thế chẳng thể không thưa trước để tận tấm lòng ngu thành khăng khăng trọn hết tình tri kỷ vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 27 Từ nay trở đi, hễ sao lục những chuyện xưa, chuyện nay, hãy đều nên chú trọng sao cho nhân quả báo ứng được nêu tỏ rạng rỡ thì sẽ có thể làm cho người thấy kẻ nghe không ai chẳng kinh sợ rét buốt tận suông, lông tóc dựng đứng, sanh lòng kiêng nể, sợ hãi. Đối với những lời bàn luận chung chung về chuyện có ma quỷ, hãy nên dành cho những tiểu thuyết gia thâu thập hòng tô vẽ, lưu truyền. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 26 Các hạ gạt bỏ lời ông Ngũ nói thì cũng là chuyện hay lắm. Phàm muốn đoạn nghi, khơi gợi lòng tin, chớ nên dùng những lời lẽ nửa tin, nửa ngờ, cũng như trích dẫn những lời lẽ giảng giải nghĩa lý nhưng chẳng nương theo Thật Lý. Bởi lẽ, những lời nói ấy có thể khơi gợi tín tâm cho người khác mà cũng có thể khơi gợi lòng nghi ngờ của kẻ khác vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 25 An Sĩ Toàn Thư được các hạ nhận lãnh làm sách tài liệu và lưu thông, Quang sẽ thay cho quốc dân đối trước Tam Bảo lễ tạ hằng ngày. Thoạt đầu, An Sĩ tiên sinh quyết định cách [trình bày bản in] cũng chưa tốt lành tột bậc, bởi lẽ những lời văn giáo huấn [của cổ nhân], cũng như những sự việc dùng để dẫn chứng, những lời bàn luận về cái tâm do ông ta viết ra v.v... đều in Đảnh Cách hết, cho nên không phân biệt được chủ và khách. Các hạ bảo đổi thành cỡ chữ Nhị Hiệu Tự quả là chí lý danh ngôn, nhưng sợ làm theo cách ấy sẽ khó thể điều chỉnh được, lỡ ra chẳng được như pháp! Quang tính trừ những đoạn văn ghi sự tích ra, những phần khác đều in thấp suông một chữ ngõ hầu chẳng bị lẫn lộn. Đối với bốn câu “Vu Công…” [tiên sinh An Sĩ không giải thích], trong năm ngoái khi vị Đô Đốc đất Điền (Vân Nam) phát tâm khắc ván [bộ An Sĩ Toàn Thư], Quang đã sao lại [hành trạng trong đời cuối cùng của] Đế Quân [tại nhân gian (tức Trương Á đời Tấn)] và những sự tích [được nhắc tới trong] bốn câu ấy đem gởi đi . Ông Đường tuy đã rút lui, nhưng sách đã khắc xong, chỉ là chưa gởi đến. Sẽ sao ra một bản khác, cho đính kèm vào sau phần mục lục trong đầu quyển sách và soạn một lời tựa ngắn để nêu rõ nguyên do, ngõ hầu chẳng phạm đến nguyên văn mà lại khiến cho dù văn hay nghĩa đều không bị thiếu sót gì! Chẳng biết các hạ nghĩ như thế nào? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 23 Trong mùa Xuân, các hạ đã ban tặng cuốn Phật Học Chỉ Nam, sai Quang châm chước, sửa chữa. Quang gắng vâng theo nhã ý, nhưng giữ đã lâu vẫn chưa duyệt cặn kẽ được. Ấy là vì cư sĩ Từ Úy Như có một người bạn sao được bản Thập Nhất Diện Thần Chú Kinh Sớ từ Đại Tạng Kinh Nhật Bản, do bản này được lưu truyền đã lâu, có nhiều chỗ sai ngoa. Vì năm ngoái ông ta đã dựa theo Đại Tạng Kinh Nhật Bản để khắc cuốn Tùy Tự Ý Tam Muội, đem gởi cho Quang. Quang đọc cặn kẽ, tâm cảm thấy không yên, liền làm càn sửa chữa rồi gởi đi. Ông ta hết sức tán thành, tính khắc in lại ngay; lại bảo Quang viết lời tựa trình bày rõ nguyên do. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 21 Bộ [Phật Học] Đại Từ Điển muôn vàn đừng dùng kiểu chữ làm hỏng con mắt này thì Ấn Quang được đội ơn nhiều lắm. Trong phương thức trình bày sách Giản Ma Biện Dị Lục giữa Nam Kinh và Dương Châu thì những chữ được in lớn hay nhỏ đều giống như nhau, nhưng trong ấy có những đoạn in hàng đôi, người già đọc sẽ cảm thấy tốn sức, Ấn Quang đều sửa thành hàng đơn để mong người đọc được lợi ích, không bị tổn hại. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 21 Ấn Quang sanh ra liền bị bệnh mắt, nay tiếc cho con mắt của người khác còn hơn chính mình, thường thấy những thiếu niên thông minh, mẫn tiệp đa số đều cận thị, hỏi tới thì họ nói do đọc sách chữ nhỏ mà ra. Trộm nghĩ những kẻ buôn bán tại các tiệm sách chỉ thích những sách hiếm lạ, phô phang chuyện dị thường để được lời to, chẳng cần biết sẽ có lợi hay gây hại cho người khác! Tối lòng, mờ lý, tận lực tìm cầu phương cách để thu lợi, hạng người ấy nào đáng để nói tới, chỉ đành mặc kệ họ làm gì thì làm! Quả thật Quang chẳng dám nghĩ các hạ và ông Tôn đã phát đại Bồ Tát tâm mà cũng bắt chước phương thức của bọn chúng! Hơn nữa, là bạn tâm giao với nhau đã lâu, vì thế chẳng thể không giãi bày tấm lòng ngu thành để mong sao nhục nhãn lẫn pháp nhãn của hết thảy những người cùng hàng đều cùng sáng ngời, các hạ và ông Tôn sẽ đạt được quả báo ngũ nhãn viên minh, vĩnh viễn dứt được nỗi lo âu mắt quáng! Nếu tái bản sách này, hãy nên sửa đổi phương thức trình bày! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 21 Hôm qua nhận được một bộ Phật Học Tiểu Từ Điển do ông ban tặng. Đọc rồi khôn ngăn cảm kích (chẳng qua là lật xem qua mà thôi, chứ ngay cả một trang cũng không xem trọn). Cư sĩ Tôn Kế Chi phát đại tâm hướng dẫn làm lợi kẻ sơ cơ như thế ấy công đức vô lượng, nhưng cỡ chữ quá nhỏ, đọc lâu ắt sẽ hư mắt. Đối với người nghiên cứu Phật học đã lâu thì xem sách này hay không đều được! Tôi trộm sợ người chỉ có tín tâm, chưa từng nhập môn, trông thấy sách này sẽ dựa vào đấy như ngôi thành quan trọng, như hòn Thái Sơn, sẽ dẫn đến tình thế “nếu mắt chẳng bị tổn thương thì chẳng chịu tạm buông sách ra”. Các hạ và ông Tôn đều cùng sẵn lòng lợi người nhưng do đấy làm hỏng con mắt của người khác thì tuy kết pháp duyên mà cũng gây nên cái họa mắt bị tật trong đời vị lai. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 21 Nhận được thư và bản thảo [Phật Học] Đại Từ Điển, khôn ngăn vui mừng, an ủi. Các hạ soạn ra cuốn sách ấy khiến cho những người nghiên cứu Phật học nhập môn dễ dàng, thật giống như người chỉ cho kẻ lạc lối đi đúng đường, công đức ấy làm sao cân lường được? Nhưng cần phải khảo sát tỉ mỉ, xin đừng đem sai ngoa lan truyền sai ngoa!.. Các hạ chí mong lợi người, muốn dùng một bộ sách để chú thích trọn khắp các kinh thì hãy nên dốc sức khảo sát nghiên cứu hai ba năm, ngõ hầu người đọc đoạn sạch mọi mối nghi thì công đức lớn lắm. Nếu chỉ muốn ra sách cho nhanh, chắc chắn khó thể không sai lầm! Đối với bậc thông gia thì không trở ngại gì, nhưng kẻ sơ cơ chắc sẽ không biết nguyên do. Quang túc nghiệp sâu nặng, chẳng thể dốc chút sức mọn cho các hạ được, nhưng trọn một niềm ngu thành. Chỉ vì sợ lỡ ra người trong cả cõi đời chẳng được hưởng lợi ích cho nên mới ăn nói phiền phức, lụn vụn như thế. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 19 Công đức bậc nhất của nữ giới chính là hiếu thảo với bố mẹ chồng, giúp chồng dạy con. Đã là đệ tử Phật mà chẳng biết hiếu thảo với cha mẹ, giúp chồng dạy con thì chưa tròn hết bổn phận trách nhiệm của chính mình, chắc người khác sẽ do vậy liền chỉ trích những sai trái, chẳng thể nào khiến cho người ta nhìn theo bắt chước làm lành được! Nếu có thể dốc sức trọn hết bổn phận của chính mình, lại còn tu trì Tịnh nghiệp thì kẻ thấy người nghe khắp xa gần sẽ đều sanh lòng ngưỡng mộ. Đấy chính là “dùng lời lẽ để dạy sẽ bị tranh cãi, dùng thân để dạy, người khác thuận theo”. Thất phu thất phụ nếu tốt lành thì cũng có thể thay đổi phong tục; nếu chẳng lành cũng sẽ khiến cho phong tục thay đổi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 18 Nếu có thể lắng lòng đọc Văn Sao, rồi lại xem Tịnh Độ Tam Kinh, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục v.v… thì sẽ tự biết được cương yếu của đạo “tự lợi, lợi người”. Lại còn khẩn thiết, chí thành, ra rả nói cùng với gia quyến, xóm giềng, thân thích, bè bạn. Dùng công đức ấy để hồi hướng vãng sanh ắt sẽ cao đăng Thượng Phẩm. Do đấy, cha ông sẽ được lợi ích thật sự bởi thiện căn nhiều đời. Đạo thờ cha mẹ của ông đã đạt được lớn lao. Vẫn mong ông khuyên dụ nhiều cách để cụ tăng trưởng tín tâm thì sẽ có lợi ích lớn lao. Xin hãy thấu hiểu rõ ràng thì may mắn lắm thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 18 Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, nếu không có ai đề suông thì thiện căn không cách gì phát hiện được! Như hạt giống gieo suông đất, chẳng có mưa đúng thời sẽ không cách nào nẩy mầm, tăng trưởng được! Cha ông đã có thiện căn từ đời trước, cho nên vừa được thúc đẩy liền chuyển biến, những chấp trước lầm lạc trước kia bèn tiêu diệt ngay, ắt có hy vọng được vãng sanh trong tương lai! Nay đặt pháp danh cho cụ là Đức Hòa, bởi Tiếp (燮) chính là Hòa vậy. Nếu chẳng biết tự tâm sẵn có Minh Đức thì chẳng thể trên hòa với hoằng thệ đại nguyện của chư Phật hòng quyết chí ức niệm cho đến khi tâm và Phật tương ứng, như nước hòa lẫn vào sữa; mà cũng chẳng thể dưới là phát khởi cho những người cùng hàng tin tưởng sâu xa, nguyện thiết tha rồi nhất tâm trì A Di Đà Phật vạn đức hồng danh để mong thoát khỏi cõi Sa Bà này lên được cõi sen kia ngay trong đời này, như mẹ với con hòa hợp, vĩnh viễn không chống trái. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 18 Câu đối của Liên Trì Đại Sư là.. Để 2 bên hình của Ngài Liên Trì là hay nhất (Đức Từ Tôn chủ cõi Cực Lạc, bốn mươi tám đại nguyện, thọ mạng, quang minh không hạn lượng, chẳng rời nơi đây; Cõi Tịnh Độ vượt khỏi Sa Bà vạn triệu cõi nước Phật, lầu, đài, ao chuôm tuyệt trang nghiêm, đích thị quê mình) Phía dưới thì Má Ba để câu của Văn Sao: Đôi câu đối ở Niệm Phật Đường của Liên Trì đại sư đã soạn vào thời Minh hay tuyệt, trọn chưa từng thấy ai dùng đến. Quang nhiều lượt sao lại bảo người khác treo, do đức của đại sư sẽ cảm được người rất sâu. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 17 Lời duyên khởi do các ông đã soạn chưa thể làm cho người ta cảm ân đức của Phật, Quang soạn riêng một bài khác, lời văn khá rườm rà, sử dụng được hay không tùy các ông. Quang chẳng ép ai! Nếu sử dụng thì hãy nên làm một tấm bảng bằng gỗ, thỉnh người viết chữ đẹp, dùng lối chữ cung kính, mực thước viết trên hai tờ giấy Tuyên rộng tám thước, hoặc dán, hoặc khắc [bài duyên khởi ấy] trên tấm bảng gỗ, chắc sẽ tồn tại lâu dài. Hoặc [chia tấm bảng đã khắc hay dán bài duyên khởi ấy] làm bốn miếng hay sáu miếng (tính luôn cả bài viết “Trình bày những điều ẩn kín của Văn Trung Công” chắc sẽ chia thành tám miếng) để ngừa khi thời cuộc không tốt, sẽ đem cất. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 17 Cửa ải lâm chung khẩn yếu cùng cực. Dẫu cho lúc thường ngày công phu đắc lực, nếu gặp phải cảnh con cháu phá hoại [chánh niệm] do chẳng biết pháp môn thì sẽ phải ở lại trong thế giới này, chẳng thể vãng sanh! Nếu biết nghĩa này, con cháu trợ niệm Phật hiệu nhằm thành tựu chánh niệm, tuy công phu thường ngày của người sắp mất ấy chẳng thích đáng cho lắm cũng vẫn được vãng sanh. Do vậy, đối với người già, Quang đặc biệt chú ý, đừng cho là viễn vông, hủ bại thì may mắn lắm thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 16 Hãy nên đọc mấy chương dạy về đại sự sanh tử trong Gia Ngôn Lục sẽ tự biết rõ. Nếu trong lúc này chẳng nỗ lực, chỉ mong an nhàn thảnh thơi thì ngàn đời vạn kiếp trọn chẳng có ngày nào thoát khổ được đâu! Nếu như tâm lực suy nhược, hãy nên bảo con trai, con dâu, cháu gái v.v… luân phiên trợ niệm. Chuyện này có rất nhiều điều lợi ích: 1) Một là phụ trợ cho chánh niệm của chính mình. 2) Hai là khéo léo gieo thiện căn tối thắng cho bọn họ. 3) Ba là mở mang phong thái nhằm mong mọi người bắt chước làm theo. 4) Bốn là nếu đến lúc lâm chung [thân quyến] sẽ tự chẳng đến nỗi bày vẽ hay hoảng loạn quá mức, phá hoại chánh niệm [của người sắp mất]. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 16 Con người sống đến bảy mươi tuổi xưa nay đã hiếm, huống chi ông đã tám mươi hai rồi! Nếu đã chứng được bất sanh bất diệt thì cố nhiên chẳng cần tới Quang phải dông dài một phen. Nếu chưa đạt được, cố nhiên phải như chôn cất cha mẹ, như cứu đầu cháy để sanh lòng tin chân thật, phát nguyện thiết tha, trì A Di Đà Phật vạn đức hồng danh để cầu sanh Tây Phương. Hiện nay, cõi đời đã loạn đến cùng cực, đúng là thời buổi đại loạn phá toang đất trời kể từ thuở có trời đất đến nay. Huống hồ đang lúc già suy, sáng chẳng bảo đảm được tối, há có nên giống như bọn thiếu niên vô tri, cứ chần chừ để ngày tháng trôi qua đến nỗi sống uổng chết phí, tuy gặp Phật pháp mà vẫn không có cách nào hưởng được lợi ích lớn lao ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 15 Ông Lý dựa theo lời người khác bảo “[đốt kinh] có công đức” nên mở đầu thư tôi liền bắt đầu bằng chuyện “có công đức” để nói đến tội lỗi, chớ nên hiểu lầm, tưởng Quang tán thành “đốt kinh có công đức”! Pháp môn bước vào buổi chiều tà, sai ngoa quá nhiều! Nếu thường tranh luận với người khác, sợ sẽ đến nỗi bị kẻ khác nhao nhao công kích, đâm ra chẳng có ích gì cho người ta, lại có hại cho pháp, cho mình vậy! Qua mấy chuyện này thì đã đủ biết rồi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 15 Vương Đại bán hương Ấn Độ, bốn mặt hộp đựng hương in tổng cộng hình của năm mươi mấy vị Phật. Quang chẳng bằng lòng người ta bán loại hương đó, đã nói rõ lẽ lợi - hại với người quản lý tiệm hương ấy, hai lượt gởi thư bảo đảm, mong họ ắt sẽ trả lời, nhưng rốt cuộc họ không trả lời! Chúng ta không có quyền, làm gì được họ? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 15 Cuốn Tây Phương Công Cứ được lưu hành trong cõi đời, phía trước có khắc hình Pháp Hội, phía sau khắc A Di Đà Kinh, Vãng Sanh Chú. Cuối cùng khắc cửu phẩm liên đài, trên mỗi đài sen là một đức Phật ngồi, chung quanh khắc những chấm tròn để người ta chấm vào. Hễ chấm kín hết [các vòng tròn đó] sẽ đem kinh ấy thiêu đi. Một người bạn tôi (tức hòa thượng Chân Đạt) muốn sửa chữa lại để ấn hành rộng rãi. Quang nói: “[Người niệm Phật] chấm xong ắt sẽ thiêu sách, cả kinh lẫn hình Phật đều bị thiêu theo. Do sách đã bị chấm đen đúa lem luốc thì cũng chẳng thọ trì được nữa”. Do vậy bèn bàn định biện pháp, chẳng khắc kinh, tượng, chỉ vẽ hình chín phẩm đài sen và những chấm tròn xung quanh để [người niệm Phật chấm vào] hòng nhớ số. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 15 Quang già rồi, chẳng thể nói tường tận với ông được. Nay lại gởi cho ông hai gói sách, ông hãy lắng lòng đọc sẽ có thể biết rõ tông chỉ Tịnh Độ. Nếu chẳng thể sanh lòng tin nơi các sách ấy, lại cầu minh tâm kiến tánh, cầu thành Phật trong thân hiện tại, Quang cũng chẳng trách ông. Chỉ sợ ông từ trần sa kiếp này sang trần sa kiếp khác vẫn luân hồi trong lục đạo. Nhưng muốn liễu sanh tử, ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành để làm người hiền, người thiện trong thế gian. Nếu luân thường khiếm khuyết, tam nghiệp lắm lầm lỗi, muốn khi lâm chung được Phật tiếp dẫn thì do khí phận trái nghịch với Phật, làm sao có cảm để ứng đây? Phàm gặp kẻ hữu duyên, hãy đều nên bảo với họ điều này! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 14 Muốn sanh về Tịnh Độ, trước hết phải hiểu rõ ràng tông chỉ. Tu trì theo đường lối thông thường thì không pháp nào chẳng lấy khai ngộ làm điều mong mỏi; nhưng chuyện khai ngộ cũng chẳng phải là dễ dàng! Nếu biết tông chỉ của Tịnh Độ, quyết chẳng mong đợi khai ngộ. Nếu chẳng chú trọng tín nguyện, dẫu khai ngộ cũng khó liễu thoát được! Nếu có thể nhất tâm niệm Phật thì chẳng ngộ vẫn được vãng sanh. Trong thư ông viết: “Tuy đã sẵn lòng chán nhàm cõi uế, nhưng chưa hiểu tự tánh như thế nào?” tức là ông dốc chí nơi khai ngộ. Khai ngộ mà có tín nguyện thì chính là Thiền Tịnh Song Tu, là cao thượng nhất; nhưng trong cõi đời rất ít ai thật sự khai ngộ! Thế nào gọi là thật sự khai ngộ? Đấy chính nói về minh tâm kiến tánh, tức là trong tự tâm thấu hiểu triệt để, chứ không phải chỉ biết nói mà thôi! Nếu chỉ biết nói thì chẳng thể gọi là khai ngộ được! Chớ nên hiểu lầm! Thật sự đạt đến địa vị minh tâm kiến tánh, cũng vẫn phải tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương! Người đời cứ hễ cầu khai ngộ đều chẳng chú trọng tín nguyện cầu sanh, cứ muốn nương vào cái ngộ ít ỏi, loáng thoáng ấy để liễu sanh tử thì chính là tự lầm, lầm người. Cố nhiên, chẳng bằng kẻ chất phác niệm Phật sẽ ổn thỏa, thích đáng hơn! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 14 Nếu chịu phát tâm vì khắp mọi đứa con của trời đất mà hành cứu tế, cố nhiên sẽ chẳng có những chuyện gia đình bất hạnh, chôn con, chết cháu, con cháu bại hoại thanh danh gia đình khiến tổ phụ phải ngậm hờn nơi chín suối! Nếu chịu phát tâm, hãy giao trực tiếp cho Đạo Doãn Hoàng Hàm Chi ở dinh thự quan Đạo Doãn Ninh Ba thâu nhận. Cố nhiên Quang trọn chẳng nhúng tay vào. Quang nghèo không tấc đất cắm dùi. Trong năm trước đã hai lần đem món tiền in Văn Sao là năm trăm đồng để cứu đói; năm ngoái cũng quyên tặng mấy chỗ một trăm đồng. Mùa Hạ năm nay lại đem khoản tiền một trăm đồng do bạn bè tặng để in Văn Sao gởi cho Hoàng Đạo Doãn nhằm cứu trợ tai nạn. Dùng tiền của người khác để giãi bày tấm lòng của tôi mà thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 11 Con người hiện thời phần nhiều mượn chuyện công để lo chuyện tư, vì thế người ta khó tin tưởng được! Nếu luận về tư cách làm người của ông Hoàng Hàm Chi thì có thể nói là trong số các trưởng quan [hiện thời] không có được đôi ba người như ông ta! Ở Ninh Ba, mỗi năm ông ta thí thuốc hơn hai vạn đồng, huống là thí tặng thiện thư và làm đủ thứ chuyện tốt lành ư? Ông ta làm quan chỉ đem tiền của trong nhà bù đắp [cho chuyện công ích], chứ không phải là phường bóc lột dân chúng, gây hại cho nước nhà nhằm vinh thân phì gia! Ông Trương Thụy Tằng là bạn thí tặng thiện thư của ông ta. Thụy Tằng lập một cơ sở cho kẻ bình dân vay tiền tại Dương Châu (không cần trả tiền lời, chỉ cần trả đủ vốn), gởi thư xin Hàm Chi thành lập [một cơ sở giống như vậy] tại Ninh Ba. Hàm Chi liền thành lập ngay. [Nhờ vậy], phàm những người buôn bán nhỏ không có tiền vốn đều không phải lo nghĩ nữa. Chỉ qua một chuyện này đã biết được đại khái. Trong số những người bản thân các hạ quen biết có rất nhiều nhà giàu có. Như các ông Trương, Hoàng v.v… sanh trưởng trong nhà phú quý, cố nhiên chẳng biết đến nỗi khổ vì bần cùng [mà vẫn làm những chuyện cứu tế rộng rãi]. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 11 Đạo Doãn Hoàng Hàm Chi tên là Khánh Lan, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, ăn chay trường, niệm Phật. Năm trước, Đài Châu bị tai nạn, ông ta đã quyên mộ cứu chẩn rộng rãi. Năm nay tai nạn càng nghiêm trọng hơn, do quyên mộ khó khăn, dân chúng bị tai nạn thật đáng thương, [ông Hoàng] tính muốn đốt ngón tay để lo cứu trợ, chắc sẽ cảm động được lòng người. Cứu được một người, công đức vô lượng, huống là nhiều người ư? Nay ông ta bảo Quang đứng ra quyên mộ thay, Quang tự thẹn đức bạc, ai chịu nghe lời mình nói? Nhân nỗi lo buồn của lệnh thích khiến Quang động lòng trắc ẩn, [Quang cho rằng] nếu ông ta xót thương con cháu bị chết yểu giữa độ tuổi trung niên, hãy vì họ mà lo liệu chuyện cứu tế [dân chúng đang bị tai nạn] nhằm cầu siêu cho linh hồn họ, vun bồi phước đức cho chính mình, tạo duyên chiêu cảm con lan cháu quế, hoặc cầu siêu cho cha mẹ, tổ tông, họ hàng, hoặc cầu cửa nhà bình yên. Chỉ cần xuất phát từ lòng Thành thì trọn không một ai chẳng được phước báo. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 11 Xưa kia, Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) coi người khác như chính mình, coi kẻ sơ hệt như người thân, coi thiên hạ là một nhà, coi cả Trung Quốc như một người. Vì thế, từ đầu đời Tống cho đến cuối đời Thanh, trọn một ngàn năm, con cháu đỗ đạt chẳng dứt. Họ Bành ở Trường Châu tận lực làm lành, từ đầu đời Thanh đến nay, đỗ đạt đứng đầu thiên hạ; nhà ấy có bốn năm vị Trạng Nguyên, anh em ruột thịt cùng đỗ Tam Đỉnh Giáp. Do họ đời đời thờ Phật, phụng hành Âm Chất Văn, Cảm Ứng Thiên, sẵn chí muốn tạo lợi lạc cho người khác lâu dài nên trời ban cho sự báo ứng sâu dầy lâu dài. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 11 Lệnh thích chôn con, chết cháu, ước theo mặt tình cảm con người thì cũng chẳng thể nào không cảm động, nhưng bi thương đến nỗi gần như điên cuồng tức là chỉ biết có con có cháu, chẳng màng tới cái thân! Sao lại mê chấp đến mức như thế ấy?... Nếu lệnh thích là người thông hiểu, sẽ tự thẹn đức bạc cho nên gặp phải quả báo ấy. Từ đấy, nỗ lực tích đức để mong trời thương xót ta thì con quế cháu lan sẽ tiếp nối nhau sanh ra. Hiện thời thế đạo nhân tâm chìm đắm tới tột cùng! Thiên tai nhân họa cũng lắm phen đến mức tột cùng. Nếu lưu truyền những thiện thư có ích cho thế đạo nhân tâm để mong [ai nấy] cùng lên bờ giác, hoặc cứu vớt những người dân cùng quẫn đang mắc nạn lũ lụt, bão tố, để mong họ được sống sót trong cảnh chết chóc; so với để lại tài sản cho con cháu ăn nhậu, chơi bời, cờ bạc, khiến cho kẻ khác thóa mạ, thì sao bằng chính mình làm chuyện cứu người, cứu đời để vun bồi phước cho chính mình trong đời sau ngõ hầu con cháu sẽ được thọ dụng tới trăm ngàn đời ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 11 Nhận được thư, biết ông và người trong đất Tần đều nằm mộng. [Đang nhằm lúc] dân đất Tần không còn lẽ sống mà cứ muốn mở đạo tràng, hoằng dương pháp hóa, thỉnh pháp sư Đế Nhàn [sang đấy hoằng pháp], há Sư chịu được sự gian nan ấy hay chăng? Sao lại nói chẳng thể không khẩn khoản thỉnh cầu, dùng cách vòng vo ấy để làm gì? Vị sư X… (người này quyết chớ nên thỉnh) chỉ biết ăn nói lớn lối, trọn chẳng chân thật hành trì. Thỉnh loại pháp sư ấy đến hoằng pháp là muốn cho người khác học theo khuôn sáo ăn nói lớn lốiNếu bảo Quang chỉ cho ông người nào [đáng thỉnh] thì Quang thường ở trên biển cả, trọn không một ai qua lại với Quang, biết ai là người phát Bồ Đề tâm muốn lợi khắp hết thảy mọi người đây? Chuyện này quả thật là chuyện khó nhất trong những chuyện khó! Nếu cầu những Tăng sĩ chỉ biết ăn cơm, mặc áo thì quả thật là có, nhưng bọn họ vẫn chẳng muốn lên phương Bắc là nơi rét buốt để ăn cơm, mặc áo, huống hồ hoằng pháp lợi sanh ư? Hãy làm thế nào để chỉnh đốn Tăng sĩ cũng như Nho sĩ ở đất Tần khiến cho ai nấy đều y theo đạo của thánh nhân Nho - Thích mà hành. Than thở sườn sượt khôn xiết vậy thay! Sổ quyên góp và thư ngỏ đã gởi trả lại trong ngày hôm qua rồi. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 9, hay là muốn cho họ chân thật hành trì? Trước kia, Quang đã từng nói với ông, chắc là ông cho rằng tôi chèn ép bậc hiền triết chứ gì? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 9 Đối với thời cuộc hiện nay, sợ rằng sẽ còn biến động lớn lao! Hãy nên bảo gia quyến và hết thảy những kẻ hữu duyên kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay niệm Phật và niệm Quán Thế Âm ngõ hầu gặp dữ hóa lành, gặp nạn thành hên. Nếu không, hễ đao binh xảy tới thì nỗi thảm thương sẽ chẳng nỡ nào nói được đâu! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 7 Quang vốn là tăng nhân, sao lại hỏi đến chuyện giáo dục của người khác? Chỉ vì ông và tôi có duyên, chẳng thể không trọn hết lòng lo tính một phen. Chỉ nên giảng nói với chúng về đạo hành hiếu, hành đễ. Chứ nếu muốn cho chúng diễn tuồng thì khoan hãy nói đến tệ đoan, chỉ riêng chuyện uổng phí thời gian công sức đã kể sao cho xiết? Sĩ tử chuyên tập luyện cử nghiệp mà còn chưa thể chuyển hóa được khí chất [thành người tốt đẹp] nữa là! Mượn dịp vui chơi bèn dạy cho con đóng tuồng với ý định [nhờ vào tuồng tích để] chuyển hóa khí chất [của con cái] thì sợ rằng sẽ chuyển thành xấu thì nhiều, chứ ít có đứa nào sẽ chuyển biến thành tốt đẹp! Đừng mượn lời thánh nhân giảng về sự giải trí để khơi ra đầu mối khinh bạc cho con em. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 7 Hùng Đại Minh có một đứa con hết sức có thiện căn (chưa đầy nửa tuổi đã biết lôi kéo bà nội và cha mẹ, ép họ lễ Phật. Nếu họ thuận theo thì nó sẽ vui vẻ). Do tham dự cuộc Bắc Chiến và chiến trận Hồ Hám, đứa con ấy liền chết; ông ta gần như cuồng si, gởi thư kêu khổ. Quang bèn chỉ thẳng [nguyên nhân] là do bị trời phạt; nếu chẳng sửa đổi hành vi, hình phạt ấy đâu phải chỉ có như thế! Các ông đã tín phụng Phật pháp, hãy nên lấy tâm Phật làm tâm [của chính mình] thì sẽ hữu ích. Nếu [cứ hành xử] giống như Đại Minh và Hy Chân thì đáng gọi là “uổng làm đệ tử Phật” vậy! Mắt Quang không tốt, chứ không phải là thường sanh bệnh. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 6 Cái chết của Hy Chân là do bị trời phạt, ông ta nhận được một lá thư “tiến bộ” liền muốn giết sạch hết thảy những người thuộc giới chánh khách. Do vậy, chưa đến được kinh đô liền ngã bệnh, tới kinh đô chết liền. Nếu người ấy không chết, ắt sẽ đến nỗi đại loạn! Trời già có mắt, khiến cho ông ta bị chết trước để ông ta chẳng đến nỗi bỗng dưng gây nhiễu loạn được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 6 Hiện thời thiên hạ rối beng, đất Thiểm càng rối ren quá mức. Há nên đang vô sự lại manh nha tâm niệm du hành? Há chẳng phải là đang ở trong yên ổn lại tìm kiếm nỗi nguy hiểm ư? Ngàn muôn phần chớ nên đi ra ngoài! Dẫu muốn cùng mọi người đi du lịch ngắm cảnh, cũng nên đợi tới lúc thái bình không có chiến tranh thì mới nên. Ở nhà tuy phiền, nhưng chẳng đến nỗi phải có chuyện lo nghĩ chi khác. Đang trong thời loạn này, dẫu đi ra ngoài thân chẳng gặp phải họa ương thì vẫn phải suốt ngày lo nghĩ cho gia quyến, há chẳng nên giữ cho cõi lòng thanh tịnh, không phải bận tâm chuyện gì ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 6 Chương trình của hội niệm Phật rất hay, nhưng đối với phụ nữ đang độ tuổi thanh xuân hãy nên bảo họ ở yên trong nhà niệm Phật, đừng đến dự hội. Bởi lẽ, hiện thời lòng người quá bại hoại, lại còn có binh sĩ [trấn đóng khắp nơi], sợ giữa đường gặp chuyện chẳng đúng pháp thì người ấy lẫn hội niệm Phật đều mất thể diện. Đấy chính là ý nghĩa trọng yếu để né hiềm lánh họa. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 6 Quang đọc qua thư ông, bỏ trong ngăn kéo của bàn viết, nay muốn phúc đáp, tìm khắp nơi không thấy. Do vậy nghĩ đấy là do Bồ Tát thị hiện cho ông một dấu hiệu để ông nhất tâm niệm Phật, niệm Bồ Tát hòng ngừa họa giữ thân. Nếu ông chí thành, cường đạo thấy ông mà như không thấy, hoặc thấy những đồ đạc của ông là thứ chúng chẳng cần, chẳng đến nỗi gây tổn thương cho ông. Hiện thời bất luận là ai, đều phải niệm A Di Đà Phật và niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để làm quả núi nương tựa. Chỉ nhất tâm thường niệm, chẳng cần phải sợ hãi! Xin hãy sáng suốt suy xét! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 5 Năm Dân Quốc 19 (1930), ông Quách Chấn Thanh, chủ tiệm giấy Hợp Pháp ở đường Cảnh Đức, Tô Châu, theo một người già trong nhà ông ta đến quy y. Quang bảo ông ta: “Hiện thời là tình thế hoạn nạn, hãy nên chí thành niệm Phật và niệm thánh hiệu Quán Âm, sẽ liền có thể gặp dữ hóa lành, gặp nạn mà được hên”. Tháng Chạp năm sau, ông ta qua Thượng Hải. Chiến sự nổ ra ở Thượng Hải, chẳng thể không trở về đất Tô được. Đến mùa Xuân năm Dân Quốc 21 (1932) vẫn còn chiến tranh, chẳng thể quay về được. Do đường xe lửa bị cắt đứt, Chấn Thanh liền ngồi tàu thủy nhỏ đi vòng theo ngã Gia Hưng trở về Tô Châu. Nhưng thuyền bè qua lại thường bị cường đạo cướp bóc; Chấn Thanh sợ bị cướp, trong tâm thầm niệm thánh hiệu Quán Âm. Không lâu sau, cường đạo kéo đến, cả thuyền đều bị cướp sạch sành sanh. Chấn Thanh là một kẻ mập mạp, mặc một cái áo da, nhưng ở giữa bao người, bọn cường đạo trọn chẳng thèm hỏi tới ông ta! Đủ biết niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát quyết định được Bồ Tát gia bị, chẳng đến nỗi gặp tai họa ngoài ý muốn. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 5 Ngày hôm qua, thầy Đương Gia đưa thư của ông cho Quang. Quang đọc thư, biết tuy cường đạo đến cướp đồ đạc của ông mà ông chẳng bị mất một vật nào, còn bà cụ ở phòng đối diện bị cướp mất một cái rương và các thứ quần áo. Đấy chính là chứng cớ rõ ràng Tam Bảo gia hộ [cho ông]. Chỉ nên gắng sức niệm Phật và niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, há nên lầm lạc sanh lòng sợ hãi, muốn dời đi chỗ khác! Ông xem có chỗ nào là nơi yên vui đâu? May mắn là chỗ ấy nghèo nàn nên vẫn còn chưa gặp họa lớn. Nếu ở nơi am giàu có, sợ sẽ càng nguy hiểm hơn! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 5 Chưa thọ giới, chớ nên đắp mạn y năm điều hoại sắc. Y năm điều ấy không chia thành khối (Y năm điều, mỗi một điều cắt ra thành một miếng dài một miếng ngắn, [mỗi một miếng nhỏ ấy gọi là một khối]), cũng không phải là hải thanh; hải thanh là áo dài rộng tay. Ngày nay trong pháp môn không có người nên [ai nấy] mặc sức làm càn. Vì thế, người thọ Ngũ Giới đều đắp y Ngũ Điều, trái nghịch cấm chế của đức Phật, nhưng Tăng lẫn tục đều bình chân như vại, cũng đáng cảm khái lắm thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 4 [Ngụy thuyết] “Khởi Tín Luận là ngụy tạo” không phải do Lương Nhậm Công (Lương Khải Siêu) đề suông, mà là do Nhậm Công lấy ma thuyết của Âu Dương Cánh Vô làm căn cứ, coi đó như luận thuyết quyết định nhằm phô phang “ta là kẻ học rộng có thể phân định chân, ngụy!” Âu Dương Cánh Vô là hạng ma chủng đại ngã mạn, mượn cái danh hoằng pháp để cầu danh, cầu lợi. Ông ta cho Lăng Nghiêm, Khởi Tín Luận là ngụy tạo, chính là vì muốn mê hoặc hàng sĩ đại phu vô tri vô thức nhằm mong họ sẽ sùng phụng mình như một vị đại pháp vương! Ông ta mượn cái danh thông suốt Tướng Tông (Duy Thức) để ngạo mạn cổ kim. Phàm những gì các vị cổ đức tông Thiên Thai, Hiền Thủ đã nói chẳng hợp với ma kiến của ông ta đều bài xích là “thả rắm”, nhưng những kẻ thông minh do thấy ông ta thông hiểu Tướng Tông liền đua nhau sùng phụng là bậc thiện tri thức! Tướng Tông lấy Nhị Vô Ngã làm chủ yếu, ông ta chỉ hoại một thứ là Ngã Kiến, chứ trọn chẳng có khí phận Vô Ngã của Tướng Tông. Kẻ ma mị mà ai nấy vẫn tin, đáng buồn thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 4 Túc nghiệp của mọi người đã cảm thành ác quả ấy. Ông có thể ở chùa Hộ Quốc tụng kinh lễ sám quả thật là may mắn lớn. Lúc này, trừ niệm Phật và niệm Quán Âm cầu gia bị ra, không có cách tốt đẹp nào khác! Đừng vọng tưởng đạt được chuyện tốt lành. Nếu có thể chí thành khẩn thiết tụng kinh lễ sám thì chính mình cũng đạt được lợi ích không chi lớn bằng. Nếu chỉ mong cho xong chuyện mà muốn được Phật, Bồ Tát gia bị sẽ khó như lên trời! Trừ chí thành niệm Phật, niệm Quán Âm và chí thành khẩn thiết tụng kinh, lễ sám ra, không có phương pháp thứ hai nào cả! Xin hãy sáng suốt soi xét! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 3 Cái chuông như thầy đã nói, lớn - nhỏ có thích hợp hay chăng? Nếu thích nghi thì hãy nên bảo những người trong nhóm mua. Nếu giá chuông hãy còn, chưa bị mục nát thì cũng nên mua luôn để khỏi phải làm cái khác. Cũng nên gõ thử chuông ngay để coi xem tiếng chuông [có vừa ý hay không]. Trống lớn nếu có người phát tâm [cúng dường] là được rồi. Nếu không, hãy bảo họ quyên mộ để đặt làm, nhưng hãy nên làm sao cho thích hợp, đừng nên làm quá to. Hãy nên cho họ biết kích thước đại lược để họ tiện quyết định đặt làm. Chi phí thỉnh chuông trống đều phải do chính người [phát tâm] ấy bỏ tiền ra, chẳng cần Pháp Vân Tự phải bù tiền thêm. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 2 [Chuyện vận động quyên mộ đóng góp cho] Viện Mồ Côi hãy cứ tùy duyên lo liệu. Được nhiều thì tốt, ít cũng không sao. Dẫu chẳng thể giúp đỡ, chỉ gởi suông sổ quyên mộ trở lại cũng không sao cả! Đối với hết thảy mọi chuyện, Quang đều tùy duyên, trọn chẳng vì nhiều - ít, có - không mà khởi lên tâm phân biệt, suy tính. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 10: Vấn đáp, thư 1 Giữ vẹn luân thường, Trọn hết bổn phận, Ngăn dứt lòng tà, Gìn giữ lòng thành, Đừng làm các ác, Vâng làm các thiện, Kiêng giết, cứu mạng, Ăn chay niệm Phật, Hồi hướng vãng sanh Thế giới Cực Lạc, Dùng để tự hành, Lại còn dạy người, Ấy gọi Phật tử. Hành giả hãy nên Làm như thế ấy Công đức vô lượng. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 11 Nghi tiết đơn giản mới hay!.. Nên châm chước để lượng định… Mọp lạy một lúc lâu sẽ có thể bị tổn khí, chớ nên không biết!... “Quán Âm Đại Sĩ, tất hiệu Viên Thông, thập nhị đại nguyện thệ hoằng thâm”...Mười hai đại nguyện không có xuất xứ, đổi thành “từ bi thệ nguyện tối hoằng thâm” (từ bi thệ nguyện rộng sâu nhất) cũng được!... Làm sao chỉ ra hết mọi chuyện [cần chú ý trong lúc bế quan] cho được? Chỉ chí thành cung kính, đừng gấp rút, bộp chộp mong cầu linh ứng. Chỉ giữ lòng sao cho tương ứng với thánh hiệu, chẳng cầu cảm thông thì sẽ tự được cảm thông. Nếu không, sẽ có thể bị ma dựa!... Giấc mộng ấy [bay lên trần nhà niệm Phật, nhưng bị xà nhà và mái ngói ngăn trở] thuộc về cảnh giới tốt đẹp, nhưng vẫn chưa đạt đến mức nghiệp lực tiêu trừ lớn lao. Vì thế vẫn còn bị ngăn ngại. Thấy tượng sợ hãi cũng chẳng sao cả; nhưng chớ nên ghim mãi chuyện này trong lòng… Cảnh được thấy trong mộng [chia sẻ với đồng đạo để tăng tín tâm] không quan hệ lớn lao cho lắm, chứ đối với cảnh được thấy trong khi Thiền Định thì phải thận trọng. Người tu hành thường phạm phải căn bệnh chưa đắc đã bảo là đắc!... Lòng Thành đến cùng cực thì đá vàng cũng phải nứt. Dẫu [cầu nguyện] cho người ấy chẳng được lợi ích thì chính mình cũng đã được lợi ích lớn lao. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 11 Tâm thường nghĩ đến tu trì, bế quan hay không đều chẳng khẩn yếu cho lắm. Nhưng phải nên viên thông, chớ nên chấp chết cứng, kẻo sẽ đến nỗi chẳng yên lòng, đâm ra vô ích! Đức Quán Âm từ bi rộng lớn, chắc chắn hễ có cảm liền ứng, nhưng tâm chớ nên quá gấp rút bộp chộp, mong được ứng ngay. Ví như trồng lúa, ngày hôm nay vừa gieo giống liền mong thâu hoạch ngay trong bữa nay sẽ trở thành kẻ si! Cố nhiên, hễ có ai khởi lòng niệm Bồ Tát thì sẽ liền được gia bị; nhưng chớ nên có những quan niệm hẹp hòi mong cầu ấy thì sẽ có lợi ích lớn lao vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 11 Ông nói đến chuyện bọt sóng trong biển đều là chấp trước trên mặt hình tích. Do đức Phật muốn cho con người biết “chính mình toàn thể là Phật, vì đang mê nên có tướng chúng sanh”, nhưng ngay cả cái tướng chúng sanh ấy toàn thể đều là vọng! [Do mê, do say nên thấy] nhà xoay, phương hướng đổi dời, ông liền chấp trước vào sự xoay chuyển, đổi dời; đáng gọi là “bỏ gốc chạy theo ngọn”, sẽ thấy thường xoay, thường dời chẳng ngớt vậy! Phật là vàng đã tách khỏi quặng, Phật tánh của chúng sanh là vàng vẫn còn nằm trong quặng. Vàng ở trong quặng trọn chưa thành vàng! Chẳng qua người sáng suốt biết trong quặng có vàng thì họ mới đổ công nung luyện, tách vàng ra [khỏi quặng], hòng được thọ dụng. Đức Phật sợ chúng sanh chẳng chịu gánh vác nên chú trọng nói rõ về bản thể. Bởi lẽ, [nếu chúng sanh] đã biết bản thể thì sẽ trọn chẳng chịu tự khinh, không tu tập. Nếu biết luận định từ bản thể thì không cần phải nghi! Nếu bỏ Thể để luận theo hình tích thì xin các hạ hãy thỉnh vị đại thông gia khác phán đoán, luận định. Quang là một ông Tăng tầm thường không có trí huệ biện tài ấy đâu! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 10 Phật giới, chúng sanh giới, cả hai đều chẳng tăng, chẳng giảm. Đấy chính là luận theo Lý; sao ông lại dựa trên hình tướng huyễn vọng để luận? Chẳng thấy kinh Kim Cang dạy: “Độ sạch hết thảy chúng sanh nhưng chẳng thấy một chúng sanh nào được diệt độ” ư? Nếu luận theo hình tích thì lời Phật nói sẽ trở thành mâu thuẫn! Nếu biết [lời nói ấy nhằm] dạy thẳng vào Lý Thể thì [sẽ thấy] giống như dạy cho kẻ say, người mê đang tưởng “nhà quay, phương vị đổi dời” biết rằng “nhà vốn chẳng quay, phương vị vốn chẳng đổi dời”. Hơn nữa, há có nên cho rằng [quan niệm] nhà xoay của kẻ say, phương vị đổi dời của người mê là đúng, coi lời lẽ của người không say, không mê là sai hay sao? Những điều như ông đã nói đều thuộc về hý luận! Kẻ say, kẻ mê ấy trước khi chưa ngộ, trọn chẳng thể chết lòng tin tưởng vào sự “không xoay chuyển, không đổi dời” vì kẻ ấy đích thân thấy như vậy. Đến khi đã ngộ, mới biết [những sự thấy biết trước kia] là vọng, không phải là chân. Há ông lấy điều đó (tức những sự thấy biết trước khi ngộ) làm chuẩn hay sao? Hay là lấy điều này (tức sự thấy biết sau khi đã ngộ) làm chuẩn? Hiểu rõ rồi thì cần gì phải biện luận nữa đây? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 10 Lệnh ái túc căn khá sâu, lập chí nguyện ấy thật đáng khâm phục, kính ngưỡng. Cảnh giới được nói đó có lẽ là thánh cảnh, nhưng chớ nên cho đó là đúng. Chỉ nên giữ nhất tâm, đừng hâm mộ thấy cảnh. Nếu đạt đến nhất tâm thì không thấy cảnh cũng chẳng trở ngại gì. Nếu chưa đạt đến nhất tâm mà cảnh được thấy chẳng thật, hoặc thấy rồi sanh lòng hoan hỷ đều đủ để làm hỏng chuyện. Gần đây, con người đa số hễ vừa dụng công liền thấy có cảnh giới; những cảnh ấy thật ra quá nửa là cảnh ma! Dẫu là cảnh thánh đi nữa mà nếu như không hiểu rõ tâm địa, chẳng hiểu tường tận nghĩa lý, hễ sanh chấp trước liền đến nỗi bị hỏng chuyện; chớ nên không biết! Nói tới chuyện Thanh Trai thì trong kinh chưa hề nhắc đến, nhưng do Phó Đại Sĩ đời Lương (do Di Lặc Bồ Tát thị hiện thân cư sĩ) thường hành [Thanh Trai] nên cũng không phải là chớ nên hành. Nếu miễn cưỡng nhịn đói thì cố nhiên chẳng nên hành, chứ nếu an nhiên không bị tổn hại, tự tại như pháp thì cũng chẳng phải là không được. Hơn nữa, người đời nay chỉ nên chiếu theo đường lối hành đạo thông thường để tu, chớ nên lập riêng tướng trạng khác lạ nhằm ngăn lấp những thói tệ hám danh phô phang chuyện lạ để mê hoặc mọi người v.v… - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 10 “Thọ giới sẽ phát giới thể” chính là bậc túc căn sâu dầy, chứ không phải là chuyện của những kẻ hời hợt hờ hững chỉ mang cái danh [thọ giới] hiện thời! Chẳng thọ giới mà có thể trì giới chỉ là thiểu số, chứ không phải đa số. Vì thế, chớ nên dùng cách ấy để làm khó dễ người ta. Những người như thế thuộc hạng tánh chất đặc biệt, còn những kẻ kia là hạng nên dạy dỗ theo đường lối thông thường, há nên so sánh hẹp hòi? Đúng là vốn không có một chuyện gì lại lầm lẫn khuấy lên sóng gió, đáng than quá đỗi! Bàn luận lợi ích trên hình tích, chẳng xét đến thật tình nơi tâm địa là vì người trong cả cõi đời đều thích giả mạo làm người tu đạo vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 10 Đã muốn thọ giới, cố nhiên nên chân thật. Đã không chân thật thì cần gì phải thọ? Lợi ích là do chân thật trì giới mà được, chứ không phải vì mang danh thọ giới sẽ liền được lợi ích. Mối nghi của ông đáng gọi là vô vị đến cùng cực! Hễ tu hành thì phải luận trên tâm địa, chứ không luận trên hình tích. Chưa thọ giới mà đã trì giới thì là người tu hành chân thật, há lẽ nào người chân thật, hành hạnh chân thật lại đâm ra tầm thường, kém cỏi ư? Nhưng Phật, Bồ Tát cực lực khuyên con người thọ giới là vì hễ thọ giới ắt phải trì, chứ không phải vì những kẻ chỉ khoác cái danh thọ giới hiện thời mà phát khởi vậy! Chỉ khoác cái danh thọ giới tức là người thọ giới lại hủy giới cấm của Phật, tội tăng thêm một tầng nữa! Những câu hỏi của ông đều là chấp chết cứng vào hình tích, dấy lên những nghị luận lầm lạc! Ăn nói như thế đều gọi là hý luận! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 10 Phàm hết thảy mọi người hãy đều nên “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Đấy chính là giới kinh đại lược của chư Phật ba đời, ai nấy đều phải nên vâng giữ, chớ nên phạm. Hễ trì sẽ có công đức, còn phạm sẽ mắc tội lỗi. Trì cho đến mức cùng cực sẽ có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, thậm chí thành Phật. Những ai phát tâm thọ giới mà không có thầy truyền trao thì hãy nên chí thành khẩn thiết đối trước đức Phật sám hối bảy ngày, tự thệ thọ giới trước đức Phật là được. Cố nhiên không cần nói đến hảo tướng, cũng không cần phải nói đã phát tâm hay chưa. Thời cơ hiện tại không giống như thời cơ khi đức Phật tại thế, nhưng đã vì vãng sanh Tây Phương mà thọ giới thì hãy nên chân thật thọ trì. Nếu chỉ cầu danh suông thì sẽ trở thành đùa bỡn, tội lỗi quả thật chẳng nông cạn, ít ỏi đâu nhé! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 10 Phật pháp rộng lớn như biển cả, hãy tùy theo căn tánh của mỗi người mà thọ trì. Nếu muốn thọ giới mà có chỗ để xin thọ được thì cố nhiên nên thọ với sư tăng. Nếu không có ai, hãy hướng về đức Phật sám hối, tự thệ thọ giới. Còn như nói “thấy hảo tướng” thì há có phải là chuyện nói dễ dàng ư? Sợ là người đời nay chẳng có thiện căn ấy đâu! Hoặc do chẳng hiểu rõ tâm địa, cứ dùng cái tâm bộp chộp, vọng động để mong cầu đến nỗi kẻ bị ma dựa thì nhiều, người được lợi ích ít ỏi! Hiện nay, những kẻ có hành trì đôi chút hễ động đến là khoe thấy đủ thứ cảnh giới! Những thứ cảnh giới ấy đều do vọng tâm cảm nên. Nếu là thánh cảnh giới biến hiện thì người khác tuy chẳng thể biết được nhưng người ấy phải có những dấu hiệu cho thấy tâm hạnh chuyển biến lớn lao. Nếu vẫn cứ y như cũ thì chẳng phải là thánh cảnh mà chính là ma cảnh đấy! Chớ nên không biết [điều này]! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 10 Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Bát Nhã Ba La Mật Đa nên thấy thấu suốt Ngũ Uẩn đều không, thân, tâm, thế giới chính là Ngũ Uẩn. Chúng ta chưa đạt đến địa vị Bát Nhã sâu xa, hãy nên coi thân, tâm, thế giới là thật có. Thế giới hư huyễn, nhưng phàm phu thường nghi [điều ấy] là sai; chứ nếu phàm tình đã hết sạch thì sơn hà đại địa đều chẳng trở ngại lẫn nhau. Vì thế, cổ đức nói: “Nếu có thể ngay lập tức mất sạch tình kiến thì sẽ đi thẳng qua vách núi [không bị ngăn ngại gì]”. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 9 Bản thể của tâm chúng sanh chính là Chân Như Thật Tướng, hiềm rằng do [chúng sanh] chưa ngộ được nên tuy suốt ngày nương vào sức Chân Như ấy mà suốt kiếp vẫn chẳng biết Chân Như nằm đâu! [Tuy] nói “vô minh vốn không có cội rễ, đầu mối”, nhưng do chúng sanh chưa ngộ, lại muốn dạy cho họ biết về cái chẳng phải tự họ vốn sẵn có, cho nên nói là “Chân Như chẳng giữ lấy tự tánh, nhưng khởi vô minh”, chứ thật ra chẳng phải là ban đầu không có [vô minh], về sau lại có! Nói như vậy là vì muốn cho người khác dễ hiểu bản thể. Ví như vàng nằm lẫn trong quặng, chứ không phải thoạt đầu thuần là vàng sau đó mới sanh ra quặng. Cần biết rằng: Vàng nằm trong quặng, nhưng vàng vẫn chẳng phải là quặng. Luyện quặng sẽ được vàng, quặng chẳng trộn lẫn vào vàng. Chúng ta hãy nên dốc sức ở chỗ phá vô minh, chớ nên bận tâm nơi những danh từ như “thế giới có hay không, Chân Như, vô minh, sanh diệt” để rồi sanh nghị luận lầm lạc! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 9 Độc ác và từ thiện chẳng chống trái nhau. Nếu ai tâm không độc ác thì rắn, cọp cũng có thể làm bạn được. Dẫu chưa đạt đến địa vị ấy, nhưng nếu là người lành thường niệm Phật, niệm kinh, chắc chắn chẳng bị những giống ấy làm hại. Do sẵn lòng từ thiện sẽ có thể cảm hóa được những loài độc ác ấy, huống chi người tu hành thường được thiện thần hộ vệ ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 9 Tịnh Độ là “duy tâm sở tạo” (chỉ do tâm tạo) thì hãy nên nói là “duy tâm”, chẳng nên vừa gọi là Tịnh Độ, lại vừa gọi là “sở tạo”. Nếu đã là cõi Tịnh Độ chỉ được tạo bởi tâm, sao lại chỉ nói là duy tâm, chứ trọn chẳng có Tịnh Độ nào khác là cảnh ở bên ngoài ư? “Duy tâm Tịnh Độ” là dùng tâm thanh tịnh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Đến khi lâm chung, sẽ do tịnh tâm của chính mình mà cảm đức Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. [Chẳng hạn] như phương này chính là duy tâm Tịnh Độ. Nếu không có Tịnh Độ thì chỉ có thể nói là “duy tâm”, há lẽ nào từ trong Không lại sanh ra Có, có thêm một cái Tịnh Độ nữa ư? Lại có thêm một cái được tạo nữa ư? Vốn không có Tịnh Độ thì tạo cái gì? Kẻ tà kiến ngăn trở người khác tu hành, tự cao giọng đề suông, chẳng biết những lời lẽ của chính mình đã hoàn toàn mâu thuẫn lẫn nhau. Muốn phá người khác tu trì nhưng thật ra là tự phá, tự phô bày tri kiến tà vạy, lầm lạc mà thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 9 Hỏi: Một người suốt ngày niệm Phật và cùng với mọi người niệm Phật nửa ngày thì so ra lợi ích nào lớn hơn? (Hội niệm Phật ở nơi đây cứ vào ngày thứ Tư liền nhóm chúng niệm Phật nửa ngày). Đáp: Cùng nhau niệm Phật là chuyện đề suông. Tùy phận tùy lực tu trì cố nhiên chẳng ăn nhập gì tới niệm chung với đại chúng hay hành riêng một mình; nhưng muốn tu hành thật sự hãy nên bớt phô trương ngõ hầu có lợi ích thật sự. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Hỏi: Trong số các đạo hữu ở đây, có một người rất chịu dụng công, thọ giới, ăn chay trường, chỉ có điều nhà ông ta giàu nứt đố đổ vách nhưng đối với chuyện công đức chẳng chịu bỏ tiền ra, [như vậy thì] có trở ngại cho sự niệm Phật sanh về Tây phương hay không? Đáp: Gã thần giữ của ấy tâm địa ô trược, hèn tệ, vẫn muốn cho con cháu phú quý lâu dài. Sợ rằng do cái tâm tham tài sẽ chuyển thành quả báo sanh trong loài ngạ quỷ cho nên trong kiếp vị lai hắn mới được thọ dụng thiện căn niệm Phật. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Hỏi: Khi niệm Phật tâm thường hay tán loạn, có kẻ nói là bị ảnh hưởng bởi tuổi tác. Nếu như tuổi già tâm tán loạn, chẳng thể thâu tóm được, thì người già quyết chẳng thể vãng sanh ư? Rốt cuộc có phải là vì tuổi tác hay là do công phu chưa đến mức đúng đắn? Đáp: Ông không nhất tâm là do trong tâm không có chánh kiến; do không có chánh kiến nên không có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha. Hễ có tín nguyện chân thật, thiết tha, dẫu chưa thể nhất tâm vẫn được vãng sanh. Nếu không có tín nguyện chân thật, thiết tha, dù có thể nhất tâm, cũng khó thể vãng sanh bởi vãng sanh là do nương vào Phật lực vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Hỏi: Ở nơi đây hai thứ Long Hoa Giáo và Tiên Thiên Giáo rất thịnh hành. Khuyên can, ngăn trở thì chúng nó cứng chắc không thể phá, khoe hai giáo ấy cũng sanh về Tây phương được. Rốt cuộc [tu tập hai giáo ấy] có thể làm trợ nhân [cho sự nghiệp vãng sanh] hay chăng? Nếu có thể làm như vậy được thì con sẽ học theo để “tắt lại càng thêm tắt!” Đáp: Ông đã quy y Phật pháp, tu trì Tịnh nghiệp, mà còn nghe theo lời ma mị của ngoại đạo, muốn học theo. Sao chẳng biết tốt - xấu đến mức như thế? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Hỏi: Niệm Phật tự biết chẳng đắc lực, muốn tăng thêm công khóa nhưng chỉ vì không có sức, lại không có thời gian, nếu cứ để như vậy mãi, sợ ít có cơ hội nắm chắc vãng sanh, nhưng chí lại quyết muốn vãng sanh, rốt cuộc con nên dùng cách nào để có thể muôn phần trông cậy? Đáp: Được vãng sanh hay không, hoàn toàn do có tín nguyện hay không? Sao lại nói bừa, tán gẫu, chẳng lấy lời cổ nhân đã nói để làm kim chỉ nam vậy? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Hỏi: Người già dẫu khỏe mạnh cũng chẳng đáng tin cậy, phải chuẩn bị sẵn biện pháp cho cái chết. Con tính không nhận lễ phúng điếu, lúc liệm hoàn toàn dùng vải, chỉ mặc một cái áo hải thanh, y năm điều, ngọa cụ xếp bên cạnh. Nếu dựa theo cấm chế của Phật thì những thứ ấy chẳng dùng để liệm theo, nhưng nay người ta thường liệm theo [người chết]. Có nên chẳng câu nệ đội mão Tăng, đi hài Tăng, hết thảy [cỗ bàn cúng bái] đều dùng món chay, cúng thất, thỉnh Tăng niệm kinh? Đáp: Nên lấy những lời khuyên răn nhắc nhở trong Văn Sao của Quang để dặn sẵn con cháu, [bảo họ] ắt phải chiếu theo đó để hành, ngõ hầu ông chẳng đến nỗi bị con cháu phá hoại chánh niệm. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Hỏi: Tam phước, tam tâm trong Quán Kinh phải giữ gìn cẩn thận, hễ hơi dễ duôi liền mất ngay, chưa khỏi có chỗ không thực hiện được! Con thường tự oán, tự thẹn, do vậy thường niệm Sám Hối Văn, rốt cuộc có tiêu trừ được tội khiên hay không? Đáp: Tiêu trừ tội khiên chẳng thể nói lơ mơ được. Chẳng viên thành Phật đạo sẽ chẳng thể nào hết sạch tội khiên! Chúng ta tiêu trừ được bao nhiêu chỉ là do lòng Thành cạn hay sâu mà định. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Hỏi: Ưa điều lành dường như phát xuất từ tánh mà thành. Chỉ vì lực bất tùng tâm nên chẳng thể tài thí, cũng không thể pháp thí được. Chỉ đành hễ gặp ai thì đều khuyên bảo niệm Phật, ăn chay. Cũng như năm năm trước đây, buổi sáng con tụng công khóa, buổi chiều ra khỏi cửa thu nhặt giấy có viết chữ bị [người ta] quăng bỏ; gần đây tinh lực suy nhược hơn, công khóa cũng tăng, chẳng thể chuyên chú, thành kính đi ra ngoài thâu nhặt [giấy có viết chữ] được nữa. Chỉ trong lúc đi đường thì vẫn chú ý thâu nhặt; xét ra có trở ngại gì cho việc niệm Phật hay không? Đáp: Người niệm Phật nên tu hết thảy thiện hạnh, nhưng cần phải chia ra thành Chủ - Bạn, Chánh - Trợ. Nếu đảo lộn vị trí của Chủ và Bạn sẽ được lợi rất nhỏ. Nếu có thể dùng Bạn để giúp cho Chủ thì sẽ như một người khoanh tay, trăm quan lo liệu việc cai trị, nào còn có trở ngại gì để nói nữa đây? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Hỏi: Khi niệm Phật, ngồi xếp bằng trước tượng Phật, miệng niệm, tai nghe, tay lần chuỗi, tâm tưởng Vô Lượng Quang Phật để mong tam mật tương ứng, nhưng vẫn không thể tránh khỏi hôn trầm, tán loạn thì nên thong dong để đợi khi thuần thục hay là có pháp nào để giúp đạt được “nhiếp trọn sáu căn” hay chăng? Đáp: Ngồi xếp bằng niệm thì chớ nên lần chuỗi. Hễ lần chuỗi, tâm sẽ khó lắng bặt suy tư, có thể bị bệnh. Hãy nên dựa theo đồng hồ để tính số câu niệm, một khắc niệm được bao nhiêu câu Phật hiệu sẽ giống hệt như lần chuỗi. “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” chính là pháp chế ngự cái tâm hay nhất. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Hỏi: Tuổi tác già suy, chẳng thể thức dậy ngay trong đêm. Con có nên suốt cả một ngày tận hết tâm lực để dụng công [tụng niệm, tu tập], đến chỗ nào cần phải thể hiện lòng thành kính nhưng tâm không thấy được thì lạy nhiều để biểu lộ. Trong mười đại nguyện vương, điều đầu tiên là lễ kính, lợi ích như thế nào? Đáp: Tuổi già thân thể vẫn mạnh thì cố nhiên lễ nhiều là tốt. Chứ nếu không thì trong hết thảy thời, hết thảy chỗ thường giữ lòng kiêng nể thì cũng là ý nghiệp lễ kính! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Hỏi: Người tu hành có cảnh giới tốt đẹp thì hoặc mộng đến Tây Phương, hoặc gặp mặt Di Đà, hoặc ngửi thấy mùi hương lạ, hoặc thấy hoa sen. Cư sĩ Vương Quý Quả ở tỉnh Tương (Hồ Nam) thường được thấy như thế. Con niệm Phật suốt mười năm không có tướng lành nào phát hiện, lỡ lâm chung vẫn như thế thì có phải sẽ khó đến được Cực Lạc hay chăng? Rốt cuộc có nên cứ để xuôi theo tự nhiên, đừng sanh lòng mong mỏi gì hết ư? Đáp: Chỉ cầu tâm hợp với Phật, chẳng cần phải dốc sức để thấy được cảnh giới. Tâm đã tương ứng với Phật mà có tín nguyện chân thật sẽ chắc chắn vãng sanh. Nếu tâm mong cầu cảnh giới mà chưa tương ứng thì hễ có cảnh hiện ra, có thể sẽ bị ma dựa. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Hỏi: Tử Bách lão nhân nói: “Làm chủ được giấc mộng thì khi lâm chung sẽ tự chủ được”. Như vậy là cảnh trong mộng hết sức quan yếu! Khi lên giường sắp ngủ, con cũng từng niệm thầm, nhưng đến khi mộng vẫn là tơi bời tán loạn, chẳng dính dáng gì đến Niệm Phật hết. Thậm chí có lúc [nằm mộng thấy] ăn mặn, có khi biết ngay, hoặc chẳng biết liền, thật đáng hận, đáng thẹn! Con nên dùng cách nào để vãn hồi? Đáp: Muốn mộng cảnh tương ứng hãy nên cật lực cầu tương ứng trong khi ban ngày. Nếu lúc tỉnh thường tương ứng thì trong mộng sẽ tự được tương ứng. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Hỏi: Cổ đức nói: “Ái chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà”. Phải nên trừ ái là lẽ đương nhiên! Nhưng trong vòng con cháu, giữa lẽ lợi - hại, nói chung chẳng thể mặc kệ, quên bẵng tình cảm thì làm như thế nào để chế ngự được? Đáp: Yêu thương con cháu thì phải yêu thương theo đúng lẽ đạo: Dạy cho chúng nó đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, tín nguyện niệm Phật thì lòng yêu thương ấy liền trở thành Trợ Hạnh cho tịnh nghiệp. Đấy chính là căn cứ lớn lao để ngừa hại đạt lợi vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Hỏi: Người tu hành dứt ác làm lành là chuyện thuộc về bổn phận, đáng nên gắng công, nhưng có điều ngoài công khóa và mười hai thời ra, ba tâm quá khứ, hiện tại, vị lai qua lại loang loáng, nói chung là chưa thể trừ. Tâm nghiệp chưa trừ cho sạch được thì có gây trở ngại cho sự vãng sanh hay chăng? Đáp: Công khóa hãy nên chuyên, đừng nên xen tạp. Hễ chuyên sẽ dễ nhiếp tâm, còn tạp sẽ khó thể quy nhất được! Vãng sanh là do tín nguyện chân thiết. Nếu không có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu cho tâm thanh tịnh cũng khó được vãng sanh. Chớ nên không biết! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 8 Con có những điều thưa hỏi kể ra như sau, kính xin thầy chỉ bày. Công đức vô lượng! 1) Lão pháp sư niệm Phật phát chí nguyện lớn lao như thế nào? Đáp: Nguyện sanh Tây Phương, thấy Phật, nghe pháp, chứng Vô Sanh Nhẫn, trở vào Sa Bà phổ độ chúng sanh. 2) Thân người cầu liễu thoát đến nơi đâu? Đáp: Đến Cực Lạc thế giới. 3) Phật nói: “Chúng sanh đều có trí huệ của Như Lai” là đã gộp cả Tín - Nguyện - Hạnh vào trong ấy hay chăng? Đáp: Trí huệ của Như Lai không pháp nào chẳng bao gồm, nói trên phương diện chúng sanh thì chỉ là Lý Tánh mà thôi, chớ nên hiểu lầm! 4) Chúng sanh cõi Sa Bà sanh vọng tưởng thì là Ngã Kiến hay không phải Ngã Kiến? Đáp: Vọng tưởng bao gồm hết thảy phàm tình, Ngã Kiến là [phàm tình] nặng nề Nhất. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 7 Hễ sáu căn không nhiếp thì tuy niệm Phật trong tâm vẫn có vọng tưởng tơi bời, khó đạt được lợi ích thật sự. Nếu có thể nhiếp trọn sáu căn để niệm thì gọi là “tịnh niệm tiếp nối”. Tịnh niệm đã có thể thường tiếp nối thì nhất tâm bất loạn và Niệm Phật tam-muội sẽ đều có thể dần dần đạt được. Xin chú ý chỉ mong đạt được “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” thì nghiệp sẽ tiêu, trí sẽ rạng, tâm địa sẽ khai thông, lo gì chẳng hiểu rõ nghĩa kinh nữa! Xin hãy gắng sức! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 6 Hỏi: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”, hành trì như thế nào? Đáp: Tông chỉ của Niệm Phật là sanh lòng tin chân thật (tức Tín), phát nguyện thiết tha (tức Nguyện), chuyên trì Phật hiệu (tức Hạnh). Ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh là tông chỉ của Niệm Phật. Phương pháp dụng công Niệm Phật hay nhất là “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. “Nhiếp trọn sáu căn” là cái tâm niệm Phật chuyên chú nơi danh hiệu Phật, tức là nhiếp Ý Căn. Miệng phải niệm sao cho rõ ràng rành rẽ, tức là nhiếp Thiệt Căn. Tai nghe cho rõ ràng rành rẽ tức là nhiếp Nhĩ Căn. Ba căn ấy được nhiếp trong Phật hiệu thì mắt quyết chẳng thể nhìn ngó loạn xạ. Khi niệm Phật nên buông rèm mắt suông, tức là hạ thấp mí mắt suông, chớ nên mở banh mắt. Mắt đã nhiếp rồi thì mũi cũng chẳng thể ngửi loạn được, tức là mũi cũng được nhiếp! Thân phải cung kính tức là thân cũng bị nhiếp. Sáu căn đã nhiếp, chẳng tán loạn thì tâm không vọng niệm, chỉ nghĩ đến Phật; đấy mới là tịnh Niệm. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 6 Hỏi: Hiện thời trong khi tịnh tọa, học nhân niệm ra tiếng bốn chữ hồng danh, nhiếp tâm niệm thiết tha, áp dụng phương pháp “tâm - miệng [niệm Phật] phân minh, rõ ràng để chấp trì, dùng tai lắng nghe”, hơi cảm thấy khinh an (nhẹ nhàng, dễ chịu). Con muốn tu sao cho đạt đến nhất tâm bất loạn thì có thể chuyên hành pháp ấy hòng đạt được hay không? Đáp: Pháp ấy rất hay! Lúc tịnh tọa nên niệm thầm, niệm ra tiếng cũng được. Nhất tâm bất loạn là do tâm chuyên chú và khẩn thiết vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 6 Hỏi: Có kẻ nói niệm ra tiếng, trì danh theo lối Truy Đảnh, có người bảo niệm Kim Cang trì, có người nói niệm thầm, có người bảo nhớ số, có người nói “tùy tức” v.v… Muốn đắc nhất tâm bất loạn thì có nên chuyên trì một pháp hay không? Đáp: Truy Đảnh dễ bị bệnh. Niệm lớn tiếng, nhỏ tiếng, niệm Kim Cang hay thầm niệm, đều tùy theo tinh thần của chính mình mà điều chỉnh để dùng. Há nên chấp chết cứng một pháp đến nỗi bị bệnh ư? Tùy Tức chẳng bằng Tịnh Thính (lặng lẽ lắng nghe), bởi lẽ Tùy Tức không khéo thì cũng bị bệnh, còn Tịnh Thính thì chẳng bị bệnh! Hỏi: Chuyên tu trì danh, nguyện được Niệm Phật tam-muội, cầu sanh Tịnh Độ thì dụng công ra sao? Đáp: Dùng tín nguyện sâu để niệm Phật. Niệm Phật tam-muội cũng chẳng dễ gì đạt được, nhưng phải thường nên phát cái tâm ấy. Đấy gọi là “noi theo pháp bậc thượng, chỉ đạt được bậc trung”.Hỏi: Có lúc Kim Cang trì, có lúc niệm thầm, có lúc nhớ số, có lúc niệm theo lối Tùy Tức v.v… chẳng biết [niệm như vậy] có gây trở ngại cho nhất tâm hay không? Đáp: Nhất tâm là do niệm, chứ không phải do âm thanh niệm Phật, sao lại bảo là trở ngại? Nhớ số cũng chỉ là nhớ khi động, chứ khi ngồi tịnh tọa chỉ nên niệm thầm, đừng nên lần chuỗi. Nếu lần chuỗi ắt bị tổn thương. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 6 - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 6 Hỏi: Bình (Thôi Thụ Bình tự xưng) làm luật sư, thụ lý hồ sơ vụ án. Do chức vụ, con phải soạn án từ, cố nhiên vẫn tùy thời chú ý để khỏi gieo nhân ác. Nhưng để giải oan cho người khác, con thường gặp những trường hợp có đủ chứng cớ phạm tội, khi giao cho Đề Hình khởi tố, tuy bản án phát xuất từ ý chỉ của những người được ủy thác [làm nhiệm vụ xét xử], nhưng do con soạn án từ mà kẻ ấy bị lãnh tội, trong tâm trọn chẳng yên. Những kẻ nắm giữ luật pháp hiện thời chỉ nói riêng tại Thượng Hải đã có hơn tám trăm người, cố nhiên chẳng thiếu những kẻ còn giữ được một ít lương tâm, nhưng có rất nhiều kẻ tuy chẳng cẩn thận vẫn chẳng hề bận tâm, thậm chí hèn tệ chẳng thể kham được! Những người trực tiếp hay gián tiếp mắc phải họa hại bởi lũ ấy không thể nào gập ngón tay [để đếm xuể]. Dám xin thầy khai thị, đấy cũng là một đầu mối để cứu vãn lòng người vậy. Đáp: Đối với những chuyện ấy phải thường xuyên giữ lòng nghĩ tưởng trời đất, quỷ thần, Phật, Bồ Tát đều thấy rõ, biết tỏ cái tâm của ta thì sẽ tự chẳng đến nỗi tạo ác nghiệp. Nếu không, vốn nhằm giải quyết khó khăn, tháo gỡ rắc rối mà lập ra biện pháp ấy, nhưng thật ra là căn cứ để gạt gẫm dân lành, ban thưởng khích lệ kẻ gian trá. Đáng sợ đến cùng cực! Nếu có cách sanh sống khác, cố nhiên tốt nhất là nên thoát khỏi phạm vi ấy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 5 Hỏi: Cảm Ứng Thiên là do ai trước tác? Đối với sách vở của các tôn giáo khác thì dùng pháp nào để phân biệt, đoán định? Đáp: Bản Cảm Ứng Thiên thường được lưu hành có ghi hai chữ Thái Thượng, [là vì người đời] cho [tác phẩm này] là do Lão Tử viết ra. Cũng có kẻ cho rằng nó vốn là [một thiên sách trích từ bộ] Bão Phác Tử rồi được mở rộng ra. Nhưng bất tất phải xét tìm ai là tác giả? Chỉ cần quan tâm đến những điều lợi ích do sách ấy đem lại. Đấy gọi là “chẳng vì người mà bỏ lời” vậy! Tuy thánh nhân lập pháp, nhưng cố nhiên không nhất định phải coi [toàn bộ] những lời thánh nhân [đã nói] là khuôn mẫu, chỉ nên quan tâm chọn lấy những gì có ích cho thế đạo nhân tâm. Trùng Văn, Điểu Thư là đầu mối mở mang văn tự lớn lao, nào dám vì Trùng, Điểu không đáng trọng mà chẳng dùng đến văn tự ư? Nêu lên một chuyện này thì sẽ có thể dứt được những lời lẽ rườm rà vô ích bàn bạc đúng - sai xằng bậy! Những lời lẽ rườm rà ấy vẫn chẳng có phong vị thiên nhiên như chim mùa Xuân ríu rít lúc ban ngày, trùng mùa Thu rền rĩ ban đêm vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 5 Hỏi: Địa Tạng Vương Bồ Tát là bậc phụng hành Phật pháp, nhậm chức U Minh Giáo Chủ trong chốn Âm Tào, vào trong lục đạo để độ chúng sanh. Nhưng thường nhân hay tưởng lầm Ngài là thần kỳ hoặc là linh quỷ. Những loại quan niệm như vậy chẳng phải chỉ có một mà thôi. Làm thế nào để phân biệt vị Bồ Tát phụng hành Phật pháp và thiên tiên, quỷ thần? Đáp: Thần kỳ là do nghiệp báo cảm thành nên có thể bảo là “nhậm chức”, chứ Địa Tạng Bồ Tát do hoằng thệ đại nguyện bèn ở trong U Minh độ thoát chúng sanh, sao lại bảo là Ngài “nhậm chức”? Người đời chẳng hiểu rõ phàm - thánh, nhất loạt coi là quỷ thần, cũng không có chi lạ cả! Ví như đứa bé chỉ biết người trong nhà, hết thảy những người khác nó đều hoàn toàn chẳng biết tới, sẽ bảo hết thảy mọi người đều chẳng tôn quý bằng cha mẹ nó! Đã biết: Bậc đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử chỉ mới là bậc thánh nhân trong Tiểu Thừa; còn bậc phá vô minh, chứng Pháp Tánh thì mới đáng gọi là Đại Thừa Bồ Tát. Nhưng [những vị nào] chưa đoạn phiền não, cậy vào phước lực trong đời trước thì sẽ làm thần kỳ, địa vị còn kém xa chư thiên, huống là so với bậc đại Bồ Tát đã chứng Pháp Thân ư? Nếu chẳng biết Phật pháp thì có phán định cũng chẳng hiểu rõ. Nếu đã biết Phật pháp thì cần gì phải phán định nữa! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 5 Hỏi: Học thuyết trong thuật Địa Lý quá phiền, tinh thông thuật ấy chẳng dễ. Địa Lý chẳng tinh tường thì dẫu chọn đất vẫn chẳng chọn được. Chọn lựa đất tinh tường, nhưng chẳng chọn tinh tường cái tâm, rốt cuộc đến nỗi biến cát thành hung thì tuy chọn được vẫn giống như chưa được! Đấy gọi là “nếu không có tâm điền thì cũng chẳng có phước địa”. Thế tục chỉ nói đến Địa Lý, chẳng nói tới Thiên Lý. Chỉ lo Phong Thủy bị tổn thương, chẳng lo báo ứng không sai. Hễ gặp chuyện gì trái ý bèn đổ thừa Địa Lý chẳng tinh tường, lo cái kia gây trở ngại cho cái này, vô sự sanh sự, luôn luôn ươm thành những tấn tuồng xấu ác, quên gốc chạy theo ngọn, đâu đâu cũng đều như thế cả! So ra, [hoàn cảnh của] những kẻ không nhắc đến Thiên Lý còn tệ hơn kẻ không nói đến Địa Lý quá nhiều! Người thờ Phật ngăn chặn thói tệ từ lúc nó mới chớm nẩy, tận lực uốn nắn những thói toan tính tệ hại của thế tục. Nếu gặp chuyện xây mồ, cất nhà, có nên tùy duyên chọn vị trí thích hợp, hay chỉ y theo Phật lý, giữ thiên lý, chẳng theo lý lẽ thế tục để nói đến Địa Lý hay không? Đáp: Tuy chẳng ra sức nói tới, cũng chớ nên hoàn toàn chẳng để cho thầy Địa Lý xem qua. Đấy gọi là “trọn hết chuyện con người trước đã!” Nếu quanh năm nuôi nấng cung phụng gã thầy Địa Lý có mắt như mù thì sẽ đều là hạng người cuồng vọng, chẳng tuân theo thiên lý, chẳng hiểu rõ Địa Lý. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 4 Hỏi: Lịch đại tổ sư như chư Tổ của Liên Tông v.v…sau khi đã khuất, được người ta bình luận, phán định ra sao thì mới được cả cõi đời tôn sùng là Tổ? Đáp: Có đức lớn thì người ta tự chịu suy tôn, há cứ nên chấp hẹp hòi là cần phải có người bình luận, đánh giá hay chăng? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 4 Hỏi: Nếu bảo là thần thánh có thể hộ pháp thì sao lại đến nỗi có nhiều chùa bị vua này vua nọ hủy diệt. Nếu bảo là thần không hộ pháp thì sao lại thường có những sự tích hiển hiện linh ứng, dẹp ma? Có phải là hộ pháp hay không hộ pháp đều là do nghiệp lực đồng phận của chúng sanh chiêu cảm sâu hay cạn mà bèn hộ pháp hay không đó chăng? Đáp: Chuyện này chớ nên chấp chết cứng. Ấy là do pháp vận thông hay tắc, cũng như trong một năm nóng - lạnh thay phiên nhau theo thứ tự vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 4 Hỏi: Thần có thể giết được kẻ đã làm ác, sao không giết trước khi nó làm như thế. Như sau khi Bạch Khởi chôn quân đầu hàng đến mấy vạn rồi mới bị tru lục ở Âm Phủ. Khi hắn sắp chôn sống [quân Triệu ra hàng] nhưng chưa kịp làm, sao không tru lục ngay để hắn khỏi chôn vùi được ai? Hay là những tên lính ra hàng ấy đời trước vốn thiếu nợ hắn cái mạng nên mới bị chôn sống? Chôn xong, oán cũ vừa xóa, oán mới lại kết, nên mới bị cõi Âm tru lục để hả lòng oán đấy chăng? Hay là làm ác giống như uống thuốc độc, ắt phải đợi uống vào bụng xong mới bị trúng độc tự chết? Đáp: Chưa làm mà đã bị giết thì trong ngàn trăm vạn trường hợp mới có một trường hợp. Đã làm rồi mới giết thì đấy chính là thường pháp theo thiên lý nhân tình vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 4 Hỏi: Những y phục có in chữ, hoặc hình tượng Phật v.v… có được dùng làm đồ liệm hay chăng? (Sư phê bên cạnh “không được”). Có nên đốt kinh điển cho người đã mất hay không? (Sư phê bên cạnh “đừng đốt bừa bãi”) Đáp: Nếu đốt thì nên sắp đặt dụng cụ để đốt riêng, chớ nên đổ lẫn tro kinh vào tro giấy tiền vàng bạc để bán. Hãy nên đựng [tro kinh] vào túi riêng, dùng vải sạch may thành đãy, bỏ thêm cát sạch vào trong ấy. Có ai ra biển thì [nhờ người ấy] gieo [đãy đựng tro kinh ấy] suông chỗ sâu. Nếu không, đừng đốt. Nếu chẳng bỏ thêm cát [vào đãy chứa tro kinh], sợ nó không chìm, sẽ trôi tấp vào bờ! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 4 Hỏi: Trong nhà còn giữ những sách của ngoại đạo hoặc những sách tà - chánh hỗn loạn và sách của đạo Gia Tô, Tam Quan Kinh, Táo Quân Kinh, Huyết Bồn Kinh và những sách thuốc dạy người giết chóc bằng phương cách đặc biệt v.v… có nên đốt hết đi hay chăng? Lại còn trong những sách chú giải Tứ Thư của Châu Hy có những lời lẽ báng Phật có nên bôi đi hay là sửa chữa? Đối với lời văn báng Phật của Hàn - Âu có nên tùy theo sở kiến mà phê phán hay đốt đi hết? (Bên cạnh tên hai kinh Táo Quân, Huyết Bồn, Sư phê chữ “bôi đi”) Đáp: Đối với những chỗ sai bậy trong lời chú giải của họ Châu nên phê theo lối Đảnh Cách (lời phê viết bên phải câu văn ấy, cao hơn một dòng). Phàm những sách vở thế gian đa phần mắc phải khuyết điểm ấy. Nếu xét trên đại thể, [nội dung sách] phần lớn là tốt đẹp, vấp phải những lỗi nhỏ nhặt thì hãy phê theo lối Đảnh Cách. Còn sách phạm khuyết điểm quá lớn hay nói bậy thì chớ nên giữ làm gì! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 4 Hỏi: Nếu thầy thuốc gặp phải kẻ ác và đồ tể, chài lưới, thợ săn v.v… mang bệnh đến xin chẩn trị, ta dạy họ sửa ác, kiêng giết, họ không chịu nghe, lành bệnh rồi vẫn [tiếp tục] tạo tội nghiệt, có nên mặc kệ họ không chữa hay chăng? Đáp: Đây cũng là bàn chuyện vô lý. Như lời ông nói thì đối với con vật gây tổn hại đến những con vật khác thì cũng mặc kệ không cứu mới là đúng! Nếu thầy thuốc dùng lòng Thành để cảm thì bọn họ chắc cũng sẽ có thể thay đổi nghề nghiệp. Đức Phật còn dạy kẻ đồ tể nhận lãnh các giới riêng, [nhìn vào đó] thì có thể biết được cách tùy cơ khuyến hóa, dẫn dắt của đức Phật. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 4 Hỏi: Dùng con vật còn sống để làm thuốc, bèn niệm Phật cho chúng được độ thoát. Làm như vậy dường như vẫn tạo thành thói tệ, bởi những kẻ giết những động vật thuộc loài thai sanh hay noãn sanh làm dược phẩm cũng có thể mượn cớ niệm Phật giải oan để lấp liếm, con cảm thấy khó lòng giải nói được. Con lập nguyện hễ gặp những phương thuốc như vậy đều không thèm dùng tới, chẳng cần phải lưu truyền, chưa biết có được hay chăng? (bên cạnh chữ “được”, Sư khuyên một chấm, biểu thị đồng ý) Đáp: Chuyện này cũng chớ nên chấp chết cứng! Chúng ta chỉ nên giữ lòng Thành của chính mình mà thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 4 Hỏi: Người ăn chay trường kiêng cả rượu và Ngũ Tân, tông chỉ của chuyện ấy chẳng nhằm chỉ để tạo ra đầu mối kiêng giết chóc. Kẻ chưa ăn chay trường có được phép thay mặt người khác mua Ngũ Tân và rượu cùng hèm được chăng? Cũng như có được ăn các món thuốc chay chế từ rượu hay từ hèm và những món chay nấu nướng, nêm nếm với hèm hoặc rượu hay chăng? Đáp: Mua giùm người khác cũng nên tránh. Những loại thuốc chế bằng rượu nếu chẳng gây loạn tánh thì không sao. Nếu món chay mà hơi rượu quá nồng thì đừng nên ăn, còn có mùi nhẹ thì ăn không sao; đấy là vì để khỏi bị say sưa loạn tánh vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 4 Hỏi: Dùng gạo thóc làm rượu, biến thực phẩm cứu đói thành thức uống xa xỉ, quả thật là kẻ phung phí vật thực của trời quá mức. Nếu trên thế giới đều cấm uống rượu hết thì sẽ dư ra được bao nhiêu là lương thực cứu đói. Như vậy thì uống rượu không chỉ làm loạn tánh mà thôi. Do vậy, nếu khi cả nhà đều kiêng rượu thì có nên hủy hết những đồ để uống hay chứa rượu trong nhà hay chăng? Đáp: Điều này cũng chớ nên chấp chết cứng. Nếu là món đồ vô dụng cho cả cõi đời thì làm như vậy được. Nếu hữu dụng, tặng cho người khác đâu có ngại gì! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 4 Hỏi: Theo sách Thái Ất Thần Châm, châm xong phải uống rượu! Người giữ giới không uống rượu thì tự mình chớ nên áp dụng, nhưng có thể bảo người khác dùng rượu hay không? Cũng như có thể dùng rượu để chế thuốc hay chăng? Đáp: Đây cũng không phải là cách chấp nhặt hẹp hòi. Hễ có bệnh thì niệm Phật hay niệm Quán Âm cũng đều được lành; huống hồ nếu không dùng rượu thì [bệnh nhân] chắc chắn chẳng thể lành bệnh ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 4 Con người bị bệnh nặng liền hãy nên có ý tưởng vãng sanh, nhất tâm niệm Phật. Nếu tuổi thọ chưa hết sẽ do niệm Phật mà được chóng lành (A Di Đà Phật chính là Vô Lượng Thọ, nghĩa là tiêu tai, kéo dài tuổi thọ). Còn như vì người khác trợ niệm, há nên vì họ niệm Quán Âm, lại còn cầu thọ cho người ấy? Cứ niệm Phật, chưa hết tuổi thọ cũng có thể kéo dài mạng sống. Niệm Quán Âm thì không có tâm cầu được vãng sanh. Nếu tuổi thọ đã hết sẽ làm hỏng chuyện. Không phải là niệm Phật sẽ nhất định chết, niệm Quán Âm nhất định chẳng thể vãng sanh. Chỉ vì kẻ si không có tâm niệm cầu được vãng sanh nên cũng chỉ tạo thành một thứ nghiệp cảm gây hỏng chuyện mà thôi! Vô Lượng Quang là tiêu tai, Vô Lượng Thọ là diên thọ (kéo dài tuổi thọ). Niệm A Di Đà Phật công sức đến cùng cực còn được thành Phật, há lẽ nào niệm Phật chẳng thể kéo dài tuổi thọ, khiến cho chóng chết ư? (Trong lời đáp, bên cạnh hai chữ “si nhân”, Sư gạch dưới ba vạch để nhắc nhở, những người sẽ chết sau này chớ đừng tự lầm) - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 4 Hỏi: Pháp môn Tịnh Độ đã có thể thích hợp khắp ba căn, thâu tóm trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn. Trong thời đức Phật tại thế, sao không chuyên nói về Tịnh Độ để vạn pháp quy nhất, cùng về theo một đường, mà lại giảng bàn các tông, đâm ra khơi gợi lắm mối sai lầm đi vào ngõ rẽ khiến người đời sau bị mất lợi ích thật sự nơi Tịnh Độ vậy? (Trong lời hỏi, bên cạnh câu “sao không chuyên nói về Tịnh Độ”, Sư đã phê: “Nói nhăng, nói càn!”) Đáp: Nuôi người chẳng phải chỉ một thứ gạo, trị bệnh chẳng phải chỉ có một thứ thuốc. Do có các môn thì mới tỏ rõ sự hay tuyệt của pháp môn này. Nếu chỉ có một pháp Tịnh Độ thì làm sao có thể dẫn hết thảy những cơ nghi cùng vào trong Phật pháp được? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 4 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Năm trước con được thầy từ bi khai thị, bảo đệ tử tuổi đã gần năm mươi rồi, chớ nên nghiên cứu kinh, chỉ nên chết lòng niệm Phật để mong vãng sanh. Từ đấy con chẳng đổ công sức nghiên cứu nữa; chỉ có điều gần đây mở xem Đại Trí Độ Luận, Tử Bách Tập, các sách ấy giúp mở rộng tầm mắt, cảnh tỉnh, răn nhắc thân tâm khá nhiều. Nhưng ngoài lúc lễ tụng trong thời khóa chánh yếu ra, có nên nhân lúc rảnh rỗi xem đọc thêm đôi chút những loại kinh luận ấy hay không, hay là nhất loạt ngưng xem thì mới nên? Đáp: Tu trì không phải là chuyện đóng đinh, đẩy mái chèo, cần phải sống động, hoạt bát; tuy chết lòng niệm Phật, nhưng xem thêm đôi chút kinh luận cũng chẳng phải là không được. Nhưng nếu coi Chủ Hạnh (hạnh chánh yếu) như chuyện kèm thêm thì sẽ trở thành tu trì không có chỗ nương tựa. Tử Bách Tập tuy là cảnh sách, nhưng [những lời dạy của ngài Tử Bách] chú trọng nơi tham cứu; sao không dụng tâm nơi Tịnh Độ Thập Yếu? Ông cho rằng Tịnh Độ Thập Yếu chẳng có ích lợi sâu xa cho con người bằng Tử Bách Tập ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Gần đây đệ tử thường dựa theo phẩm Tịnh Hạnh [trong kinh Hoa Nghiêm] để phát nguyện, chỉ là gặp cảnh chạm sự liền niệm thầm “xin nguyện chúng sanh sẽ như thế này, thế nọ”. Chỉ cần niệm một lần hoặc là tùy ý tùy sức niệm liên tục chẳng quan tâm đến số biến. Lại nữa, nếu chẳng hiểu rõ ý nghĩa nguyện văn lắm thì có thể dựa theo bài văn để đọc hay không? Đáp: Pháp tu trì trọn chẳng nhất định. Người chuyên niệm Phật sao không do cơ duyên, do hoàn cảnh mà niệm. Lời văn phát nguyện thì tùy lòng ưa thích, chớ nên chấp bài này, chê bai bài kia, chấp bài kia, chê bai bài này là được rồi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Lại nữa, trong sách [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện Phẩm Tập Yếu Sớ, cụ Đế Nhàn viết rằng: “Đối với câu kệ tụng ‘nguyện ngã lâm dục mạng chung thời’ (nguyện con lúc mạng sắp chấm dứt) nếu đổi hai chữ ‘nguyện ngã’ thành ‘thị nhân’ (người ấy) thì [ý nghĩa] càng thêm rõ rệt”. Con trộm nghĩ nếu sửa như thế có lẽ thì đối với hai câu “ngã kim hồi hướng chư thiện căn, vị đắc Phổ Hiền thù thắng hạnh” (con nay hồi hướng các căn lành, để được hạnh Phổ Hiền thù thắng) trong phần trên và câu “ngã thời ư thắng liên hoa sanh, hiện tiền thọ ngã Bồ Đề ký” (khi ấy, con sanh trong hoa sen tươi đẹp, ngay trong lúc ấy được Phật thọ ký cho con sẽ thành Chánh Giác) trong đoạn này, hai chữ Ngã đều chẳng thông suốt với nhau! Hơn nữa, theo phần Trường Hàng, khi lâm chung do nhờ sức tụng kinh, nương theo sức dẫn dắt của Nguyện Vương mà vãng sanh Cực Lạc, liền thấy Phật Di Đà. Trong kệ tụng nói diện kiến Di Đà liền sanh về Cực Lạc, [nếu đổi chữ “ngã nguyện” thành “thị nhân” thì] tựa hồ như đã đẩy cái này lôi cái kia (chữ “đẩy” ở đây hình dung ý “gượng ép”) sao cho ý trong lẫn ngoài được khớp nhau. [Con cho rằng]: Nhằm rốt ráo làm cho hành giả mong mỏi được Phật Di Đà tiếp dẫn, cho nên nói hai chữ “ngã nguyện”. Con nghĩ giữ nguyên chữ [như trong chánh kinh] so ra thỏa đáng hơn. Kiến giải của con hèn tệ như thế, chẳng biết có thích đáng hay chăng? Đáp: Ý này tuy do ngài Thanh Lương đề ra, nhưng chẳng phù hợp với kinh văn, đấy là ý phụ chứ không phải ý chánh. Nếu coi đấy là ý nghĩa chánh yếu sẽ trở thành trái nghịch kinh, chớ nên theo. Hễ theo sẽ phạm lỗi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Thêm nữa, giữa đọc và tụng thì công đức nào lớn hơn? Đáp: Khổng Tử đọc kinh Dịch, ba lượt đứt lề sách. Đọc sẽ có ích hơn [tụng] nhiều. Nếu không, sao Khổng Tử lại nhọc nhằn mở sách ra đọc như thế. Trong câu “đứt lề sách ba lượt” thì [chữ “lề sách”] chỉ cho sợi dây bằng da để buộc các phiến gỗ hay các thẻ tre. Dây đã bị đứt ba lần tức là số lần mở sách ra đọc chẳng thể đếm được số! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Con lại thấy một vị Tăng nhận biết mặt chữ nhưng không hiểu ý, trì tụng kinh Pháp Hoa nhưng lòng vui sướng tràn ngập nơi mặt mũi, đủ biết: Sanh được pháp hỷ hay không chẳng liên quan tới chuyện có hiểu rõ văn nghĩa hay không! Nếu có thể dùng tâm cung kính, tâm từ bi, chẳng khởi tâm phân biệt, chẳng bận tâm thấu hiểu văn nghĩa, cứ thẳng thừng mà đọc, tự nhiên sẽ đạt được lợi ích chân thật, tăng trưởng pháp hỷ. Ý con tính sau này cứ chiếu theo cách đọc ấy, hồi hướng Bồ Đề; chẳng biết là có trái nghịch, sai khác với ý chỉ ban đầu của lời thầy dạy hay chăng? Đáp: Người thông minh trong thế gian phần nhiều là tâm thường cố thấu hiểu. Đối với nghĩa lý thì được, chứ đối với pháp hỷ sẽ khó đạt được lắm! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Xưa kia con được thầy rủ lòng Từ dạy cho cách đọc kinh: Thân phải ngồi ngay ngắn như đối trước thánh dung, đích thân nghe viên âm, chẳng dám manh nha một ý niệm giải đãi, khởi một ý niệm phân biệt nào! Từ đầu đến cuối đọc thẳng một lượt, bất luận dù văn hay nghĩa đều nhất loạt chẳng bận tâm đến. Duyệt kinh như thế thì người lợi căn sẽ có thể ngộ được lý Nhị Không , chứng được pháp Thật Tướng. Dẫu là kẻ căn khí ngu độn kém cỏi cũng tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ. Nếu cứ một mực phân biệt câu này nghĩa như thế nào, đoạn này nghĩa ra sao thì sẽ hoàn toàn là phàm tình vọng tưởng, dò đoán, suy lường, làm sao có thể ngầm thông ý Phật, viên ngộ ý chỉ của kinh để nhân đấy nghiệp chướng tiêu diệt, phước huệ tăng trưởng? Đệ tử cho rằng đoạn huấn thị này có lẽ là vô thượng diệu pháp để duyệt kinh. Nhưng nói: “Chẳng khởi phân biệt, dù văn hay nghĩa đều nhất loạt chẳng bận tâm đến” có phải là dốc cạn lòng thành kính, nhận biết văn tự cho rõ ràng, âm thanh niệm đọc cho thuần thục trọn vẹn giống như các bà cụ già niệm kinh hay chăng? Bởi lẽ, trước đây đệ tử hay lo ra, nếu chiếu theo cách đọc không phân biệt chẳng quan tâm đến văn nghĩa thì chắc là sẽ khó thể tâm đắc, chẳng sanh pháp hỷ. Vì thế, mỗi khi con đọc A Di Đà Kinh, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, liền miệng tụng, chú tâm nơi sự trang nghiêm của cõi Cực Lạc, sự từ bi của đức Phổ Hiền tràn ngập cõi lòng, pháp hỷ tràn trề. Kế đó, con nghĩ cách đọc như vậy chưa chắc đã khỏi rớt vào lối mòn phàm tình vọng tưởng, dò đoán, suy lường. Dẫu cho có sở đắc nhỏ nhoi, nhưng ví như đối với nước bốn biển mênh mông bát ngát lại dùng tay vốc nước, đâm ra chỉ được một chút tẹo, đúng như thầy đã dạy “làm sao có thể ngầm hợp ý Phật, viên ngộ ý chỉ của kinh” cho được! Đáp: Nếu văn lẫn nghĩa đều rõ ràng thì hiểu rõ [từng câu, từng đoạn] đâu có trở ngại gì! Chỉ là chớ nên đặc biệt sanh tâm động niệm muốn thấu hiểu, chứ không phải là chỉ đọc, không được phép hiểu rõ! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Công khóa hằng ngày của đệ tử là niệm Phật hai tiếng, niệm Quán Âm một tiếng, hễ bận thì ngưng niệm Quán Âm. Bữa nào tâm cảnh thanh tịnh thì niệm Phật tương ứng nhất (đối với chữ Ứng (應), đệ tử chuyên đọc theo giọng Khứ Thanh, bản khắc kinh Hoa Nghiêm ở Hàng Châu ghi đọc theo giọng Bình Thanh (tức Ưng), chưa biết đọc theo cách nào đúng hơn?) Đáp: Đọc Bình Thanh (tức Ưng) thì có nghĩa là tâm và Phật tương ứng, đọc giọng Khứ Thanh (Ứng) thì có nghĩa là cảm ứng đạo giao. Hai âm ấy đọc theo cách nào cũng được. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Xưa kia tại Thượng Hải, đứa con gái thứ ba của con chết yểu, đau tiếc không sao nguôi được, do vậy tạm làm công đức cho cháu. Tiếp đó được thầy ban lời an ủi, khuyên nhủ, bảo là “nương nhờ sức Tam Bảo, con gái ông sẽ được sanh Tịnh Độ”. Đệ tử liền quyết định tin tưởng chẳng nghi, thôi than khóc vì chuyện “lá vàng” [phải khóc cho lá xanh] nữa, nỗi buồn nhanh chóng ngưng dứt. Trong Lâu Các Chú Kinh có dạy: “Chép chú ngữ này để lên thân người chết, người chết liền được sanh về Tịnh Độ”. [Do vậy], con thường in những tấm chú này tặng cho thân hữu để họ dùng kèm thêm trong đồ liệm… Dụng tâm như thế có phải cũng là một phương pháp tự độ, độ tha, chân thật thọ dụng hay chăng? Không rõ con làm như vậy có bị lệch lạc, sai lầm hay chăng? Đáp: Chú lực chẳng thể nghĩ bàn, tâm lực chẳng thể nghĩ bàn. Nếu tặng cho kẻ hờ hững, hời hợt thì lợi ích cũng sẽ bị giảm nhẹ theo! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Con trộm thấy có tăng sĩ chưa từng phải lo liệu [xây cất] chùa miếu, ý vẫn cho rằng nếu hoàn thành được một ngôi chùa để tự lợi, lợi tha, bèn có thể chuyên tâm niệm Phật, một dạ sanh Tây. Đến khi nhân duyên hợp đủ, chùa miếu đã hoàn thành, dần dần lại tham mến chùa miếu, mưu tính tích cóp sản nghiệp, nắm níu quẩn quanh, chần chừ, lầm lỡ chuyện vãng sanh. Đấy mới chỉ là nêu một trường hợp làm thí dụ. Những kẻ khác thì muốn thông giáo lý, trở thành nhà trước tác, và kẻ thế tục thì mong cầu nhà cửa dư dả, con cháu hiển đạt v.v… Những điều này đều là đệ tử tự lượng thân phận, sợ sẽ giẫm theo vết xe đổ, nguyện tùy duyên niệm Phật chẳng mong tạo tác. Tuy chưa đạt đến mức ấy, nhưng thật lòng muốn gắng công, có được hay chăng? Đáp: Được. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Hành giả lâm chung sanh Tây, cưỡi đài hoa sen thì ngồi, hay quỳ, hay đứng? Đáp: Ngồi. Hỏi: Có lúc muốn làm một chuyện, tự cảm thấy dường như cũng mang lòng từ mẫn, mà hình như cũng ôm lòng ghen ghét, hoặc là mang lòng hâm mộ quyền thế, tham lợi. Chẳng làm thì sợ tổn hại đến lòng từ mẫn, làm thì sợ đọa vào tình kiến, ngay trong lúc ấy chẳng tự biết ý niệm là thiện hay ác, là nặng hay nhẹ! Lại chẳng thể cân nhắc sự duyên lợi - hại, hoãn - gấp. Lại không có thiện tri thức để quyết đoán thì nên xử trí như thế nào là hay nhất? Đáp: Gặp chuyện, nên lấy nghĩa làm chuẩn. Nếu không, sẽ trở thành người không có chủ ý gì hết! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Một vị Tăng nói đến nhân quả, chăm lo chùa miếu, vì nhằm lợi lạc tứ chúng mà tịnh tu, nhưng ý niệm ta - người, lợi danh khá nặng. Một vị Tăng khác nghiêm trì giới hạnh, chuyên niệm Phật, hồi hướng cầu cho các chúng sanh sẽ được vãng sanh, ý niệm ta - người, lợi danh rất nhẹ, [so ra hai người ấy] hơn - kém ra sao? Đáp: Người sau trỗi hơn. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Có người cho rằng “khuyên người niệm Phật cầu sanh là Chủ (chánh yếu), còn tự mình tu là Trợ”; có người nghĩ “tự tu là Chủ, khuyên người khác là Trợ”. Cả hai đều phát xuất từ lòng chí thành, nhưng công đức nào vượt trỗi hơn? Đáp: Quan điểm sau tốt hơn quan điểm trước. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Đệ tử thường mộng thấy niệm Phật bay lên, thường bị một căn nhà trên đỉnh lợp toàn bằng pha lê ngăn trở, hễ thân thể bay lên thì căn nhà ấy và lớp pha lê phủ trên nóc đều cùng bay theo. Con muốn vượt thoát ra khỏi lớp pha lê ấy để vùng vẫy trong hư không liền chẳng được như ý, chưa biết là nghiệp chướng gì? Đáp: Giấc mộng ấy cũng chẳng dễ có. Nếu vượt thoát ra được thì tốt, Nhưng chỉ nên nhất tâm niệm Phật, chớ nên chuyên mong tưởng thực hiện được giấc mộng ấy để khỏi do lợi ích mà đâm ra bị tổn hại. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Xưa kia Văn Chánh Công thường nói: “Phàm làm người kỵ nhất là lo nghĩ ngược ngạo tới sự truân chuyên, trắc trở mai sau, nhưng người đọc sách mắc bệnh này rất nhiều, đấy đều là dấu hiệu chứng tỏ bạc phước”. Lời nói ấy có đích xác hay không? Đáp: Đích xác! Hỏi: Lại nữa, trong bài Gia Huấn của Lục Phóng Ông có câu: “Cư hương, dĩ khốn úy, bất nhược nhân, vi triết” (Sống trong làng thì phải khôn ngoan xử sự bằng thái độ ta là kẻ kém cỏi, e dè, chẳng bằng ai). Nên giải nói như thế nào, xin thầy khai thị? Đáp: Đã biết ta kém cỏi, biết e dè, đã biết ta chẳng bằng người, sao dám cùng người khác tranh cãi? Kẻ nào tranh cãi đều không có ba tâm ấy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi Tổ Sư Ấn Quang: Hỏi: Vợ chồng đệ tử tập khí xấu xa sâu nặng, sửa đổi chẳng dễ, do vậy sanh ra những đứa con hoang đàng, biếng nhác, ngang ngạnh, phô trương, thật chẳng có hy vọng gì chúng sẽ nên người. Con tính trong lúc này, cứ nghĩ sẵn trước là chúng sẽ bị đọa lạc trong tương lai, [tự mình] buông những hoài bão suông, tự điều chỉnh sao cho thích nghi. Nếu quả thật sau này có ngày đọa lạc, ly tán thì do đã suy nghĩ kỹ càng, chín chắn, sẽ chẳng đến nỗi hứng chịu phiền não, tiếc hận lớn lao. Lối nghĩ tưởng như thế có đáng nên vâng giữ hay chăng? Đáp: Nên vâng giữ! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi về "Thư trả lời cư sĩ Hương Nghiêm của Triệt Ngộ đại sư": Hỏi: Phần trên nói “hãy nên tin sâu, thấu hiểu chắc thật”. Phần dưới nói “chỉ nên giữ sao cho niệm ấy thường hiện tiền thì sẽ đạt được hiệu nghiệm chân thật”, dường như có nghĩa là sau khi đã tin sâu, thấu hiểu chắc thật thì mới có hiệu nghiệm chân thật? Đáp: Đây là tin và ngộ. Hỏi: Như vậy là chỉ nên giữ cho niệm ấy thường được hiện tiền? Đáp: Đấy là thực hành. Hỏi: Nhưng chưa đủ lòng tin sâu xa, hoặc chưa đạt đến mức thấu hiểu chắc thật, dẫu cho niệm ấy thường hiện tiền vẫn tự chẳng thể có hiệu nghiệm chân thật ư? Nếu vậy thì người tin sâu, thấu hiểu chắc thật chẳng có mấy ai, mà cũng chẳng thấy được nhiều kẻ đạt được hiệu nghiệm chân thật cho mấy! Đáp: Chưa thể tin hiểu mà thường hiện tiền như thế cũng chẳng nhiều nhặn gì! Nhưng chất phác niệm đến chỗ tột cùng thì cũng có thể đạt đến địa vị ấy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi về "Thư trả lời cư sĩ Hương Nghiêm của Triệt Ngộ đại sư": Hỏi: “Nhất niệm hiện tiền thì nhất niệm tương ứng, niệm niệm hiện tiền thì niệm niệm tương ứng” bốn câu này thì kẻ sơ cơ làm được hay phải là người tu lâu mới làm được? Đáp: Sơ cơ có sự tương ứng của sơ cơ, tu lâu có sự tương ứng của tu lâu, há nên chấp chết cứng? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi về "Thư trả lời cư sĩ Hương Nghiêm của Triệt Ngộ đại sư": Hỏi: Chữ “niệm” trong “nhất niệm hiện tiền” và “niệm niệm hiện tiền” cùng với chữ Tâm trong “tâm Phật” ý nghĩa có giống nhau hay không? Đáp: Tâm và niệm chỉ là một thứ. Chẳng qua ước theo sự thường còn mà gọi là Tâm, ước theo sự hiện khởi mà gọi là Niệm. Hỏi: “Ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm...” bốn câu này có phải là nói về Tánh Đức? Còn “một niệm hiện tiền, một niệm tương ứng…” bốn câu này có phải là nói về Tu Đức hay chăng? Đáp: Cả hai đều là Tu Đức, bởi lẽ “ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm” chính là điều sẽ đạt được bởi công phu. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Cư Sĩ Niệm Phật thỉnh hỏi về "Thư trả lời cư sĩ Hương Nghiêm của Triệt Ngộ đại sư": Hỏi: “Ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm, toàn tâm chính là Phật, toàn Phật chính là tâm”. Thế nào gọi là tâm? Thế nào gọi là Phật? Nếu chỉ giải thích sơ sài thì “hiện tiền khởi niệm là tâm”, chẳng biết có thích đáng hay chăng? Đáp: Cái tâm niệm Phật hiện tiền chính là tâm. Vị Phật được niệm trong hiện tiền là Phật, tức là vị Phật được tạo bởi tự tâm. Vì thế nói: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Hỏi: Bốn câu này ý nghĩa có tương tự bốn câu “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc” của Tâm Kinh hay không? Đáp: Sắc - Không của Tâm Kinh so ra rộng rãi hơn ý nghĩa “làm, là” trong Quán kinh. “Làm, là” trong Quán Kinh càng thân thiết hơn “bất dị, tức thị” (chẳng khác, chính là) của Tâm Kinh. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 3 Hỏi: Thiên Phật Y có phải là tổ y thêu hình tượng Phật, còn Long Hoa Y là [ca-sa] thêu rồng thêu hoa hay không, xin hãy rủ lòng dạy bảo? Đáp: Thiên Phật Y chính là y do một ngàn vị Phật trong Hiền Kiếp chế ra, tức là tổ y năm điều hay bảy điều chúng ta thường đắp. Kẻ vô tri không hiểu biết bèn thêu hình tượng Phật lên y, tội đáng chết muôn vàn! Kẻ ngu chẳng biết tội lỗi, ngược ngạo tưởng đó là sang trọng! Lại còn thêu rồng, thêu hoa! Đường đường là một vị tỳ-kheo lại học theo thói nữ nhân, tư cách kẻ ấy chẳng đáng giá nửa đồng! Điều thứ nhất trong tác phẩm Chánh Ngoa Tập của Liên Trì đại sư đã luận về chuyện này! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 2 Kinh Kim Cang giảng về pháp môn tâm địa, nên nói: “Phàm hữu sở tướng, giai thị hư vọng” (Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng). Ông chẳng biết đọc những câu thuộc phần trước hai câu ấy trong kinh văn, chỉ dựa vào hai câu này để rồi nghi ngờ phép niệm Phật vãng sanh Tây Phương, chẳng biết có hữu tướng tam-muội và vô tướng tam-muội. Phàm rất nhiều kinh thuộc Bát Nhã Bộ cũng như những điều được nói trong Thiền tông đều là dựa theo vô tướng tam-muội để giảng rõ. Phàm các kinh Đại Thừa giảng cặn kẽ về nhân tu nhân chứng quả và khai thị niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì đều dựa theo hữu tướng tam-muội để giảng rõ. Ông hoàn toàn chẳng biết đạo lý thế gian, huống hồ đạo lý xuất thế gian; nhưng vẫn tự cho rằng mình thông minh, bàn luận Phật pháp bừa bãi! Muốn chẳng chuốc lấy ác quả, há có được chăng? Ông đã có Tịnh Độ Thập Yếu (sách này rất sâu), Gia Ngôn Lục (sách này rất nên đọc kỹ càng), sao chẳng đọc kỹ mà cứ một mực coi những lời lẽ vô tri vô thức của bọn ngoại đạo là đúng vậy? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 1 Nếu có tượng Phật, hãy nên hướng về Phật lễ bái. Không có tượng Phật thì lễ bái thầm trong tâm, hoặc hướng về phương Tây lễ bái. Có hương, đèn cố nhiên là tốt, nhưng không có cũng chẳng sao! Tùy theo khả năng của từng người mà làm, há nên chấp hẹp hòi nơi pháp ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 1 Niệm Phật nhớ số là để ngừa giải đãi. Nếu không có tâm giải đãi thì không nhớ số cũng được. Để nhớ số cũng có thể không dùng tới tràng hạt. Lúc thoạt đầu nên dùng tràng hạt để niệm [Phật] một tiếng đồng hồ, sau đó niệm nhanh hay chậm đều giống như vậy. Niệm một khắc, nửa tiếng, hay một tiếng đều có thể biết được số câu niệm Phật. Hơn nữa, cách niệm Phật nhớ số trong Văn Sao là cách nhiếp tâm hiệu quả nhất, hãy đọc sẽ tự biết. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 1 Trừ Phật pháp ra, tất cả các môn đều là tà giáo, chứ nào phải chỉ có Thanh Tịnh Môn? Các loại tà giáo đều lấy luyện đan vận khí làm chánh đạo, nhưng họ lấy niệm Phật, niệm kinh, khuyến thiện để làm căn cứ dẫn dụ người khác vào đạo của họ. Đồng Thiện Xã cũng là ngoại đạo. Ở đây nói “đừng học theo Tế Công” chỉ là nói về kẻ ngoại đạo, chớ nên nhất loạt bao gồm hết. Cầu cơ cũng không phải là chánh pháp, phần nhiều là do linh quỷ giả mạo. Đối với chuyện Tăng, ni uống rượu, ăn thịt thì [bọn họ] chính là chủng tử địa ngục còn chưa thể cứu được chính mình. Cớ sao lại viện vào hành vi của bọn chúng để chỉ trích Phật giáo vậy? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 1 Ngoại đạo giữ phương cách bí mật là vì sợ người khác biết rõ pháp của chúng nên không cho người khác niệm Phật ra tiếng. Trong Phật pháp, không có thuyết bí mật nào! Niệm Phật hãy tùy theo khí phận, sức lực của mỗi người lớn hay nhỏ mà niệm lớn tiếng hay niệm nhỏ tiếng. Niệm ra tiếng lâu dài sẽ bị tổn khí; vì thế, lại cần phải tĩnh tọa niệm thầm. Bất luận niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm, nói chung là chính mình phải nghe tiếng niệm Phật của chính mình. Niệm thầm cũng vẫn có tiếng, vì thế cũng cần phải nghe. Nếu thường nghe, tâm tự quy nhất. Đấy chính là cách niệm Phật hay nhất. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 9: Vấn đáp, thư 1 Hiện tại, sát kiếp tràn ngập, toàn cầu đều không có chỗ nào là yên vui cả, mà cũng chẳng ai được yên vui. Nguyện đồng bào trong ngoài nước cùng niệm thánh hiệu Quán Âm, cùng lấy tâm cứu khổ cứu nạn của Quán Âm làm tâm mình, cùng lấy sự nghiệp lợi người lợi vật của Quán Âm làm sự nghiệp của mình thì ý niệm ta - người đều không còn, chuyện đấu tranh tự dứt, tự có thể cùng hưởng thái bình, cùng vui lẽ thường. Dẫu cho định nghiệp khó chuyển, bị táng thân mất mạng, vẫn có thể nương cậy sức Bồ Tát để vãng sanh Tây Phương thì kẻ do túc nghiệp bị mất mạng cũng sẽ được nhờ Phật lực thoát khỏi biển khổ. Các đồng bào trong ngoài nước của tôi xin hãy cùng xét cho tấm lòng ngu thành này! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 8: Đa dạng, thư 4 Quán Thế Âm Bồ Tát từ vô lượng kiếp trước thành Phật đã lâu, hiệu là Chánh Pháp Minh, nhưng bi tâm vô tận, từ thệ khôn cùng. Do vậy, lại hiện thân Bồ Tát và những thân trời, người, phàm, thánh v.v… trong mười phương thế giới để thí vô úy (ban phát sự không sợ hãi) nhằm rủ lòng cứu vớt. Phẩm Phổ Môn nói: “Nên dùng thân nào để độ được, liền hiện thân ấy để thuyết pháp”. Chẳng những hiện thân hữu tình, mà ngay cả núi, sông, thuyền, bè, cầu bến, đường sá, dược thảo, cây cối, lầu đài, điện, gác cũng tùy cơ ứng hiện. Nói chung là Bồ Tát chú trọng lìa khổ ban vui, chuyển nguy thành an. Phàm ai gặp đao binh, nước, lửa, bệnh ngặt, thú dữ, oán gia đối đầu, ác quỷ, rắn độc, đủ mọi nỗi nguy hiểm, nếu chí thành xưng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát liền có thể được Bồ Tát gia bị, chuyển nguy thành an. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 8: Đa dạng, thư 3 Nếu vẫn lầm lạc coi Quang là tri thức, xin hãy trực tiếp hướng đến Phật Học Thư Cục ở Thượng Hải hoặc Hoằng Hóa Xã thuộc chùa Báo Quốc ở Tô Châu để thỉnh Ấn Quang Văn Sao, Ấn Quang Gia Ngôn Lục về đọc, sẽ đạt được lợi ích thật sự gấp trăm lần so với gởi thư đến. Tiến hơn nữa là đọc Tịnh Độ Ngũ Kinh và các trước thuật về Tịnh Độ của cổ đức thì chắc chắn sẽ có thể đem nhân địa tâm khế hợp với quả địa giác vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 8: Đa dạng, thư 3 Ấn Quang là một ông Tăng tầm thường, chẳng có hiểu biết gì; mười mấy năm qua thường có những người tưởng lầm Quang là thiện tri thức, thừa dịp bưu chánh thuận tiện, nườm nượp gởi thư tới. Quang chẳng tự lượng, hễ thư gởi đến liền trả lời. Mùa Đông năm ngoái, do ban đêm giảo chánh sách dưới ánh đèn điện, mắt bị tổn thương nặng. Từ đấy, hễ ai gởi thư đến đều nhắc nhở sau này đừng gởi thư tới nữa, nhưng vẫn không có hiệu quả gì! Đến nay, số người gởi thư tới so với trước kia chưa hề giảm! Cho nên nay tôi bất đắc dĩ đăng thông cáo trên hai báo Tân Thân và Phật Học Bán Nguyệt San để mong ai nấy đều biết: Nếu từ nay vẫn gởi thư tới, quyết chẳng bóc ra, cũng chẳng phúc đáp. Nếu có chuyện gì quan trọng gởi tới bằng thư bảo đảm, tôi sẽ để nguyên thư gởi trả lại. Thư thông thường sẽ quăng vào giỏ đựng giấy vụn để mong tịnh tâm, dưỡng mắt, hòng giữ được sức nhìn để còn thấy được ánh sáng mặt trời. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 8: Đa dạng, thư 3 Bởi lẽ con người chết đi, hơi nóng từ dưới dồn lên trên thì siêu thăng, từ trên dồn suông dưới thì đọa lạc. Nếu toàn thân đều lạnh, đỉnh đầu vẫn ấm thì siêu phàm nhập thánh. Sanh về Tây Phương là siêu phàm nhập thánh tối thắng, cho nên nói là “đảnh thánh”. Nếu hơi nóng đọng nơi trán và mắt là sanh trong đường trời. Ngực vẫn nóng là sanh trong nhân đạo. Bụng còn ấm là sanh trong ngạ quỷ đạo, đầu gối ấm là sanh trong súc sanh đạo, bàn chân ấm là sanh trong địa ngục đạo. Do toàn thân đã lạnh, chỉ còn có chỗ ấy là ấm để làm chuẩn. Nhưng người niệm Phật, nếu bình thường có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, lâm chung lại được quyến thuộc tốt lành trợ niệm, chẳng bị phá hoại bởi quyến thuộc xấu hèn tắm rửa, thay quần áo sẵn, khóc lóc, hỏi chuyện, mù quáng an ủi v.v… thì chắc chắn sẽ có thể vãng sanh. Khi lâm chung, Huệ Bính bị cấm khẩu, chắc sẽ có kẻ do vậy bèn hoài nghi. Chuyện đỉnh đầu còn ấm là một chứng cứ; huống chi lại có những chuyện như vẻ mặt tươi tắn v.v… ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 8: Đa dạng, thư 2 May mắn là ông Trương trải đời đã lâu, thường gặp cảnh tai họa, loạn lạc, chẳng tránh khỏi thường ôm lòng chán ngán. Khéo sao gặp được Thường Huệ Dương đem pháp niệm Phật cầu sanh Tây Phương khuyên nhủ, bèn như mạ gặp hạn đã lâu chợt gặp trận mưa dầm ngọt ngào, liền bừng bừng tăng trưởng, thế khôn ngăn được! Tuy chưa hiểu Phật pháp thật rõ ràng nhưng đã thấy rành mạch, sâu xa cái tâm cong vẹo của bọn Trình - Châu - Hàn - Âu; đâm ra tín tâm do đấy càng tăng thêm. Từ khi được nghe pháp môn Tịnh Độ trở đi, giữ chặt thời khắc, chưa đầy hai năm liền được chánh niệm vãng sanh, cũng đáng gọi là bậc trượng phu dũng mãnh! Đến khi lâm chung, ông ta bị trúng phong không nói được; ấy chính là vì ác nghiệp trong đời trước đáng lẽ phải hứng chịu trong đời kế tiếp sau khi đã chết đi, nhưng do công đức tu trì trong đời này mà chuyển báo nặng trong đời sau thành báo nhẹ trong đời này nhằm giải quyết cho xong! Chết rồi vẻ mặt tươi tắn, xác thân mềm mại, mặt lộ vẻ mỉm cười, đỉnh đầu nóng rực tay [của người sờ vào]. Những cảnh tượng ấy đều là tướng lành vãng sanh, nhưng vẻ mặt tươi sáng, thân xác mềm mại, mặt lộ vẻ mỉm cười thì người sanh lên cõi trời cũng có thể đạt được như vậy. Chỉ có chuyện đỉnh đầu còn nóng thì người sanh lên cõi trời không hề có chuyện này! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 8: Đa dạng, thư 2 Người thường niệm Phật nếu lúc lâm chung bị quyến thuộc vô tri tắm rửa, thay quần áo sẵn và hỏi han mọi chuyện, cũng như khóc lóc v.v… Do những nhân duyên ấy phá hoại chánh niệm liền khó được vãng sanh. Vì thế, người niệm Phật lúc thường ngày ắt phải bảo ban quyến thuộc trong nhà đều niệm thì khi chính mình lâm chung bọn họ đều biết trợ niệm. Lại do thường nói lợi ích của trợ niệm khi lâm chung và những họa hại do khóc lóc, bày vẽ mù quáng, họ sẽ chẳng đến nỗi vì lòng hiếu mà khiến cho người thân vẫn phải hứng chịu nỗi khổ sanh tử lớn lao, sẽ ngay trong đời này hưởng lợi ích lớn lao vãng sanh Tây Phương. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 8: Đa dạng, thư 1 Người niệm Phật nếu nhất tâm niệm Phật, chẳng nghĩ đến gia nghiệp, con cái trong thế gian, quyết định sẽ được Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh. Bất luận tu trì đã lâu hay mới tu, thậm chí kẻ tới lúc lâm chung mới được bạn lành khai thị liền nhất tâm niệm Phật dẫu chỉ niệm được mười tiếng liền mạng chung thì cũng được vãng sanh. Bởi lẽ, trong bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, nguyện thứ mười tám là: “Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu ta chí tâm tin ưa, cầu sanh về nước ta, thậm chí mười niệm, nếu chẳng được sanh, ta không giữ ngôi Chánh Giác”. Do nhân duyên ấy, kẻ thường ngày chẳng hề niệm Phật, lâm chung được bạn lành khai thị, mọi người trợ niệm, cũng có thể vãng sanh. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 8: Đa dạng, thư 1 Bởi lẽ con người sắp chết, hơi nóng từ dưới dồn lên trên thì siêu sanh; từ trên dồn suông dưới sẽ đọa lạc. Nếu toàn thân đã lạnh, chỉ còn đỉnh đầu ấm, ắt sanh về Tây Phương, vào trong thánh đạo. Mắt và trán nóng là sanh trong đường trời. Ngực nóng là sanh trong nhân đạo. Bụng còn ấm là sanh trong ngạ quỷ đạo, đầu gối ấm là sanh trong súc sanh đạo, bàn chân ấm là sanh trong địa ngục đạo. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 8: Đa dạng, thư 1 Mặc cho anh kiến địa cao siêu, công phu sâu đậm, công đức to tát, trí huệ lớn lao; nếu Kiến Tư Hoặc trong tam giới chưa hết, quyết chẳng thể vượt ra ngoài tam giới để liễu sanh tử được! Chỉ có pháp môn Niệm Phật là hoàn toàn cậy vào nguyện lực đại từ bi của A Di Đà Phật. Nếu đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, chí thành khẩn thiết niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, bất luận lợi căn hay độn căn, Phiền Hoặc dầy hay mỏng đều có thể ngay trong đời này vào lúc lâm chung được nương theo Phật từ lực đích thân rủ lòng tiếp dẫn mà vãng sanh Tây Phương. Đã được vãng sanh rồi, Kiến Tư phiền não chẳng đoạn mà tự đoạn, bởi cảnh duyên trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thù thắng, mỗi mỗi đều có thể tăng trưởng công đức, trí huệ của con người, trọn chẳng khiến cho con người dấy lên tham - sân - si. Đấy chính là pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, chẳng thể dùng những giáo lý theo đường lối thông thường để luận định pháp môn Tịnh Độ được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 8: Đa dạng, thư 1 Ý nghĩa lớn lao của tên gọi tòa nhà này đã tuyên bày rồi. Nhưng muốn lợi người thì trước hết phải đánh đổ những ham muốn xằng bậy của chính mình. Nếu lời lẽ chẳng phù hợp với việc làm còn khó thể cảm hóa vợ con, huống là xóm giềng ư? Nếu có thể chân thành không dối trá thì dẫu là dị loại vẫn còn có thể cảm ứng được, huống hồ con người là kẻ cùng loài ư? Vì vậy, hết thảy pháp đều lấy thân làm gốc, nên nói: “Thân chẳng hành đạo thì vợ con sẽ chẳng hành đạo. Nếu kẻ nào chẳng giữ đạo thì sẽ chẳng thể làm cho vợ con giữ đạo được”. Muốn tán trợ sự sanh thành trưởng dưỡng của trời đất, muốn tỏa rạng đức ngấm ngầm của tổ tông, muốn lập khuôn mẫu tốt đẹp cho con cháu, mà chính mình chẳng chú trọng tận tụy thực hiện thì sẽ như kẻ nghèo không có rẻo đất nào để cắm dùi lại xằng bậy mong phú quý trùm lấp cõi đời, chỉ trở thành si tâm vọng tưởng, trọn chẳng thể trở thành sự thực được! Hãy răn dè nhé! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 7: Bạt, thư 6 Đến khi lâm chung, bất luận tu đã lâu hay mới tu, đều cần có quyến thuộc và tịnh hữu trợ niệm ngõ hầu chánh niệm rạng rỡ, cảm ứng đạo giao, được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Dẫu cho kẻ thường ngày chẳng hề niệm Phật, khi lâm chung thỉnh thiện hữu khai thị và trợ niệm thì cũng có thể vãng sanh. Do vậy biết rằng chuyện trợ niệm là khẩn yếu nhất! Trong lúc thường ngày, người tu Tịnh nghiệp hãy nên nói với gia quyến về lẽ lợi - hại để họ hiểu rõ không nghi, quyết chẳng đến nỗi khi lâm chung gia quyến sẽ do tình kiến thế tục mà phá hoại chánh niệm. [Như vậy thì] đối với kẻ còn lẫn người mất đều có lợi ích thật sự. Các sách Niệm Phật Sức Chung Tân Lương và Sức Chung Tu Tri, dụng ý lẫn lời lẽ đều châu đáo, quả thật đã bảo vệ cho hành nhân thành tựu được đại sự nhân duyên. Nếu chịu lần lượt lưu thông ngõ hầu hết thảy những người cùng hàng đều biết tới lợi ích đó thì công đức ấy chỉ có đức Phật biết được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 7: Bạt, thư 5 Pháp môn Niệm Phật lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông, tín - nguyện để dẫn đường, niệm Phật làm chánh tu. Có người chỉ chuyên cầu nhất tâm chẳng nhắc đến tín nguyện và kẻ chú trọng khai ngộ, chẳng cầu vãng sanh đều là những người chẳng biết tông chỉ của pháp Niệm Phật, bỏ Phật lực để cậy vào tự lực, coi thường Phật trí, khoe khoang trí mình, tự lầm, lầm người lớn lắm! Tâm niệm Phật ắt cần phải khẩn thiết chí thành như con nhớ mẹ; dẫu có cảnh nào khác đưa đến trọn chẳng thể làm cho cái tâm nhớ mẹ ấy bị quên mất được! Trong khi niệm Phật hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm, đều phải lắng tai nghe kỹ, chẳng để cho một câu một chữ nào miệng chỉ liến láu niệm qua. Cách niệm “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” như Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói chính là pháp vừa niệm vừa lắng nghe như thế đấy. Nếu có thể làm đúng như vừa nói thì chắc chắn sẽ được vãng sanh. Nếu tìm cầu sự khéo léo, chắc chắn sẽ biến thành vụng về to lớn, tự lầm, lầm người, gây hại há có thể nào cùng cực được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 7: Bạt, thư 4 Tam Học Giới - Định - Huệ là căn bản của người học Phật và tu Tịnh nghiệp, nhưng Giới lại càng thiết yếu. Vì thế, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh khai thị Tịnh nghiệp tam phước như sau: 1) Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện nghiệp. 2) Hai là thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi. 3) Ba là phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả. Hai điều đầu phần lớn thuộc về Giới Học, điều thứ ba trọn đủ Tam Học. Đầy đủ ba món phước này thì Tịnh nghiệp thành tựu lớn lao, vãng sanh Thượng Phẩm. Vì thế, sau năm kinh Tịnh Độ, lại in kèm thêm phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm và bốn thứ giáo huấn thanh tịnh rạng ngời (Thanh Tịnh Minh Hối ) của kinh Lăng Nghiêm để mong hành giả Tịnh nghiệp, đối với Luật Nghi Giới thì gìn giữ sao cho thân chẳng phạm, tiến lên mức nữa là đắc Định Cộng Giới, chế ngự tâm không khởi [những vọng niệm], tiến vào Đạo Cộng Giới siêu tình ly niệm, đoạn Hoặc chứng Chân. Nhưng dẫu đạt được hai thứ lợi ích thật sự là Định Cộng Giới và Đạo Cộng Giới thì vẫn phải dè dặt, kinh sợ, chấp trì Luật Nghi Giới để tự lợi, lợi tha, duy trì khuôn mẫu pháp đạo, ngõ hầu kẻ giải thoát rỗng tuếch sẽ không có lý do lấp liếm rằng họ đang tu theo Đại Thừa để rồi hoại loạn Phật pháp khiến cho chúng sanh bị lầm lạc, nghi ngờ! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 7: Bạt, thư 2 Hương thơm công đức phước huệ, ánh sáng từ bi nhiếp thọ của Như Lai theo chiều dọc suốt cả ba đời, theo chiều ngang trọn khắp mười phương đều xông chiếu trọn khắp. Phàm phu đầy dẫy triền phược trọn chẳng nghe thấy, như kẻ mắt mù mũi điếc giữa trưa đi ngang rừng Chiên Đàn, trọn chẳng ngửi được mùi hương Chiên Đàn, chẳng thấy được ánh sáng mặt trời. Nếu sanh lòng chánh tín, thường niệm Phật hiệu, do được vạn đức hồng danh của Như Lai ngầm hun đúc, gia bị, nên nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận, phước cao, sẽ tự có thể tùy theo khả năng của chính mình mà đắc tam-muội nên thấy nghe đôi chút [hương công đức, ánh sáng từ bi của Phật], hoặc chứng Vô Sanh Nhẫn nên thấy nghe lớn lao, cho tới dùng sự trang nghiêm của Phật để tự trang nghiêm. Thầy Giám Viện là đại sư Diệu Chân mong những ai đến đây đều cùng được nhiễm mùi hương của Phật, cùng được hưởng quang minh của Phật, cậy tôi đề bốn chữ này và viết lời bạt để thưa với bậc thông sáng mai sau. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 7: Bạt, thư 1 Từ xưa đến nay đã hơn hai trăm năm, tất cả điện đường [Thiền Viện Tức Lai] đều nghiêng ngửa, hư nát. Nạp tăng tôi thẹn phận hậu học, gắng sức tu bổ. Các phòng đã sửa sang đại lược như mới, chỉ còn đại điện chưa khởi công. Nếu chẳng xoay sở triệt để, ắt sẽ đến nỗi chẳng mấy chốc sụp đổ. Tính muốn tạo dựng lầu gác huyễn hóa, ắt phải cậy sức của mọi người chống đỡ. Do vậy, viết sớ giãi bày tấm lòng ngu thành, quyên mộ khắp đàn-na mười phương, khẩn cầu phát Bồ Đề tâm, hành phương tiện sự, mở toang bảo tạng, vun bồi ruộng phước, ngõ hầu điện báu Đại Hùng sớm có ngày xây dựng thành công, mãn nguyệt kim dung thường trụ trải kiếp. Sẽ thấy Phật, trời che chở như mây nhóm, tốt lành, mừng vui đua nhau đưa đến, thân hiện tại được hưởng Ngũ Phước như Cơ Tử đã luận, tước vị trâm anh, hậu duệ nhận lãnh trăm điều tốt lành như đã nói trong bài giáo huấn của Y Doãn. Nếu như chẳng xót của, sẽ cùng ghi phương danh. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 6: Sớ, thư 6 Mùa Hạ năm nay lại được các vị cư sĩ lân cận mở mang đường hai bên và xây cửa chùa [Nam Thiên Trúc Diễn Phước Tự], tu bổ am tranh. Các cư sĩ thuộc hội Phật học cũng bằng lòng tán trợ chuyện xây cất đại điện. Do vậy, cậy Quang viết sớ, quyên mộ khắp các đàn tín để mong cho đạo tràng hơn ngàn năm của Bồ Tát [Quán Thế Âm] lại được trùng hưng, ngõ hầu đạo thích hợp khắp ba căn, pháp liễu thoát ngay trong đời này sẽ được lưu truyền rộng rãi. Khẩn cầu mười phương quan viên cao quý, bậc đại thân sĩ, thương gia giàu có, hết thảy thiện tín đều cùng phát Bồ Đề tâm, hành phương tiện sự, mở toang bảo tạng, vun bồi ruộng phước, chở vàng, tải gạo, xoay vần khuyên bảo, quyên mộ lẫn nhau, ngõ hầu điện báu thênh thang sớm có ngày xây dựng thành công, mãn nguyệt kim dung thường trụ trải kiếp, liên xã mở mang, tông phong chấn hưng, Phật pháp hưng thịnh, thiên hạ thái bình. Sẽ thấy Phật, trời che chở như mây nhóm, tốt lành, mừng vui đua nhau đưa đến, giàu, thọ, khỏe mạnh, bình yên, thân hiện tại được hưởng Ngũ Phước như Cơ Tử đã luận, tước vị trâm anh, hậu duệ nhận lãnh trăm điều tốt lành như đã nói trong bài giáo huấn của Y Doãn. Chỉ mong ai nấy đều chẳng tiếc nuối, cùng ghi danh thơm. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 6: Sớ, thư 5 Pháp luân muốn chuyển, phải no lòng, Không gạo, Thiền sâu khó thể mong. Nếu chịu bố thí giúp đạo nghiệp, Phước thọ tăng trưởng quyết triền miên, Chùa Vạn Thọ núi Đạo Tràng là đại đạo tràng do vị cao tăng thời Ngũ Đại là thiền sư Phục Hổ Chí Phùng sáng lập. Thiền sư cất am tu hành trên đỉnh núi, một bữa ngồi yên, hào quang sáng rực bầu trời. Nhân sĩ bốn phương tưởng [trên núi] bị hỏa hoạn; ngày hôm sau đến xem, thấy Sư thâm nhập tam- muội, biết là Sư phóng đại từ quang. Do vậy, thiện tín bị cảm hóa, ai nấy đều bỏ ra tịnh tài, tạo dựng chùa miếu, trở thành đại tùng lâm, đều nói Sư là Địa Tạng Bồ Tát hóa thân. Vì thế, lại gọi núi ấy là Tiểu Cửu Hoa. Từ đấy về sau, đời nào cũng có cao nhân trụ trì nơi ấy. Cho đến đầu đời Thanh, Hoằng Giác thiền sư từng làm chủ núi này, đức hạnh được Thanh Thế Tổ (Thuận Trị) khâm phục; do vậy bèn ban cho nhà chùa tấm biển đề Vạn Thọ. Ấy là cầu chúc cho muôn nước đều yên, cùng lên cõi thọ, một người (tức nhà vua) được mừng vui, ai nấy cùng hưởng thái bình vậy. Từ đấy, đạo phong hưng thịnh, Vân Thủy đều tụ về, những chùa lớn các nơi chẳng đâu hơn được nơi này. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 6: Sớ, thư 4 Từ đời Minh đến nay đã hơn hai trăm năm, trong khoảng thời gian ấy những bậc cao nhân trụ trì [Hưng Giáo Thiền Tự] pháp đạo cũng lại chẳng thiếu. Từ cuối triều Thanh đến nay, pháp đạo suy vi, điện đường, liêu xá đều nghiêng sụp, đại điện là nơi an trụ Như Lai Pháp Thân, cũng là chốn để tứ chúng cầu phước [thế mà] cột kèo mục nát, rường xà xiêu vẹo, lỏng lẻo. Nếu chẳng lập cách tu bổ, ắt sẽ đến nỗi sụp đổ hết cả. Trạm tôi trụ trì nơi đây, tâm thường kinh sợ, vì thế đặc biệt giãi tỏ lòng ngu thành, quyên mộ khắp đàn tín hộ pháp, khẩn cầu các vị đều bỏ ra tịnh tài để thành tựu việc làm tốt đẹp này, ngõ hầu điện báu thênh thang sớm có ngày được thành công, mãn nguyệt kim dung thường trụ suốt kiếp. Sẽ thấy Phật, trời che chở như mây nhóm, tốt lành, mừng vui đua nhau đưa đến, giàu, thọ, khỏe mạnh, bình yên, thân hiện tại được hưởng Ngũ Phước như Cơ Tử đã luận, tước vị cao cả, tôn kính, hậu duệ nhận lãnh trăm điều tốt lành như đã nói trong bài giáo huấn của Y Doãn. Chỉ mong ai nấy đều chẳng tiếc nuối, cùng ghi danh thơ. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 6: Sớ, thư 3 Hưng Giáo Thiền Tự được sáng lập từ đời Tấn, là đạo tràng của Luật và Giáo. Đến đời Đường, Ô Khoa thiền sư trùng hưng, trở thành [đạo tràng chuyên tu] Thiền. Cuối đời Minh, đồ tôn của Liên Trì đại sư là Nội Hằng Thuyên Công phục hưng nhà chùa, trở thành [đạo tràng chuyên tu] Tịnh. Thiện tri thức xét thời cơ mà chọn giáo pháp thích hợp, nhân thời thế mà chế định cách tu thích nghi, chỉ cốt sao có lợi cho muôn loài, chẳng chấp nhặt nơi dấu tích phô bày. Vì thế, khiến cho hết thảy chúng sanh đều được thấm nhuần pháp ích. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 6: Sớ, thư 3 Do nhà chùa không có hằng sản, Tăng không tích trữ, bèn cậy Bất Huệ thay mặt viết lời sớ dẫn giải hòng khẩn cầu các vị đại hộ pháp và các vị thiện tín phát tâm Bồ Đề, hành phương tiện sự, chở vàng, tải gạo, xoay vần khuyên bảo quyên mộ, khiến cho điện báu thênh thang sớm có ngày xây dựng thành công, mãn nguyệt kim dung thường trụ suốt kiếp, Tịnh tông được thịnh hành, con người đều biết đạo thoát khổ. Nhân quả phô tỏ rõ ràng, mọi người cùng nhau đi theo con đường mong trở thành thánh, sẽ thấy Phật, trời bảo vệ như mây nhóm, tốt lành, mừng vui đua nhau đưa đến, cửa nhà yên vui, quyến thuộc bình an, giàu, thọ, khỏe mạnh, bình yên, thân hiện tại được hưởng Ngũ Phước như Cơ Tử đã luận, lan quế ngào ngạt, hậu duệ nhận lãnh trăm điều tốt lành như đã nói trong bài giáo huấn của Y Doãn, chỉ mong [ai nấy] đều phát lòng tùy hỷ, đều cùng được tiếng thơm. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 6: Sớ, thư 2 Chỉ vì hiện thời đang nhằm thuở Mạt Pháp, căn tánh con người kém hèn, nếu không cậy vào sức đại thệ nguyện của Phật Di Đà để vãng sanh Tây Phương thì ai có thể đoạn sạch Phiền Hoặc, liễu sanh thoát tử ngay trong đời này? Do vậy, khôi phục lần này, [nhà chùa] sẽ chuyên tu pháp môn Tịnh Độ và lập thêm Cư Sĩ Lâm, lưu thông xứ (phòng phát hành kinh sách) để các nhân sĩ trong vùng đều biết đạo trọng yếu hòng thoát Ngũ Trược lên chín phẩm và biết quy củ tốt lành để giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, biết nhân quả, tu trì cẩn thận. Như thế thì do Liên Xã được mở mang mà tông phong chấn hưng, lễ giáo hưng khởi, vận nước tốt đẹp, sáng sủa, ngõ hầu xứng với ý nghĩa lập chùa đặt tên của cổ nhân, cũng như để an ủi một phen nhiệt tâm bảo vệ duy trì của các vị quân tử. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 6: Sớ, thư 2 Khẩn cầu mười phương thiện tín tùy lực, tùy tâm, ai nấy bỏ ra tịnh tài để những con cá đang chờ bị nấu sẽ được sống yên vui, các vị đại cư sĩ được viên thành sở nguyện. Những người có sẵn đủ thiện căn từ đời trước trông thấy hành động tốt lành ấy sẽ đều yêu tiếc sanh mạng loài vật, chẳng nỡ giết hại. Do nhân duyên ấy sẽ tiêu diệt được cơ duyên giết hại, tăng trưởng phong thái nhân từ, công đức ấy làm sao diễn tả được? Ông tăng già Thích Ấn Quang sắp vùi thân nơi ngòi rãnh, kính vì vô số vô lượng cha mẹ trong quá khứ, chư Phật trong vị lai, chí thành khẩn cầu xin cứu mạng. Nếu được quý vị sáng suốt xét soi thì chẳng khác gì chính Quang được quý vị cứu vớt vậy. Kính cẩn giãi bày. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 6: Sớ, thư 1 Những bậc quân tử sẵn lòng nhân từ nhằm để báo ân, nhằm tránh tai kiếp, đã hết sức chú ý kiêng giết, phóng sanh, trì trai, ăn chay. Nhưng đại đa số chưa nghe Phật pháp vẫn quen thói coi đó là thường, mặc tình giết chóc nhằm thỏa thích cái miệng. Do bởi lẽ ấy, ươm thành tai kiếp đao binh. Hãy thử nghĩ trong tai kiếp đao binh, con người bị giết chóc có khác gì loài vật bị mổ xẻ để cung ứng cho bụng miệng cho mấy? Nếu nghĩ như vậy thì ý niệm giết thân chúng nó để thỏa thích miệng ta chẳng bị tiêu diệt hay sao? Hơn nữa, ta đã tham sống, há chúng thích chết? Như ta vừa bị cỏ sắc đâm vào ngón tay liền cảm thấy khó thể chịu đựng được; thân chúng nó bị mổ chặt, há lẽ cam lòng? Tuy sức chẳng thể chống chọi được, không làm cách nào được, nhưng cái tâm oán hận cố kết chẳng thể cởi gỡ được! Đời đời kiếp kiếp ắt sẽ báo thù. Do vậy, bậc hiền triết muốn khiến cho người đời cùng dứt sát nghiệp, hòng hợp với đạo “dân là đồng bào, loài vật giống như ta” của cha trời mẹ đất, lập đủ mọi cách mua loài vật phóng sanh khiến cho chúng được sống trọn hết tuổi trời. Cần phải biết hành động này chú trọng nơi cứu người, chứ không phải đơn thuần nhằm cứu vật! Vì [phóng sanh là] nhằm mong người ta trông thấy [người khác] mua [loài vật] phóng sanh sẽ đều chẳng nỡ giết chóc; đã chẳng nỡ giết chóc thì chẳng kết oán đối, có thể tiêu diệt được sát kiếp trong vị lai, phước thọ trong đời sau sẽ vĩnh viễn tồn tại. Đấy chính là tông chỉ rốt ráo, lợi ích chân thật của phóng sanh vậy. Kẻ chẳng biết thường chê bai phóng sanh lãng phí tiền tài, trọn chẳng có ích lợi gì! Hãy thử đặt mình vào trong hoàn cảnh đó thì kẻ ấy có muốn được người khác thả đi hay là mong bị người khác giết mình để ăn hay chăng? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 6: Sớ, thư 1 Phàm [kẻ nào] ở trong sanh tử luân hồi sẽ đều phải theo nghiệp thọ sanh. Thoạt là người, lại thoạt biến thành vật. Lúc đang làm người, cậy mạnh hiếp yếu, cậy đông hiếp ít, chẳng biết vun bồi phước cho mai sau, mặc tình tạo các ác nghiệp; đến khi phước đời trước đã hết, sát nghiệp đã sâu, khó khỏi đọa trong dị loại: Miệng chẳng nói được, tâm không trí huệ, mưu mẹo, thân không có sức mạnh chống chọi, chỉ đành mặc cho con người mổ, nấu, cắn, nhai. Nhưng xét tới tận cùng cái tâm loài vật thì lòng ham sống sợ chết, ý niệm khi gặp nguy hiểm mong được cứu vớt, thảm thê không thể nào diễn tả được! Do vậy, các bậc hiền triết thời cổ phần nhiều yêu tiếc sanh mạng loài vật, chẳng nỡ sát thương. Như Tử Sản nuôi cá, Tương Tử thả chim bồ câu, Tùy Hầu giúp rắn, Dương Bảo cứu chim sẻ. Đấy đều vốn do cái tâm bất nhẫn mà làm chuyện cứu vớt, chứ vẫn chưa biết đến những nghĩa “hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, trong vị lai sẽ đều thành Phật và từ vô lượng kiếp đến nay, lần lượt làm cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc” v.v… - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần 6: Sớ, thư 1 Niệm Phật quý tại nhiếp tâm. Ngài Đại Thế Chí nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhập tam-ma-địa, ấy là bậc nhất”. Đủ biết khi niệm hãy nên buông xuống vạn duyên, nhiếp trọn sáu căn, miên miên mật mật, thẳng thừng mà niệm, sẽ có lúc đắc tam-ma. Tam-ma cõi này dịch là Chánh Tu, Chánh Kiến, hoặc dịch là Chánh Định. Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm, đức Phổ Hiền dùng mười đại nguyện vương khuyên dạy Hoa Tạng hải chúng quay về Cực Lạc. Hoa Nghiêm Hải Chúng đều thuộc địa vị đại Bồ Tát mà vẫn còn phải quy hướng vãng sanh. Đủ biết [pháp môn Tịnh Độ] như trời che khắp, như đất chở đều, đại địa, núi, sông, vũ trụ, vạn hữu, có gì vượt ra ngoài trời đất được chăng? Pháp môn Tịnh Độ nhiếp trọn các pháp môn khác, cũng chẳng khác gì! Cõi đời thay đổi, vận số suy vi, người đời Mạt Pháp căn tánh kém hèn, muốn cầu hoát nhiên phá vô minh, đoạn Hoặc, chứng Chân, rất ư là khó! Tự mình chưa độ được mà muốn độ người ta thì có khác gì kẻ chết đuối trong biển lại toan cứu người! Kính khuyên các vị hiền nhân chớ nên ngã mạn, ngạo nghễ, hãy cứ nên tin chân thành, nguyện thiết tha, nương theo từ lực niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì mới nên! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 9 Vĩnh Minh thiền sư chính là hóa thân của A Di Đà Phật. Tất cả những câu kệ đề suông niệm Phật [của Ngài] đều là khế cơ lẫn khế lý. Bốn bài Liệu Giản này đúng là bài cảnh sách vô thượng cho người tham Thiền lẫn tu Tịnh. Tuy hạn cuộc trong âm vận của lời kệ, lời lẽ ngắn gọn, ý châu đáo, lại càng chẳng thể thêm vào hay bớt đi một chữ nào được! Người học hãy nên nghiên cứu cặn kẽ! Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt, những pháp môn khác đều là pháp môn thông thường. Tách rời hai pháp này thì đôi đằng đều có ích, hợp lại thì đôi bên đều bị hại. Đối với pháp tắc tu trì thì hãy nên nói lời tốt lành, làm chuyện tốt lành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng suông, vợ theo, ai nấy giữ vẹn luân thường, chẳng trái nghịch pháp thế gian thì mới đáng gọi là “đệ tử chân thật của đức Phật”. Nếu không, Danh Giáo còn chẳng dung, sẽ là tội nhân đối với Như Lai. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 9 Không Thiền, không Tịnh Độ, Giường sắt với cột đồng, Vạn kiếp lẫn ngàn đời, Không có người nương tựa. Người đời hờ hững, hời hợt, chẳng thật sự nỗ lực tham cứu, chẳng có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, hoặc lại còn kiêm tu các môn khác đều đáng gọi là “Không Thiền, không Tịnh Độ”. Tuy cảm được phước báo trong đời sau, nhưng do phước tạo nghiệp, do nghiệp đọa địa ngục. Giường sắt, cột đồng, không người nương tựa, tuy có Phật lực cũng chẳng làm sao được! Triệt Lưu đại sư nói: “Người tu hành chẳng liễu sanh tử là sự oán trong đời thứ ba”, đáng sợ thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 9 Có Thiền, không Tịnh Độ, Mười kẻ, chín chần chừ, Ấm cảnh nếu hiện tiền, Chớp mắt đi theo nó. Đây là nói về kẻ tham Thiền nhưng chẳng niệm Phật. “Thiền” [ở đây] là tuy đã minh tâm kiến tánh, nhưng nếu Kiến Tư phiền não còn có chút nào chưa trừ thì vẫn luân hồi trong lục đạo y như cũ, không thoát ra được! Biển sanh tử sâu thẳm, đường Bồ Đề xa vời, chùng chình giữa đường, chần chừ, dây dưa. Vì thế nói: “Thập nhân, cửu tha lộ” (Mười kẻ, chín chần chừ). “Tha” (蹉) là “tha đà” (蹉跎), nói theo cách thông thường là chần chừ. “Ấm cảnh” chính là cảnh Trung Ấm Thân khi mạng chung mới hiện ra, đều tùy theo nghiệp lực thiện hay ác chi phối mà thọ sanh trong đường lành hay nẻo ác. Ngũ Tổ Giới, Thảo Đường Thanh, Chân Như Triết đều là những vết xe đổ trước đây. Sở ngộ và kiến địa của ba vị ấy cao siêu như thế mà vẫn chẳng khỏi mê mờ, cần chi phải bàn tới lũ phàm phu chúng ta nữa đây! Chữ “miết nhĩ” (瞥爾) [trong câu “miết nhĩ tùy tha khứ” (chớp mắt đi theo nó)] là một cái chớp mắt, ví cho sự nhanh chóng. Có người hiểu chữ “Ấm cảnh” chỉ cho cảnh Ngũ Ấm Ma; có kẻ giải thích chữ “tha lộ” là lầm đường, đều sai hết! Há có ai triệt ngộ Thiền Tông, hiểu sâu giáo lý lại chẳng hiểu cảnh giới Ngũ Ấm để rồi lạc đường hay chăng? Điều này quan hệ rất lớn, chẳng thể không biết! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 9 Không Thiền, có Tịnh Độ, Vạn tu, vạn người về, Nếu được thấy Di Đà, Lo chi không khai ngộ. Người ấy tuy chưa minh tâm kiến tánh, nhưng do quyết chí cầu sanh Tây Phương nên dũng mãnh tinh tấn, cũng được Phật tiếp dẫn, chứng các quả vị. Trong số những người đạt đến quả vị, không ai chẳng đại triệt đại ngộ. Do vậy nói: “Nếu được thấy Di Đà, lo chi không khai ngộ”. A Di Đà Phật đại từ đại bi có bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng độ sanh. Không chỉ bậc thượng thiện xưng danh liền có thể vãng sanh, ngay cả Ngũ Nghịch, Thập Ác nếu khởi lòng hổ thẹn lớn lao, phơi bày sám hối, bất luận một niệm hay mười niệm, ắt Phật cũng nhiếp thọ. Mưa đúng thời thấm đẫm các vật; muôn vật không vật nào chẳng được thấm ướt, lợi ích. Biển cả dung nạp các sông, dẫu trăm sông [đổ vào biển, biển] cũng đều dung nạp trọn. Vạn người tu, vạn người về, quả là sự thật không sai! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 9 Có Thiền có Tịnh Độ, Ví như cọp đội sừng, Đời này làm thầy người, Đời sau làm Phật, Tổ. Hai chữ Thiền - Tịnh ở đây cần phải phân biệt cho minh bạch! Cần nhất là phải biết thế nào là có Thiền, thế nào là có Tịnh Độ! Người đời thường tưởng khán thoại đầu, tham cứu câu “người niệm Phật là ai” là “có Thiền”, còn chấp trì danh hiệu là “có Tịnh”. Sai rồi! Thiền tức là Chân Như Phật Tánh sẵn có, tức tâm thể thuần chân của chúng ta, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, vừa Tịch, vừa Chiếu, không Năng, không Sở, đấy chính là cái được Tông môn gọi là “bản lai diện mục trước khi được cha mẹ sanh ra”! Tịnh là tín nguyện trì danh, cầu sanh Tây Phương, chứ không phải chỉ là “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”. “Có Thiền” là phải đổ công tận lực tham cứu sâu xa tới mức sơn cùng, thủy tận, niệm cực, tình vong! Một mai thấy thấu suốt bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra, hãm mình vào nơi đất chết tìm ra lẽ sống thì mới đáng gọi là “có Thiền”. “Có Tịnh” là phải thật sự vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, thượng hoằng, hạ hóa, tự lợi, lợi tha không hề phải hổ thẹn. Nếu người ấy triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến tánh, biết trọn đủ các pháp môn Quyền, Thật của Như Lai, nhưng chỉ lấy “tín nguyện niệm Phật” làm đường lối chung cho Chánh Hạnh thì tà đạo sẽ bặt dấu, ma vương, ngoại đạo vỡ mật, như hổ mọc sừng, oai mãnh không gì địch lại được, thượng - trung - hạ căn đều được lợi ích, chẳng phải là bậc đạo sư của trời - người hay sao? Trong tương lai Thượng Phẩm Thượng Sanh, chứng tới bậc Đẳng Giác trong Viên Giáo, há chẳng phải là đời sau sẽ làm Phật, làm Tổ ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 9 Muốn trở về quê nhà, chớ nên do dự bảo “hãy đợi mấy năm nữa” thì sẽ chẳng thể tương ứng với Phật được đâu! Chí thành khẩn thiết tới mức “lòng tin chân thành, nguyện thiết tha” thì chính là chủng tử Tây Phương, bởi lẽ một môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông, như ba chân của cái đỉnh, thiếu một chẳng thể được! Nếu chuyên đề cao hành trì chẳng coi trọng tín - nguyện thì sẽ chấp Sự, phế Lý, vẫn thuộc vào pháp môn tự lực, mắc cùng một khuyết điểm giống như kẻ chấp Lý phế Sự, chuyên cậy vào tự tánh duy tâm, chẳng cậy vào Phật lực! Do vậy, đại sư Ngẫu Ích nói: “Được vãng sanh hay không hoàn toàn do có tín nguyện hay không? Phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Lời luận định ấy sát sao thay! Chẳng thể không biết vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 9 Người tu hành cần phải biết Sa Bà khổ, Cực Lạc vui, phải nguyện lìa Sa Bà khổ, nguyện được Cực Lạc vui, chớ nên cầu phước báo trời người. Ví như đang ở trong tù ngục mong được về quê hương. Nhưng thế giới Sa Bà chính là một nhà tù lớn, thế giới Cực Lạc mới là quê nhà tốt lành. Cổ nhân có thơ như sau: Tự chẳng muốn về, về liền được! Gió trăng quê cũ, há ai giành? Các vị nếu nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì có ai tranh giành Tây Phương với mình đâu nhỉ? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 9 Nếu chưa đạt đến mức nghiệp tận tình không, chẳng thà cứ chất phác niệm Phật, chẳng ôm lòng khinh mạn, chẳng suy đoán bằng ý thức thì khi lâm chung mới mong được cảm ứng đạo giao. Ấy là vì pháp môn Niệm Phật hoàn toàn cậy vào Phật lực, chẳng như những môn khác đều là tự lực. So sánh giữa Phật lực và tự lực thì có khác gì sự cách biệt giữa bầu trời và mặt đất! Do vậy, từ xa xưa ngu phu ngu phụ thật thà niệm Phật đa số vãng sanh, nhưng bậc thông Tông thông Giáo phần nhiều chẳng thể khoác tay họ [ngao du trong cõi Cực Lạc] được! Thật đáng tiếc thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 9 Pháp môn Niệm Phật lớn lao không gì ra ngoài phạm vi của nó được, chí viên, chí đốn, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, nhưng cần phải hiểu rõ ràng nguyên do. Hễ hiểu rõ lý thì sanh lòng tin phát nguyện không ai chẳng được lợi ích. Nếu không, sẽ bị các thứ cảnh giới khác xoay chuyển, chẳng thể sanh lòng tin chân thật, phát nguyện thiết tha. Dù có công phu niệm Phật cũng chẳng thể đạt được lợi ích nơi Phật. Các pháp môn do đức Phật nói đều phải cậy vào tự lực để vãng sanh, cần phải nghiệp tận tình không. Nếu không, sợ rằng sẽ vất vả gian nan lắm đấy! Nếu đã có thể nghiệp tận tình không, lại còn có thêm công phu niệm Phật, ắt sẽ Thượng Phẩm Thượng Sanh, sẽ có cùng một khả năng như Quán Âm Đại Sĩ “nên dùng thân nào để độ bèn hiện thân ấy để thuyết pháp”. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 9 Chư vị phải thật sự vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm. Người đời học Phật thường chẳng chân thật. Họ [mong muốn] hiểu thông suốt kinh điển, nghiên cứu, tìm tòi, học hiểu nghĩa lý, chẳng qua chỉ nhằm mong trở thành đại thông gia mà thôi. Bậc đại thông gia đoạn được một tầng phiền hoặc, sợ chẳng dễ dàng đâu! Hiện thời, pháp sư Đế Nhàn đang giảng Triệt Ngộ Thiền Sư Ngữ Lục tại Giác Viên Tịnh Nghiệp Xã, chư vị nên thường xuyên đến đấy nghe. Đối với pháp trì chú của Mật Tông, Ấn Quang trộm nghĩ là nên nhờ vào đấy để tiêu trừ tội nghiệp, đừng nên lầm lạc cầu thần thông! Kính mong mọi người hãy lưu ý, tiếp nhận lời hèn của nạp tăng, phát tâm niệm Phật. Cổ nhân đã nói: “Nắm tay lôi theo, đi chẳng được!” Phải nhờ người khác lôi kéo thì phi lý quá! Mong chư vị ai nấy đã sẵn có Phật tâm thì hãy thật thà niệm Phật! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 8 Hơn nữa, người tu hành chớ nên chưa đắc đã nói là đắc, chưa chứng bảo là chứng. Đấy là phạm vào giới đại vọng ngữ, tuyệt đối chớ nên phạm! Xưa kia có cư sĩ X… nói đã đắc quả A La Hán, có người hỏi: “Đã đắc quả sao không hiện một chút thần thông biến hóa?” Nhưng rốt cuộc hắn ta chẳng thể làm được, mà phiền não cũng trọn chẳng thể trừ được! Há có bậc La Hán nào chẳng trừ được phiền não ư? Chư vị đừng coi rẻ pháp môn Niệm Phật! Quán Âm, Thế Chí đều là cổ Phật thị hiện, Văn Thù, Phổ Hiền là đại Bồ Tát vẫn cầu sanh Tịnh Độ. Lũ phàm phu bọn ta há nên coi rẻ? Pháp môn Niệm Phật là biển cả của hết thảy pháp môn, chứ những pháp môn khác giống như ngòi, lạch nhỏ nhoi, chẳng thể nào sánh bằng được đâu! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 8 Tham Thiền chỉ quan tâm dạy người tham phải chú trọng vào khai ngộ; nhưng khai ngộ rồi, nếu đoạn sạch được phiền não thì tốt. Nếu không, sợ rằng chưa dễ gì nói đến chuyện liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh đâu nhé! Lại có kẻ trì chú nói “thành Phật ngay trong thân hiện tại!” Nhưng “thành Phật ngay trong thân hiện tại” bất quá chỉ là có thể thấy được vị Phật nơi tự tánh, chứ hoàn toàn chưa chứng được quả vị Phật! Kẻ trì chú chẳng hiểu giáo lý, chẳng trọng giới hạnh, chỉ mong đắc thần thông. Do cái tâm dũng mãnh ấy sẽ khiến cho oán thân trong bao kiếp nhiều đời hiện tiền, dễ dàng bị ma dựa! Nếu dùng cái tâm như thế để tiêu trừ tội chướng, giúp sức cho việc tu trì, vẫn cần phải niệm Phật thì may ra mới có cảnh giới tốt đẹp được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 8 Người niệm Phật phải sanh lòng tin, phát nguyện, trì danh hiệu Phật, nguyện sanh Tây Phương, không có lý nào lìa bỏ ba món Tín - Nguyện - Hạnh được! Chỉ cần lòng tin sâu đậm, nguyện thiết tha, chẳng cần phải đạt đến nhất tâm bất loạn, đều có thể nương theo oai lực tiếp dẫn của đức Phật vãng sanh Tây Phương. Nếu là bậc đại triệt đại ngộ mà lại còn niệm Phật thì chắc chắn sẽ được Phật tiếp dẫn, phẩm vị càng cao hơn. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 8 Pháp môn Tịnh Độ đơn giản nhất, dễ dàng nhất, thích hợp khắp ba căn, thâu tóm trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn. Ấy là vì dùng một pháp Niệm Phật cũng có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Cần biết rằng: Pháp môn Tịnh Độ lớn lao, không gì ra ngoài phạm vi của nó được, là chỗ quy túc của hết thảy pháp môn. Hành giả chớ tưởng mình đã triệt ngộ thì không cần phải nương vào pháp môn này để tu tập; nếu vậy, sợ rằng nói đến chuyện liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh sẽ chẳng dễ dàng đâu! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 8 Thưa chư vị! Ngày hôm nay đức Phật Thích Ca đản sanh. Vì sao đức Phật giáng sanh trong nhân gian? Không điều gì chẳng nhằm nêu gương cho chúng sanh trong đời Mạt. Kinh Pháp Hoa dạy: “Đức Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong thế gian”. Đại sự chính là khai - thị - ngộ - nhập tri kiến Phật. Chúng sanh vốn có Phật tánh, nhưng đã bị mê mất bởi nghiệp, cho nên dùng Giới - Định - Huệ tu trì để quay trở lại cái sẵn có. Nhưng chúng sanh căn cơ bất nhất, pháp môn liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh chẳng dễ tu trì, chúng sanh chưa dễ gì đảm đương được! Do vậy, lại đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 8 Pháp môn Niệm Phật mọi người đều nên tu trì, hãy nên cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng kính trọng vợ, vợ phục tùng chồng. Là hiền nhân trong cõi đời, là đệ tử Phật trong đạo xuất thế. Dùng những điều ấy để dạy người, phải rất chú trọng lấy thân làm gương thì mới có thể làm cho người khác sanh lòng tin. Ấy gọi là “dùng lời lẽ để dạy sẽ bị tranh cãi; dùng thân để dạy mọi người sẽ thuận theo”. Bất luận tại gia hay xuất gia đều phải nên như thế, đừng nên bàn huyền nói diệu. Dẫu có thể bàn nói thì cũng phải giẫm chân trên Thật Tế. Chỉ có thể bàn nói, chứ không hưởng dùng được thì cũng giống như bánh vẽ, chẳng thể đỡ đói được đâu! Tu Phật pháp giống như ăn, phải không đói mới hay! Trong Tịnh Độ Thi của thiền sư Sở Thạch đời Minh có đoạn: Tây Phương có nẻo nào ai bước, Di Đà thánh hiệu tối thượng thừa, Nắm tay lôi đi chẳng chịu theo, Riêng ai tự chịu mới đi được - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 7 Muốn sanh về Tây Phương thì cần phải làm người tốt. Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành. Hai câu ấy nếu nhìn từ mặt chữ sẽ thấy sao mà dễ dàng đến thế! Nhưng xét trên thực tế, Cừ Bá Ngọc tròn năm mươi tuổi mới biết bốn mươi chín năm trước sai trái, bảo: “Phu tử muốn giảm bớt lỗi, nhưng chưa thể làm được”. Khổng Tử đọc kinh Dịch, ba lần đứt dây buộc lề sách, nói: “Cho ta sống thêm mấy năm để học Dịch cho xong, hòng không phạm lỗi lớn vậy”. Dù hiền hay thánh đều không thể gánh vác nổi hai câu ấy. Xưa kia, ông Bạch Cư Dị làm Thái Thú Hàng Châu, tới yết kiến Ô Khoa thiền sư, hỏi: “Thế nào đại ý của Phật pháp?” Sư đáp: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Chữ “ác” ấy bao trùm thân - miệng - ý, bốn mươi mốt phẩm vô minh. Bậc Đẳng Giác đại sĩ hễ còn có một phần vô minh chưa phá được thì tam đức chẳng trọn vẹn, tức vẫn là ác! Hơn nữa, chín pháp giới đều là ác, [chỉ có] Phật pháp giới mới là thiện. Do vậy hai câu này chính là đại ý của Phật pháp. Ông Bạch Cư Dị nói: “Hai câu ấy đứa trẻ lên ba cũng nói được!” Sư đáp: “Ông lão tám mươi tuổi làm không xong!” Đấy chính là tổng giới luật, hễ tu được [tổng giới luật này] thì hết thảy giới luật đều tu được! Những người đã làm được như thế lại còn niệm Phật thì chưa có ai chẳng vãng sanh Tây Phương. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 7 Hơn nữa, lấy chương Hạ Phẩm Hạ Sanh trong Thập Lục Quán Kinh để làm chứng thì kẻ căn tánh kém hèn Ngũ Nghịch lúc lâm chung, tướng địa ngục hiện, gặp thiện tri thức dạy niệm Phật, bèn cậy vào nguyện lực của Phật để diệt tội vãng sanh, liền được liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Pháp môn Tịnh Độ thần diệu khó thể nghĩ tưởng! Nếu là người tin tưởng pháp này đến cùng cực rồi tu tập pháp môn này, dẫu vạn con trâu cũng không thể kéo lại được! Nhưng tu pháp môn Niệm Phật này muốn sanh về Tây Phương, phải vâng giữ “tu thiện, đoạn ác” nơi ba nghiệp thân - miệng - ý thì đức hạnh mới hợp với Phật, lâm chung tự nhiên cảm Phật đến nghênh tiếp; vì thế gọi là “tịnh nghiệp”. Hễ tịnh được nghiệp thì tâm sẽ tịnh, tâm đã tịnh sẽ tự cảm thông dễ dàng. Thập Lục Quán Kinh coi “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm không giết, tu Thập Thiện Nghiệp” là Tịnh nghiệp chánh nhân. Vì sao vậy? Đấy là cách cất nhà phải xây móng cho chắc chắn! Nếu nền móng không chắc chắn, tuy xây nhà cho cao, chẳng khỏi bị sụp đổ! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 7 Nay hãy thử nói, chỉ có pháp môn này là “trước khi chưa thành Phật thì cậy vào pháp này để tự tu; sau khi đã thành Phật rồi thì nhờ vào đó để độ đời”. Thích hợp khắp ba căn, giúp ích cho cả phàm lẫn thánh, trên đến bậc Đẳng Giác Bồ Tát, dưới đến chủng tử A Tỳ, cao thì chẳng thể vượt khỏi pháp này, hèn thì cũng được dự vào trong ấy, rộng lớn viên mãn, không còn gì hơn được nữa! Để chứng minh, hãy nhìn vào kinh Hoa Nghiêm: Thiện Tài Bồ Tát đi qua một trăm thành, tham học với khắp các tri thức. Trong lần tham học thứ năm mươi ba, tới chỗ Phổ Hiền Bồ Tát. Khi ấy Thiện Tài đã chứng được địa vị Đẳng Giác bằng với chư Phật, nhưng Phổ Hiền sau khi khen ngợi công đức thù thắng của Như Lai xong, đối trước Thiện Tài và các vị Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị trong hội Hoa Nghiêm, dạy họ hãy rộng phát mười đại nguyện vương, dùng công đức ấy để hồi hướng vãng sanh Cực Lạc thế giới. Ấy là vì bỏ pháp này đi thì sẽ không có cách nào để thành tựu Phật quả viên mãn được! [Trong hội Hoa Nghiêm], những vị nghe pháp ấy, [địa vị của họ] thấp nhất cũng là Sơ Phát Tâm Bồ Tát. Công đức do tu mười đại nguyện vương ấy đều phải đem hồi hướng vãng sanh Tây Phương thì mới có thể tấn tu tốt đẹp được. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 7 Đạo Phật ta có vô lượng pháp môn, nhưng nói chung phải lượng theo thân phận của chính mình, chọn lựa pháp [thích hợp với căn cơ của chính mình] để tu, đừng để đến nỗi “cầu được lợi ích, đâm ra bị hao tổn!” Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn thường được mười phương chư Phật dùng để hạ hóa chúng sanh, chư đại Bồ Tát dùng để thượng cầu Phật đạo. Căn cơ không phân biệt đại hay tiểu đều tu trì được. Có tiện nghi lớn lao, tu tập nhanh chóng! Đừng nghe ai nói pháp nào bèn tu theo pháp đấy. Hôm nay Trương Tam, bữa mai Lý Tứ. Ngoài cửa miệng nói đến nỗi hoa trời rơi tán loạn, nhưng chẳng có mảy may nào hữu ích cho tâm địa! Do vậy, từ xưa tới nay các vị đại pháp sư, đại tông sư, không vị nào chẳng đề suông pháp môn Tịnh Độ. Có vị nào không đề suông là vì không hiểu biết pháp môn rộng lớn này vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 7 Pháp môn Niệm Phật là đới nghiệp vãng sanh. Sau khi vãng sanh liền chẳng thoái chuyển, thọ mạng vô lượng, thành tựu ngay trong một đời. Những kẻ tu Thiền Tông đã triệt ngộ mà niệm Phật vãng sanh thì cố nhiên sẽ là Thượng Phẩm Thượng Sanh, chứng địa vị Bồ Tát, liền có thể hóa thân trong [những thế giới ở các] phương khác để làm Phật sự trọn khắp. Nếu chẳng niệm Phật vãng sanh, hễ chưa đoạn trừ được tập khí phiền não thì vẫn chẳng thể liễu sanh thoát tử. [Do vậy] chẳng bằng pháp môn Niệm Phật, bất luận ngộ hay không, dẫu còn chưa đoạn được tập khí phiền não, chỉ cần được vãng sanh là đã liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh! Kẻ tu Mật Tông “tam mật tương ứng, thành Phật ngay trong thân này” nếu chẳng khéo dụng tâm sẽ dễ bị ma dựa. Dẫu khéo dụng tâm, tu pháp môn [Mật Tông] này sẽ liền cách biệt với các pháp môn khác, chẳng bằng tu pháp môn Tịnh Độ phần nhiều chẳng gây trở ngại gì cho các pháp môn khác. Vì thế, kẻ tu Mật Tông nếu đạt được lợi ích thì cố nhiên là tốt đẹp, nhưng nếu bị ma dựa sẽ trở thành hạng bỏ đi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 7 Các tông thuộc bên Giáo, tánh - tướng, giáo - lý tinh vi, sâu xa, mênh mông, rộng lớn, chẳng dễ gì nghiên cứu. Dẫu có ai có thể nghiên cứu đi nữa thì cũng chỉ là [thấu hiểu] đạo lý nơi mặt ngôn ngữ, văn tự, chứ chưa phải là [thấu triệt] đạo lý nơi tâm tánh! Muốn thấu triệt rốt đạo lý nơi tâm tánh thì hết sức ít người làm được như thế! Đấy chính là pháp môn cậy vào tự lực. Trong nhà Thiền hoặc bên Mật Tông, lý phần nhiều mầu nhiệm, nhưng kẻ nào căn cơ cạn mỏng sẽ chẳng thể lãnh ngộ được! Dụng công bên Tông thì tuy “đại triệt, đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” vẫn mới chỉ là bước đầu trong cửa Thiền! Đã ngộ rồi lại còn phải tu đạo, rộng hành lục độ vạn hạnh, đoạn trừ tập khí phiền não trong hết thảy cảnh. Dụng công bên Giáo thì trước hết phải đại khai viên giải, giống như triệt ngộ bên Tông. Đã khai ngộ rồi, cũng phải rộng hành phương tiện, đoạn trừ tập khí phiền não, hết sức khó khăn! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 7 Hiện thời, chúng ta thọ mạng ngắn ngủi, trí huệ lại ít ỏi, hãy đều nên nương theo pháp môn Niệm Phật để tu trì hòng vãng sanh Tây Phương. Chớ nên tự đại, coi Tây Phương chẳng đáng để sanh về, khinh rẻ pháp môn Niệm Phật! Cần biết rằng: Niệm Phật tức là tâm quý vị là Phật. Nếu không niệm Phật, tâm quý vị chẳng phải là Phật! Quán kinh dạy: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Nếu ai không niệm Phật thì vẫn chẳng thể vô niệm được! Đã không thể vô niệm mà lại chẳng niệm Phật, ắt sẽ niệm lục phàm, vọng tưởng điên đảo đều thành cội rễ sanh tử. Do vậy, phải nên niệm Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi, chẳng lìa niệm ấy. Niệm tới, niệm lui, niệm đến khi cái gốc sanh tử bị cắt đứt; lúc tới Tây Phương sẽ là Thượng Phẩm Thượng Sanh. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 7 Kinh Pháp Hoa dạy: “Như Lai vốn vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời, muốn làm cho chúng sanh khai Phật tri kiến, thị Phật tri kiến, ngộ Phật tri kiến, nhập Phật tri kiến”. Có nghĩa là “đức Phật đã nói ra mọi pháp môn không gì chẳng nhắm tới mục đích muốn làm cho chúng sanh được thành Phật”. Nhưng vì chúng sanh căn khí bất nhất: Kẻ căn khí lớn lao bèn tu tập đại pháp, thành Phật ngay trong đời hiện tại; kẻ căn khí nhỏ nhoi chẳng thể tu đại pháp, đức Phật bèn lập phương tiện, dạy họ Tiệm Tu (tu dần dần theo từng bước). Tuy vẫn có người có thể liễu sanh tử ngay trong đời hiện tại, nhưng hết sức ít ỏi. Do lòng đại từ đại bi, ngoài hết thảy các pháp môn cậy vào tự lực, đức Phật lập nên một pháp môn cậy vào Phật lực, tức là pháp môn dạy chúng sanh “niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ”. Do vậy, bất luận căn khí lớn hay nhỏ đều được cậy vào Phật lực để liễu sanh thoát tử; đại sự nhân duyên của đức Phật ta cũng nhờ vào đây mà được viên mãn. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 7 Hôm nay là ngày đức Phật Thích Ca thành đạo mà cũng là ngày chúng ta thành đạo. Vì sao vậy? Vào ngày hôm nay, sau khi đức Phật Thích Ca thành Phật liền vì chúng sanh nói mọi pháp thành Phật; chúng ta chỉ y theo pháp để tu nhân liền có thể thành tựu Phật quả, chẳng khác gì đức Phật Thích Ca. Trong kinh Phạm Võng, đức Phật đã thọ ký cho chúng ta: “Ta là Phật đã thành, các ông là Phật sẽ thành”. Đại chúng biết mình là “Phật sẽ thành” liền có thể mạnh mẽ gắng sức, chẳng còn tự coi rẻ, phụ bạc chính mình nữa, quét sạch hết thảy nghiệp chướng, tích tập hết thảy công đức, trong tương lai thành đạo. Nay đã quyết định, nên nói: “Cũng là chúng ta thành đạo!” - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 7 Niệm A Di Đà Phật tức là dùng Phật niệm để thay cho vọng niệm. Đấy chính là phương pháp khử trần cấu tốt nhất. Niệm tới niệm lui không gì chẳng nhằm hiển lộ A Di Đà Phật sẵn có trong tự tâm. Tự lẫn tha tương ứng, cảm ứng đạo giao, diệu nghĩa vãng sanh không thể nói xuể! Người niệm Phật chỉ cần chí thành khẩn thiết, tâm giống như tâm Phật, hành hạnh giống như hạnh Phật, có một phần cung kính được một phần lợi ích, có một phần kiền thành được một phần thụ dụng. Mong mọi người hãy nỗ lực! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 6 Sở dĩ pháp môn Tịnh Độ cao thượng như thế là vì những giáo lý tu tâm thông thường hoàn toàn cậy vào tự lực, chỉ có Tịnh Độ là kiêm cậy vào Phật lực, là giáo lý đặc biệt, chẳng phải là giáo lý phổ thông. Dùng tầm mắt phổ thông để nhìn giáo lý đặc biệt, tự nhiên sẽ thấy chẳng thỏa đáng! Giáo lý phổ thông cậy vào tự lực giống như tiến thân trên đường công danh, phải lên cao từng bước. Tịnh Độ là giáo lý đặc biệt cậy vào Phật lực, ví như sanh trong cung vua, vừa lọt lòng mẹ liền là người nối ngôi vua. Sự khó - dễ, cong - thẳng, chẳng cần phải là người trí mới biết được! Tịnh Độ đạo tuy cao quý, nhưng pháp chẳng có lạ lùng, đặc biệt gì, chỉ cần tâm thiết tha cầu Phật, tự nhiên sẽ được Phật gia bị. Hãy nên biết rằng: Phật nghĩ nhớ, che chở chúng sanh còn hơn cha mẹ yêu con. Do vậy, hễ có cảm ắt có ứng… - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 6 Mọi người phải hiểu rằng cậy vào tự lực để tu trì thì chính mình sẽ có những loại lực nào? Chỉ là nghiệp lực từ vô thủy đến nay! Do vậy, muôn kiếp ngàn đời khó được giải thoát! Cậy vào hoằng thệ đại nguyện lực của A Di Đà Phật sẽ tự nhiên hoàn thành chỉ trong một đời. Thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Đã đến núi báu, đừng trở về tay không! Lại phải nên biết rằng: Pháp môn Niệm Phật chẳng phải là chuyên dành cho hạng hạ căn mà chính là thích hợp khắp cả ba căn. Bất luận lợi căn, độn căn, thượng trí, hạ ngu, cho đến Đẳng Giác Bồ Tát đều hướng đến pháp môn này thì sau này mới có thể thành Phật. Do vậy, trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham học với khắp các bậc đại thiện tri thức, chứng nhập các môn Đà La Ni trong pháp giới hải hội. Cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Nhìn từ chỗ này, pháp môn Tịnh Độ đúng là pháp môn cao thượng nhất, viên mãn nhất. Nếu báng bổ [niệm Phật] là hạnh của bọn ngu phu ngu phụ thì đúng là báng Phật, báng Pháp, là chủng tử địa ngục! Kẻ chẳng tin Tịnh Độ ngu cuồng đọa lạc, là kẻ đáng thương tột bậc! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 6 Người đời thường nghĩ ngồi như đã chết khô, khán chết cứng một câu thoại đầu là “có Thiền”, niệm Phật sơ sài, loáng thoáng vài câu bèn kể là “có Tịnh Độ”. Ấy chính là lầm lẫn lớn lao lắm đấy! Nói chung, “có Thiền” chính là có công phu minh tâm kiến tánh. “Có Tịnh Độ” là Niệm Phật đến mức chắc chắn được vãng sanh. Đấy chính là đạo lý khẩn yếu nhất! Nhưng minh tâm kiến tánh chỉ là khai ngộ chứ vẫn chưa chứng, trọn chẳng thể liễu sanh tử. “Hễ ngộ được thì không còn sanh tử” chẳng phải là lời lẽ của người đã chứng nhập! Hãy nên biết rằng: Ngộ là mở mắt, ngộ rồi mới có đường lối để chân tu thực chứng. Kẻ chưa ngộ chẳng khỏi tu mù, luyện đui, sụp hầm, sa hố! Do bởi lẽ ấy, trước hết cần phải khai ngộ. Đấy chính là công phu ban đầu. Nếu bàn đến chuyện “muốn về được đến nhà” thì chính là dốc sức tiến bước để làm chuyện “đang cháy lại đổ thêm dầu” đấy chăng? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 6 Nếu luận về sự khó - dễ giữa tự lực và tha lực cũng như [sự khó - dễ] giữa Thiền và Tịnh thì nói rõ ràng nhất, minh bạch nhất, không chi bằng Tứ Liệu Giản của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư. Chiếu theo Tứ Liệu Giản để nói thì người chẳng thông Tông thông giáo cố nhiên phải nên niệm Phật, nhưng kẻ thông Tông thông Giáo lại càng phải niệm Phật! Tuy thông nhưng chưa chứng nói chung đều phải niệm Phật để liễu sanh thoát tử thì mới đúng đạo lý. Vĩnh Minh đại sư chính là A Di Đà Phật hóa thân, đại từ, đại bi khai hóa chúng sanh. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 6 Niệm Phật là nương tựa vào Phật lực gia bị, tức là kiêm cậy vào Phật lực, tự nhiên chắc chắn có chỗ nắm vững được! Ví như vượt biển, cậy vào tự lực sẽ giống như bay vượt qua biển, còn cậy vào Phật lực như ngồi thuyền Từ. Bay vượt qua biển khó thể chẳng lo bị rơi suông; ngồi thuyền Từ chắc chắn có bữa đến được bờ kia. Sự khó - dễ, an - nguy trong ấy chắc mọi người đều đã phân biệt đến nơi đến chốn rồi! Nói chung, cậy vào tự lực để tham Thiền ngộ đạo liễu sanh tử, nhưng chưa về đến nhà (chưa chứng đến mức rốt ráo) thì thường là chẳng dễ dàng thực hiện được! Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chỉ cần tín nguyện chân thiết hành trì kiên cố, sẽ có công năng liễu thoát. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 6 Vấn đề quan trọng nhất trong Phật pháp chính là liễu sanh tử. Nếu luận về đại sự liễu sanh tử ấy thì rất khó khăn. Bọn phàm phu chúng ta căn cơ kém cỏi, hiểu biết nông cạn; đã thế, trong đời ác Ngũ Trược tà sư ngoại đạo thật đông! Muốn liễu thoát sanh tử, rốt cuộc phải như thế nào mới liễu thoát được? Chỉ có pháp môn Niệm Phật, dùng lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, tinh tấn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ [thì mới liễu thoát được]. Trong Phật pháp có nhiều phương tiện, tham Tông học Giáo đều có thể liễu thoát sanh tử, cớ sao cứ phải nhất định niệm Phật vậy? Ấy là vì tham Tông nghiên Giáo đều phải cốt sao đạt đến mức cùng cực, nếu như thật sự tu chứng được thì mới có hy vọng. Đấy chính là hoàn toàn cậy vào tự lực, há nói dễ dàng ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 6 Trước hết hãy nên khuyên cha mẹ, anh em, vợ con trong nhà chính mình, lấy thân làm gốc, từ thân đến sơ. Thêm nữa, nhờ vào công đức niệm Phật, không những có thể vãng sanh Tây Phương mà còn có thể tiêu trừ những tai họa lạ lùng, ngang trái. Phàm bệnh tật do oán nghiệp chẳng thể chữa trị được mà nếu chí thành niệm Phật thì lâu ngày sẽ đều được khỏi bệnh. Bởi lẽ, thầy thuốc chỉ trị được bệnh, chứ không thể trị được nghiệp. Chỉ có niệm Phật là trị được thân bệnh lẫn tâm bệnh, không có gì chẳng trị được! Cúi mong các vị cư sĩ đều nên phát tâm Bồ Đề, đề suông nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật, ấy gọi là “dùng quả địa giác làm nhân địa tâm” cho nên được “nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân”, thật đáng gọi là pháp hy hữu rất khó có vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Pháp môn Niệm Phật cần phải đầy đủ Tín - Nguyện - Hạnh. Tín đã sâu, ắt sẽ phát nguyện thiết tha. Nguyện đã phát thiết tha, ắt sẽ dốc sức hành trì. Chỉ niệm Di Đà chẳng cần kèm thêm pháp nào khác nữa. Hãy nên dùng lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, chấp trì danh hiệu Phật, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, tâm niệm tai nghe, từng câu từng chữ phân minh. Niệm cho phân minh, nghe cho phân minh sẽ là chánh nhân vãng sanh. Đã dùng pháp này để tự hành, ắt lại phải đem pháp này dạy bảo người khác thì công đức giáo hóa ấy sẽ quy về chính mình. Quả thật là tư lương vãng sanh tối thắng! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Đại Trí luật sư thoạt đầu rất miệt thị Tịnh Độ, sau đọc Tục Cao Tăng Truyện, thấy pháp sư Huệ Bố nói: “Cõi ấy tuy tịnh, nhưng ta chẳng muốn. Giả sử trong mười hai đại kiếp sống trong hoa sen, hưởng các khoái lạc, sao bằng ta ở trong đời ác Ngũ Trược giáo hóa chúng sanh ư?” liền sanh phỉ báng. Về sau do bị bệnh nặng, mới biết chính mình trọn chẳng có mảy may bản lãnh gì để trông cậy, liền phát nguyện đến hết báo thân này hoằng dương Tịnh Độ. Suốt hai mươi mấy năm, tay chẳng rời kinh Phật, lấy Tịnh Độ làm chỗ nương tựa, quy hướng. Thiền sư Ngũ Tổ Giới, thiền sư Thảo Đường Thanh công hạnh cao cả vượt trỗi những kẻ tầm thường, chỉ vì chưa thể đoạn sạch Kiến Hoặc, Tư Hoặc, nên vẫn phải luân chuyển trong nhân gian. Vì thế biết liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh mà bỏ Tịnh Độ thì không có kế sách tốt đẹp nào cả! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Nếu y theo các pháp môn khác thì đều phải cậy vào tự lực, giống như vượt qua biển cả, hễ kẻ nào có cánh thì sẽ có thể bay vượt qua, chứ kẻ chỉ nổi được thì chưa đủ để trông cậy, huống hồ kẻ chẳng thể nổi được ư? Cậy vào Phật lực giống như ngồi thuyền vượt biển, trong khoảnh khắc liền đến bờ kia. Lại như thân phận thường dân muốn được quý hiển, thật chẳng phải là chuyện dễ! Nhưng vương tử vừa mới sanh ra đã là người nối ngôi vua! Tự lực, tha lực, khó - dễ, được - mất trong đấy chẳng thể nào cùng một lúc nói cho xiết được! Thường thấy kẻ tự xưng là thông Tông thông Giáo chẳng tin vào pháp môn Tịnh Độ, lại còn cho đấy là hạnh dành cho bọn ngu phu ngu phụ hành trì, sao chẳng nhìn vào chuyện đã xảy ra cho Đại Trí luật sư, Ngũ Tổ Giới, Thảo Đường Thanh vậy? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Hơn nữa, chớ nên coi pháp môn Tịnh Độ quá nhẹ, vì hàng Pháp Thân đại sĩ như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền v.v… đều chẳng thể vượt ra ngoài pháp môn này được! Mà cũng chớ nên nghĩ là quá khó, bởi lẽ, hễ ai có tâm đều có thể thành Phật. Chỉ trì vạn đức hồng danh của A Di Đà Phật thì như đã được trao bằng khoán vãng sanh. Kẻ tu Tịnh Độ hãy nên hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp, ba điều nơi thân, bốn điều nơi miệng, ba điều nơi ý đều tốt lành. Đấy là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật. Kế đó, thọ trì Tam Quy, trọn đủ Ngũ Giới, chẳng phạm oai nghi. Tiếp đến là tin sâu nhân quả, phát Bồ Đề tâm, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả, nhưng đều phải lấy điều thiện thế gian như hiếu dưỡng cha mẹ v.v… làm căn bản. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Thêm nữa, Đường Văn Tông (809-840) thích ăn nghêu, một bữa nọ có con nghêu ngậm chặt vỏ không tách ra được. Vua liền đích thân tách ra, thấy bên trong có tượng Quán Âm Đại Sĩ bằng thịt sò, trang nghiêm dị thường, Do vậy, có thể biết là có còn nên ăn thịt hay không? Nếu ăn lầm phải thân Phật, Bồ Tát hóa hiện thì tội lỗi ấy sẽ chẳng thể nào kể xiết! Nếu chúng ta biết được lý này sẽ tự chẳng dám ăn thịt mà cũng chẳng nỡ ăn thịt. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Một vị Tăng ở Ngũ Đài gặp một vị Tăng lạ lùng lấy ra một bức thư dặn giao cho Bạc Hà, nhưng không nói rõ địa chỉ. Một hôm [vị Tăng ấy] đi qua Vệ Huy thấy một lũ trẻ nhỏ hô “Bạc Hà”, vị Tăng hỏi: “Bạc Hà ở đâu?” Bọn trẻ chỉ con lợn đang nằm dưới vách tường, bảo: “Chẳng phải là nó đó sao?” Tăng cầm thư gọi “Bạc Hà”, rồi ném thư cho lợn. Con lợn đứng lên như người, dùng hai chân trước nhận lấy, bỏ thư vào miệng rồi chết đứng. Khi ấy mới biết con lợn ấy chính là do Bồ Tát biến hiện. Gã đồ tể [chủ nhân của Bạc Hà] giết lợn rất nhiều. Nếu đem con lợn sắp bị giết đến trước mặt Bạc Hà thì nó liền để mặc cho giết, trọn chẳng chạy trốn, kêu gào. Vì thế, gã đồ tể yêu mến Bạc Hà, mỗi lần muốn giết lợn, cứ dắt Bạc Hà đi vòng quanh con lợn ấy thì cũng giống như đã giết chết con lợn đó rồi! Vì thế vẫn nuôi [Bạc Hà] nhiều năm không giết. Hơn nữa, con lợn ấy sạch sẽ, thích ăn bạc hà nên đặt tên như vậy. Thoạt đầu, vị Tăng ấy nhận lá thư của vị Tăng lạ lùng rồi ra đi, giữa đường suy nghĩ: “Thư này sẽ giao đến nơi đâu?” bèn lén bóc ra, thấy đại ý viết: “Độ chúng sanh nếu [họ đã] được độ thoát thì hãy mau quay về để lâu ngày khỏi bị mê mất”. Vị Tăng lấy làm lạ, dán phong thư lại. Đến nay mới biết Bạc Hà chính là đại Bồ Tát vậy. Đi quanh con lợn một vòng thì bầy lợn liền chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Oai đức thần lực ấy há nghĩ bàn được chăng? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Ngay cả cúng giỗ tổ tiên cũng chớ nên dùng thịt, bởi lẽ, mang tiếng là kính trọng chứ thật ra đã làm hại tổ tiên! Còn như dùng thịt để dâng cho cha mẹ, đều khiến cho cha mẹ tổn phước, mắc họa ương! Cha mẹ là người có phước đức thiện căn thì phước đức thiện căn ấy sẽ bị hao tổn. Nếu là kẻ không có phước đức thiện căn thì ta đã tăng thêm ác nghiệp giết hại cho họ. Xưa kia, lúc đức Phật tại thế, một bà góa nhân giỗ đầu của chồng đi mua thịt về cúng. Trên đường đi gặp Như Lai, Như Lai dạy: “Thịt này là do chồng bà chuyển biến thành. Há nên dùng thịt của chồng để cúng giỗ hồn chồng?” Theo lẽ đó mà suy thì kính trời đất, tế quỷ thần cũng chớ nên dùng thịt. Thiên địa quỷ thần lẽ đâu chẳng hiểu sâu xa nhân quả, lại tham thứ thịt bẩn thỉu, tanh tưởi ấy mà đến chứng giám, hưởng nhận ư? Do vậy kẻ dùng huyết nhục để cúng tế muốn cầu phước, đâm ra lại mắc họa! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Ông Lưu Ngọc Thụ giữ chức Hàn Lâm đời Minh, đỗ thuyền ở Tô Châu, mộng thấy một người đàn ông to lớn đến cầu cứu, tự xưng là thiên tướng quân Tào Hàn, do tàn sát Giang Châu nên đời đời mang thân lợn: “Nơi lò mổ ở ngay trước bến thuyền, trong chốc lát, con lợn bị giết đầu tiên chính là tôi đấy. Xin hãy cứu vớt!” Ông ta tỉnh giấc quả nhiên thấy gã đồ tể sắp giết lợn liền mua đem về thả trong một ngôi chùa tại suông Môn. Hễ có ai kêu “Tào Hàn”, con lợn ấy đều quay đầu ngó. Điều này có thể chứng tỏ con người biến thành súc sanh, súc sanh biến thành người. Những chuyện về hoạt Diêm Vương, hoạt tiểu quỷ được chép trong sách vở rất nhiều. Đấy đều là thiên địa quỷ thần hé lộ một chút tin tức về nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi để răn nhắc người đời vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Ở đây, tôi lại lược thuật vài nghĩa để làm sáng tỏ đạo lý [vì sao] “không nên ăn thịt”: 1) Do cái tâm bất nhẫn: Hết thảy những loài có linh tánh đều cùng một thể. Do thương dân mà yêu vật, nguyên khí thái hòa tràn ngập nhân gian. Do vậy, biết rằng giết chóc sanh linh là chuyện hoàn toàn chẳng có nghĩa lý gì cả! Hết thảy chúng sanh đều tham sống sợ chết, sao ta nỡ lòng tàn hại sanh mạng để thỏa thích miệng bụng? 2) Nhân quả báo ứng: Hết thảy sanh linh đều do xưa kia chẳng biết nhân quả nên bị đọa lạc trong loài súc sanh. Nay ta giết chúng để ăn thịt, mai sau khi chúng đã hết ác báo, sát nghiệp của ta mới thành, ta cũng sẽ làm thịt trên thớt của chúng! Do vậy, kiêng giết, ăn chay chẳng phải là tính toán cho sanh linh mà cũng là tính kế cho chính thân ta vậy! 3) Hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ, quyến thuộc của ta trong quá khứ! Chúng ta đã biết rõ nhân quả luân hồi: Trong một đời có cha mẹ quyến thuộc trong đời ấy. Trải qua nhiều kiếp sống, sẽ có cha mẹ, quyến thuộc trong nhiều kiếp sống. Cha mẹ, quyến thuộc trải nhiều kiếp số như thế luân hồi trong sáu nẻo, trong số ấy có những người làm ác, khó tránh khỏi đọa trong tam đồ. Vì thế, đối với lục đạo chúng sanh, chúng ta phải coi như cha mẹ, vợ con. Lẽ nào con hiếu cháu hiền lại ăn nuốt cha mẹ ư? Há có cha mẹ hiền từ nào lại ăn nuốt con cái ư? Hễ suy nghĩ đến điều này sẽ chẳng nỡ ăn mà cũng chẳng dám ăn nữa!… 4) Hết thảy chúng sanh đều là chư Phật trong vị lai. Bởi lẽ, hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ làm Phật. Vì thế, họ là vị lai chư Phật. Hơn nữa, trong loài súc sanh đôi khi có Phật hay Bồ Tát hóa hiện trong ấy nhằm tạo phương tiện độ sanh như chuyện Bạc Hà được chép trong Thanh Lương Chí. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Đang trong thời buổi này, sát kiếp lừng lẫy, càng phải nên đề suông kiêng giết, ăn chay. Sát kiếp do sát nghiệp cảm thành. Sát nghiệp lớn nhất chính là ăn thịt. Do ăn thịt nên cảm vời hết thảy thiên tai, nhân họa, hạn hán, lụt lội, mưa dầm, ôn dịch, sâu rầy… Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Do con người ăn dê, dê chết thành người, người chết thành dê. Như thế cho đến mười loại chúng sanh, chết chết sống sống ăn nuốt lẫn nhau”. Kinh đã dạy rõ ràng như thế, thật đáng kinh hãi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Cũng có kẻ bảo thuyết nhân quả báo ứng là Tiểu Thừa, chẳng biết lục độ vạn hạnh cũng là nhân quả. Từ đức Như Lai đã thành Đẳng Chánh Giác cho đến phàm phu đọa trong địa ngục A Tỳ đều không gì chẳng phải là nhân quả! Bởi thế, Phật giáo đề cao, giảng rõ nhân quả, có lợi sâu đậm cho con người vậy thay! Xưa kia Văn Vương cai trị bằng lòng nhân, ân trạch thấm đến cả suông khô, nhưng chưa đầy hai ba trăm năm, phong tục giết người tuẫn táng đã trọn khắp thiên hạ. Lại còn cho rằng “càng giết nhiều càng vẻ vang”, thiên tử, chư hầu, sĩ đại phu đều tùy theo khả năng mà giết, rốt cuộc đến khoảng mấy trăm, mấy ngàn người! Ngay như Tần Mục Công là một vị vua hiền, vẫn giết hơn một trăm bảy chục người để tuẫn táng. Ba vị họ Tử Xa19 chính là bầy tôi hiền của đất nước nhưng đều bị giết để tuẫn táng, huống hồ những kẻ khác ư? Nguyên nhân đều là vì chẳng biết đến nhân quả ba đời vậy! Từ khi Phật pháp truyền vào Trung Quốc trở đi, chưa hề nghe sử sách chép có chuyện tuẫn táng. Đấy cũng chưa hề chẳng phải là do thuyết nhân quả ba đời của đức Như Lai tạo nên! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Nay đang thời mạt kiếp, lễ giáo suy vong; muốn vãn hồi thế đạo nhân tâm, ắt trước hết phải đề suông nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi. Thánh nhân thế gian nói về nhân quả như “nhà tích thiện ắt niềm vui có thừa, nhà tích điều bất thiện ắt tai ương có thừa”, “làm lành trăm điều tốt đẹp giáng suông, làm điều bất thiện trăm sự tai ương giáng suông” v.v… lời lẽ đơn giản, nhưng ý nghĩa bao trùm; người đời sau quen thói chẳng suy xét. Còn các bậc thánh nhân xuất thế gian thì nói nhân quả tường tận tột bậc. Nhờ đấy, bậc thượng trí liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, kẻ tư cách trung hạ do xét thấy “làm ác mắc quả ác, làm lành được báo lành” cũng gắng sức làm lành. Dẫu là kẻ cùng hung cực ác cũng có phần kiêng sợ chẳng dám làm! Vì thế, nhân quả báo ứng thật sự là một pháp thông trên thấu dưới. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Xưa kia có một vị Sa Di theo hầu một vị tôn giả đi đường, Sa Di chợt phát nguyện tự lợi lợi tha “trên cầu Bồ Đề, dưới hóa độ chúng sanh”, tôn giả liền bảo Sa Di đi trước. Sa Di chợt xoay chuyển ý nghĩ: “Chúng sanh nhiều như thế, làm sao để có thể độ thoát cho hết được! Chẳng thà tự lợi thì hơn”. Khi ấy, tôn giả liền bảo bước theo sau ngài. Sa Di lại chợt xoay chuyển ý nghĩ: “Vẫn phải nên độ thoát chúng sanh!” Tôn giả lại bảo Sa Di đi trước. Sa Di lấy làm lạ, hỏi lý do, tôn giả bảo: “Thoạt đầu, con phát đại Bồ Đề tâm tức là Bồ Tát, ta tuy là La Hán nhưng vẫn thuộc Tiểu Thừa. Vì thế phải mời con đi trước. Kế đó, con lại lui sụt Bồ Đề tâm, ta là thánh nhân, con là phàm phu nên theo đúng lẽ phải đi sau. Sau đấy con lại phát Bồ Đề tâm, nên ta vẫn phải thỉnh con đi trước”. Do câu chuyện này thấy rằng: Phát Bồ Đề tâm công đức vô lượng vô biên! Chúng ta muốn tăng trưởng thiện căn không thể nào chẳng phát tâm Bồ Đề. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Trộm nghĩ Phật pháp có năm thừa: 1) Nhân Thiên thừa: Nhân thừa trì Ngũ Giới, được sanh trong loài người. Thiên thừa hành Thập Thiện, được sanh lên cõi trời trong Dục Giới. Nếu còn hành thêm Tứ Thiền, Tứ Định thì sẽ sanh trong các cõi trời Sắc Giới hay Vô Sắc Giới. 2) Thanh Văn thừa: Tu Tứ Đế, đắc Tứ Sa Môn quả. 3) Duyên Giác thừa: Quán Thập Nhị Nhân Duyên, đắc Bích Chi Phật quả. 4) Bồ Tát thừa: Tu lục độ, vạn hạnh, chứng Bồ Tát quả. 5) Phật thừa: Hành đại từ đại bi, thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Nhân Thiên thừa kiêm hành Bồ Tát thừa và Phật thừa thì chắc chỉ có mình pháp môn Tịnh Độ đó chăng? Ấy là vì Nhân Thiên thừa chỉ tu Ngũ Giới, Thập Thiện, đều là công đức hữu lậu; chỉ có pháp môn Tịnh Độ này có thể vượt tam giới, liễu sanh tử! Người tu Tịnh Độ ắt phải giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình, cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận; lại còn dùng Tứ Hoằng Thệ Nguyện để mở rộng cái tâm, tự hành, dạy người, khiến cho khắp mọi người trong là cha mẹ, vợ con, ngoài là xóm giềng, làng nước đều cùng tu Ngũ Giới, Thập Thiện và tu pháp môn Tịnh Độ. Dùng tín nguyện sâu niệm Phật cầu sanh Tây Phương, người ấy tuy là phàm phu nhưng thật ra là Bồ Tát. Vì sao vậy? Do cái tâm rộng lớn! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 5 Cổ nhân nói: “Học đạo trong các môn khác như con kiến bò lên núi cao; niệm Phật vãng sanh như đã nương theo gió căng buồm lại còn thuận nước”. Kinh Hoa Nghiêm bao gồm trọn vẹn các pháp, xét đến chỗ quy túc thì chính là hồi hướng vãng sanh Tây Phương. Các kinh Đại Thừa không kinh nào chẳng tán dương Tịnh Độ, nhưng bốn kinh Tịnh Độ chuyên giảng đến tột cùng. Ở Tây Thiên thì các vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ v.v… tự hành, dạy người, đều cùng chỉ quy Tịnh Độ. Nơi Đông Độ, từ khi Viễn Công sáng lập Liên Xã ở Lô Sơn trở đi, Đàm Loan, Đạo Xước, Thiên Thai, Thiện Đạo v.v… đời nào cũng nghe nói có người, ấy là vì Phật đã sớm biết chúng sanh đời sau căn khí mỏng yếu nên đặc biệt mở ra pháp môn Niệm Phật. Vì thế, các vị Bồ Tát, tổ sư cực lực đề suông để mong hết thảy chúng sanh đều cùng liễu sanh thoát tử ngay trong đời này. Tục ngữ có câu: “Thiểu thật thắng đa hư, đại xảo bất như chuyết” (Thật ít hơn dối nhiều, khéo quá chẳng bằng vụng). Pháp môn Niệm Phật phải tu bằng thật hạnh, nên lúc lâm chung Liên Trì đại sư dặn dò đại chúng rằng: “Xin mọi người hãy thật thà niệm Phật”. Nếu các vị thật thà niệm Phật sẽ chẳng phụ lòng đức Như Lai đại từ bi đã nói ra pháp môn đặc biệt này! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 4 Hễ tưởng nghĩ đến đời sau thì niệm Phật sẽ thật thiết tha, sẽ tự nhiên đạt được những cảnh giới khá tịnh diệu trong hiện tại. Quang khuyên [các hành nhân tu Tịnh Độ] chỉ nên mong đạt được nhất tâm, đừng mong tưởng cảnh giới. Nếu không, khó tránh khỏi bị ma dựa! Trong tháng Tư năm nay, có người gởi thư đến kể những cảnh giới cực kỳ hiểm ác, Quang viết thư cho ông ta, khuyên nên nhiếp tâm tịnh niệm. Tất cả cảnh giới đều là huyễn hóa; với cảnh giới tốt đẹp đừng nên hoan hỷ, với cảnh giới xấu ác đừng nên sợ hãi, chúng sẽ tự tiêu diệt. Cần biết rằng: “Ngàn sông bóng nước, ngàn trăng rọi; muôn dặm không mây, muôn dặm trời”. Nếu đạt tới lúc tâm và Phật tương ứng thì có cảnh giới hay không cảnh giới đều được cả! Chưa đạt đến lúc tâm tương ứng với Phật, cứ lầm lạc muốn thấy cảnh giới thù thắng, nhiệm mầu, thì chính là cái gốc để chuốc lấy ma sự đấy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 4 Cần biết rằng: Kiến Hoặc và Tư Hoặc chính là căn bản sanh tử. Chưa đạt đến địa vị “nghiệp tận, tình không”, sẽ do đâu mà liễu sanh tử được? Niệm Phật cậy vào Phật từ lực nên lợi ích sâu rộng. Vì thế, Thanh Lương quốc sư nói: “Ngu phu, ngu phụ cắm cúi niệm Phật liền có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu”. Pháp môn Niệm Phật hợp với thời cơ đời Mạt Pháp nhất. Hòa Thượng Thiện Đạo nói: “Nếu luận về học Giải thì hết thảy pháp môn đều phải nên học. Nếu luận về tu trì, cần phải chọn lấy một môn khế lý, khế cơ thì mới có lợi ích thật sự”. Pháp môn Niệm Phật nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân, là khế lý, khế cơ nhất, con người hiện thời đều nên tu trì. Nhưng pháp môn Niệm Phật cũng có rất nhiều lối, cầu lấy một đường lối thỏa đáng thì chỉ có Trì Danh. Ngay như cách tu Quán Tượng, Quán Tưởng cũng có khuyết điểm! Bởi lẽ, tâm địa chẳng sáng suốt, không hiểu rõ cách Quán, chắc là ma sự sẽ dấy lên. Nếu quán Thật Tướng thì ai có thể khế nhập thấu triệt được? Do vậy, người niệm Phật chớ nên chú trọng những gì cao xa, mà hãy nên chuyên chú nơi những gì thực tiễn. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 4 Hỏi: Một pháp Niệm Phật vì sao lại có thể coi là thích hợp khắp cả ba căn? Đáp: Tội nhân Ngũ Nghịch Thập Ác cực nặng lúc sắp mạng chung, tướng địa ngục hiện, nghe thiện tri thức dạy niệm Phật bèn niệm mười tiếng hoặc niệm mấy tiếng liền được đức Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Do kẻ ấy bị khổ sở bức bách, phát tâm khẩn thiết, nên được thành tựu; chẳng thể nào đem so với kẻ niệm Phật hờ hững, hời hợt để rồi sanh lòng nghi. Đấy là hạ căn. Nếu luận về thượng căn thì từ bậc Sơ Phát Tâm Trụ cho đến Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ đều phải niệm Phật hồi hướng vãng sanh hòng viên mãn Phật Quả. Do vậy, nói: “Hết thảy pháp môn đều phải lấy niệm Phật làm chỗ quy túc”. Nếu chỉ ham cao chuộng xa, bàn nói điều huyền lẽ diệu thì sẽ như đếm vật báu của người khác, chính mình chẳng được nửa xu, rốt cuộc chính mình chẳng được hưởng dùng chi hết! Vì phải đạt tới mức “nghiệp tận, tình không” thì mới có thể liễu sanh tử; nếu chỉ nói suông, có ích gì đâu? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 4 Huống chi câu Phật hiệu ấy không một ai chẳng thể niệm được. Dẫu lười nhác, biếng trễ chẳng chịu niệm, nhưng nghe âm thanh niệm Phật của mọi người cũng có lợi ích. So sánh đôi bên, cố nhiên niệm Phật vượt trỗi niệm kinh nhiều lắm! Do niệm Phật giản tiện tột bậc, ngay như kẻ chẳng niệm Phật nhưng nghe âm thanh niệm Phật lọt qua tai liền được gieo thiện căn. Do vậy, một câu Phật hiệu này rót vào trong tám thức điền, trong tương lai khi gặp duyên sẽ nẩy sanh. Ví dù bị oán quỷ, bệnh ngặt bức bách, niệm Phật sẽ đều trừ được. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 4 Bốn hay năm năm (5 năm) trước, từ Tứ Xuyên có gởi tới một thông cáo, cho biết vùng Xuyên Trung chiến sự không ngớt, muốn cầu cho chiến tranh ngưng dứt, khuyên hết thảy mọi người niệm chú Lăng Nghiêm. Cần phải biết rằng: Những người có thể tụng đọc chú Lăng Nghiêm thì trong ngàn người khó kiếm được một kẻ! Họ còn in ra rất nhiều bản [chú Lăng Nghiêm] cho người ta đeo và dán trên đầu cửa. Sự việc khá phiền phức, tốn kém lại nhiều, sao bằng niệm Phật hoặc niệm chú Đại Bi hoặc niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, so ra thẳng chóng, thích đáng hơn! Vì thế, tôi thấy những kẻ suông suất, đề nghị tụng chú Lăng Nghiêm thật nực cười! Bởi lẽ, họ chỉ chú trọng phô trương, chứ không quan tâm đến thực chất. Đã là như thế thì lợi ích sẽ kém xa niệm Phật, bởi một câu A Di Đà Phật chính là vô thượng Bồ Đề giác đạo được chứng bởi chính đức Phật. Nếu chúng ta có thể dùng danh hiệu này để tự huân tập [cái tâm mình] thì lâu ngày chầy tháng khí phận sẽ tương đồng với Phật. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 4 Con người hiện thời phần nhiều chuộng lạ, chuộng bày vẽ phô trương, như pháp hội Hộ Quốc Nhân Vương, pháp hội Kim Quang Minh, pháp hội trì chú Lăng Nghiêm, pháp hội Đại Vân Luân v.v… Những thứ pháp hội ấy có công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, nhưng do người đời nay tài lực ít ỏi, thể lực kém cỏi, tuy nói là “cử hành”, nhưng khó thể đạt được lợi ích thù thắng, vì đấy không phải là chuyện ai cũng có thể thực hiện được. Nếu niệm Phật, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì không một ai chẳng thể làm được! Cho nên về mặt lợi ích, không có một pháp hội nào sánh bằng niệm Phật! Bởi lẽ, pháp môn Niệm Phật thích hợp khắp ba căn, phù hợp căn cơ nhất. Dẫu là đứa con nít bé tẹo vẫn có thể làm được, chứ nếu niệm kinh thì chỉ có một số ít người biết niệm, chẳng phải ai cũng đều biết niệm! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 4 Trong tháng Bảy năm nay, chính ông Lý Vân Thư bị bệnh. Đang lúc bệnh nặng, thỉnh mấy vị cư sĩ niệm Phật; về sau, do hôn mê bất tỉnh nhân sự bèn thôi. Kế đó, nghĩ tới chuyện năm ngoái đã từng vì người em dâu mở Niệm Phật Thất, bèn sai người đến chùa Thái Bình hỏi tôi và hòa thượng Chân Đạt. Do hai người chúng tôi cùng trụ tại Phổ Đà, ông Lý liền gởi thư xin chúng tôi sang Thượng Hải mở Niệm Phật Thất. Do nhằm tháng Bảy, đã qua khỏi kỳ dâng hương tại Phổ Đà, gặp đúng dịp thanh nhàn, chúng tôi liền mở Phật Thất tại Tam Thánh Đường núi Phổ Đà, chọn ngày Mười Bốn tháng Bảy để khai đàn, ngày Hai Mươi viên mãn. Hôm Mười Ba, Quang liền gởi thư cho Vân Thư; hôm Mười Bảy, ông ta gởi thư trả lời cho biết bệnh đã khỏi được tám chín phần. Hiện thời, Lý Vân Thư đã hoàn toàn lành bệnh, chỉ có điều sức lực vẫn chưa được bình phục hoàn toàn. Lý Vân Thư bệnh nặng như thế mà nhờ Phật Thất gia bị liền được khỏi hẳn bệnh. Linh nghiệm như thế, đấy là một chứng cớ rõ rệt thứ hai vậy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 4 Ngoài ra, năm ngoái cư sĩ Lý Vân Thư do người em dâu bệnh nặng, đến chùa Thái Bình muốn làm Phật sự, tôi khuyên ông ta mở Niệm Phật Thất. Bệnh của người em dâu đã được rất nhiều y sĩ chữa chạy nhưng chẳng lành. Vị thầy thuốc cuối cùng thương cô ta bị đau khổ khó thể chịu đựng đã khuyên nên uống thuốc độc cho mau chết. Do vậy, Vân Thư lập cách cầu Phật gia bị nên đến đây bàn bạc với Quang, Quang bảo mở Niệm Phật Thất. Không lâu sau, Quang trở về núi, cũng chẳng biết cô ta được lợi ích ra sao! Đến mồng Bảy tháng Tư năm nay, Quang sang Cư Sĩ Lâm thăm pháp sư Đế Nhàn. Ông Lý Vân Thư cũng đến, cho biết năm ngoái vào hôm đầu tiên của Niệm Phật Thất, cô em dâu ông ta nằm mộng thấy cô ta đến Tam Thánh Đường cùng với tăng chúng niệm Phật, niệm Phật rất lâu, rất thanh thản, thoải mái, bệnh liền nhẹ dần. Vân Thư bảo cô ta: “Tôi đã niệm Phật cho mợ ở chùa Thái Bình chứ không phải là Tam Thánh Đường”. Cô em dâu cãi: “Không phải chùa Thái Bình, mà là Tam Thánh Đường”. Sau này, hỏi thăm mới biết chùa Thái Bình chính là hạ viện của Tam Thánh Đường núi Phổ Đà. Đủ thấy người bị bệnh nếu biết niệm Phật vẫn được Phật lực gia bị khiến cho bệnh được lành. Chuyện này là một chứng cớ rõ ràng vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 4 Năm trước, vợ ông Giang mất, muốn làm Phật sự, gởi một trăm đồng cậy Quang làm Phật sự. Do vậy, bèn mở một Niệm Phật Thất tại chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà. Đêm viên mãn Phật Thất, khá có linh cảm… Phàm người làng đến phúng điếu, toan tế vong, ông ta đều khước từ, bảo với họ: “Phàm ai đến điếu tang, hãy niệm Phật [trong thời gian cháy hết] một cây hương sẽ tốt hơn là tế lễ nhiều lắm”. Do vậy, dân làng chia ra mấy ban, mỗi ngày một ban đến niệm Phật, niệm tới mấy ngày mới hết…con của ông Giang tên là Hữu Bằng vào đêm viên mãn Phật Thất tại chùa Pháp Vũ nằm mộng thấy nhận được nhiều lá thư, liền cầm một bức lên Phật đường trên lầu để xem. Ngọn đèn trong Phật đường sáng hơn ánh chớp, bóc bức thư ra thì chính là một bức vẽ về cảnh tượng trong thế giới Cực Lạc. Pháp Vũ mở Phật Thất có tất cả mười sáu vị Tăng nhân. Trước hôm mở Phật Thất một ngày, Quang đối trước Tăng chúng nói: “Quý vị niệm Phật phải thật thà, khẩn thiết thì mình lẫn người mới đều được lợi ích”. Do vậy, mỗi vị tăng sĩ đều nghiêm túc. Đấy cũng là một cái nhân tạo nên sự linh cảm…Năm ngoái, cha của cư sĩ Giang Dịch Viên mất, ông ta cũng gởi tiền cậy Quang mở Phật Thất. Năm nay, bạn ông ta là Ngô Trường Vinh có mẹ vừa mất, cũng gởi tiền cậy mở Phật Thất. Cư sĩ Giang Dịch Viên bình sinh thích niệm Phật nhất, đề suông pháp môn Niệm Phật chẳng tiếc sức thừa, khá có linh cảm. Năm ngoái, vùng Vụ Nguyên bị hạn hán, Dịch Viên khuyên mọi người nhất tâm niệm Phật, chẳng đầy mấy bữa trời mưa một trận lớn. Do vậy, lập ra Phật Quang Liên Xã, người tham dự liên xã đông lắm, cũng lôi kéo Quang làm hội trưởng danh dự. Niệm Phật có đủ mọi chuyện linh cảm khác nhau. Những chuyện như cầu mưa, cầu tạnh và lành bệnh v.v… đều khá rõ rệt, đủ biết niệm Phật lợi ích lớn nhất. Đấy chính là nhân duyên thứ nhất - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 4 Nhân duyên thứ nhất: Nếu luận về nhân duyên dẫn đến [pháp hội Niệm Phật Thất này] thì sẽ phải nói rất dài. Từng nhớ năm Dân Quốc 11 (1922), Quang đến đất Thân (Thượng Hải), trụ tại chùa Thái Bình. Cư sĩ Giang Dịch Viên do chiếc tàu thủy Đại Thăng bị hỏa hoạn, muốn làm Phật sự [để cầu siêu cho các nạn nhân], Quang khuyên ông ta nên mở Niệm Phật Thất. Lại khuyên người chủ quản công ty ấy tham dự Niệm Phật Thất cho đến mãn thất. Ấy là vì niệm Phật có lợi ích thù thắng hơn công đức của những thứ Phật sự khác; vì muốn cho những người bị chết cháy, chết đuối được hưởng lợi ích chân thật cho nên khuyên chuyên nhất niệm Phật! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 4 Trước hết, nay tôi trình bày nhân duyên của Phật Thất lần này, rồi sẽ nói tới đại cương của pháp Niệm Phật. Như vậy, tông chỉ của pháp Niệm Phật sẽ được minh bạch. Nếu không, chẳng biết căn bản, chắc chắn sẽ không thể đặt nền tảng vững vàng được, chắc sẽ bị kinh giáo hoặc lời lẽ của thiện tri thức xoay chuyển đến nỗi bỏ pháp này để tu các pháp môn khác. Pháp Niệm Phật như thuốc A Già Đà. Tiếng Phạn A Già Đà, tiếng Hán là Phổ Sanh, cũng dịch là Tổng Trị vì nó sanh khắp [mọi sự an lạc, công đức] và trị chung mọi căn bệnh vậy. Pháp môn này cũng giống như thế, trừ được tám vạn bốn ngàn phiền não. Do vậy, pháp môn Niệm Phật bao trùm khắp muôn hình tượng, hết thảy các pháp, không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này. Hết thảy các pháp không pháp nào chẳng quy hoàn pháp giới này. Do nó nắm giữ hết thảy các pháp nên không pháp nào chẳng được trọn vẹn, không căn cơ nào chẳng gồm thâu! Đức Phật chỉ muốn làm cho chúng sanh siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, nhưng chúng sanh căn cơ không giống nhau, tâm nguyện mỗi người mỗi khác. Nếu có chúng sanh cầu phước, cầu thọ, cầu tài, cầu con v.v… chỉ cần thành tâm mong cầu, hễ có cầu ắt ứng. Tuy đấy là pháp thế gian, nhưng nhằm để tiếp dẫn kẻ hạ căn gieo thiện căn dần dần cho nên cũng làm cho họ được mãn nguyện. Nếu luận nơi bổn ý của đức Phật thì chỉ là muốn khiến cho chúng sanh nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, cậy vào Phật từ lực, lâm chung tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Hễ được vãng sanh sẽ liền thoát khỏi nỗi khổ luân hồi trong tam giới, từ đấy tiến tu dần dần cho đến khi thành Phật thì mới là thật nghĩa rốt ráo của Niệm Phật. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 4 Phàm làm chuyện công ích, chớ nên chấm mút chút nào. Nếu không, chẳng những là dối người mà còn đúng là dối lòng, dối Phật nữa đấy! Sửa ác, hướng lành, cần phải luận từ nơi khởi tâm động niệm. Há nên công khai làm chuyện dối người ư? Những kẻ mù quáng khuấy rối hiện thời đều là những kẻ cực ngu si chẳng biết nhân quả, chẳng biết tội phước báo ứng. Nếu bọn họ có chân tâm, trí huệ, dẫu dùng cái chết để uy hiếp buộc họ làm như vậy, họ cũng chẳng chịu làm! Mong hãy chú ý [điều này] thì may mắn lắm thay. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 3 Cuốn Pháp Hải Thê Hàng của ông chẳng có thứ tự, thơ văn cũng chẳng thật sự theo thứ lớp. Chỉ nên cẩn thận đọc kỹ những sách có ích cho thân tâm và sốt sắng niệm Phật, không cần phải chú ý đến thơ văn. Nếu qua sách vở mà hiểu được duyên do thì niệm Phật sẽ được lợi ích, tự nhiên thơ văn sẽ vượt trỗi. Nếu không, cũng chỉ là gượng ép, áp đặt; xét ra, chẳng dính dáng gì tới tâm pháp cả! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 3 Soạn sách lập ngôn quả thật chẳng phải là chuyện nhỏ nhặt đâu nhé! Xin hãy nhất tâm niệm Phật, đợi đến khi nghiệp tiêu trí rạng xong, rồi mới viết lách để làm cho hết thảy những kẻ sơ cơ đều được lợi ích thì mới hòng ít mắc phải khuyết điểm “giáo pháp chẳng phù hợp căn cơ”. Xét ra, cuốn sách ấy của ông chưa từng chỉ rõ gốc bệnh của con người hiện thời và cách chữa trị. Tuy giảng chung chung về Phật lý cũng có thể khiến cho người khác sanh lòng tin, nhưng đối với kẻ sơ cơ, do phần lớn những từ ngữ được nêu trong sách là những danh từ riêng [trong Phật pháp], họ sẽ chẳng hiểu rõ, ắt sẽ đến nỗi cật vấn lẫn nhau, vô sự sanh sự, đâm ra chẳng có quan hệ khẩn yếu chi đối với chuyện niệm Phật! Đấy chính là lý do tại sao Quang không tán thành ý tưởng soạn sách của ông. Đã không tán thành, há có thể sửa đổi đại lược, phê bình đại lược hay sao? Mong ông biết rõ nguyên do, chẳng đến nỗi vẫn mơ màng trong mộng mà thôi! khó được lợi ích. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 3 Phàm tu hành thì phải nên chuyên ròng, chớ nên xen tạp. Pháp Niệm Phật vượt trỗi hết thảy. Cầu siêu cho người đã khuất, hoặc cầu cho cha mẹ tăng tuổi thọ và hết thảy mong cầu đều được như nguyện, nhưng phải lấy cầu sanh Tây Phương làm chủ. Muôn vàn chớ nên cầu phước báo trong đời sau. Nếu cầu đời sau sẽ không được hưởng lợi ích vãng sanh. Hãy nên đọc kỹ Văn Sao sẽ tự biết duyên do về mặt Sự lẫn mặt Lý. Đối với những căn bệnh của con người hiện thời và phương thuốc để chữa trị thì trong Văn Sao cũng đều có nói. Nói chung, lấy đề suông nhân quả báo ứng làm căn cứ để vãn hồi thế đạo nhân tâm. Dụng công tu hành cố nhiên phải nên chuyên ròng; nhưng phàm phu vọng tưởng tơi bời, nếu chẳng dùng kinh chú để giúp thêm, chắc sẽ đến nỗi hờ hững, lười trễ, biếng nhác! Nếu có thể thống thiết như khi chôn cất cha mẹ, như cứu đầu cháy thì Nhất Hạnh tam-muội quả thật là hay nhất. Còn nếu niệm Phật hờ hững, bãi buôi, thì lâu ngày chắc sẽ trở thành lười nhác, buông xuôi, bỏ lửng, vì thế chẳng bằng kiêm trì kinh chú sẽ chắc chắn hơn…Nói chung, do tâm sanh tử thiết tha, thành kính khăng khăng một niềm thì chuyên niệm hay kiêm niệm đều được cả. Nếu không, chuyên niệm sẽ trở thành hờ hững, coi thường, kiêm niệm sẽ trở thành tràn lan, lộn xộn. Ấy là vì căn bản không chân thật, thiết tha, nên đến nỗi hết thảy đều khó được lợi ích. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 3 Hiện thời chiến sự vùng Giang - Chiết đã yên, nhưng trong nhất thời nhân dân khó thể khôi phục được như cũ. Thương thay! Nhân dân mắc phải sự khổ ác dữ dội này, nói chung là do ác nghiệp đời trước cảm thành ác báo khổ sở cùng cực ấy. Vì thế, phải đem nhân quả ba đời nói với hết thảy những ai hữu duyên, khuyên họ đừng tạo những nhân gây ra nghiệp báo ấy nữa thì tương lai sẽ tự chẳng phải nhận lãnh cái quả ác báo ấy. Những thứ nhân ác ấy phần nhiều đều do sát sanh ăn thịt mà dấy lên! Phàm với hết thảy mọi người đều nên khuyên họ hãy lấy “kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật” như là một diệu pháp vô thượng nhằm giải quyết vấn đề từ căn bản. Tiếc thay! Con người chỉ biết có mình, chẳng biết có người khác thì làm sao suy tính tới hết thảy loài vật được? Tới khi ác báo xảy đến, con người bị xử phạt, giết chóc so với lúc loài thú bị hành hạ, giết chóc nào có khác chi? Kinh dạy: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Hễ sợ nhân thì chẳng phải nhận lãnh quả, chứ sợ quả thì trọn chẳng có mảy may ích lợi gì! Nếu đổi cái tâm sợ quả thành cái tâm sợ nhân thì thế giới sẽ tự thanh bình, yên ổn vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 2 ..Kẻ thông minh vẫn xem nhẹ nhân quả, cho rằng nhân quả bất quá chỉ để nói với kẻ căn cơ trung - hạ, chẳng biết rằng: Hễ chỉ hiểu ý nghĩa của nhân quả một cách thô thiển thì chẳng đáng gọi là Tín! Tuy biết nhưng chẳng tận tụy vâng hành thì cũng chẳng đáng gọi là Tín. Chỉ có bậc thánh nhân thuộc Sơ Quả, Sơ Địa, hay Dự Lưu mới có thể “chẳng còn phải mang thân sau”. Hễ chẳng còn phải mang thân sau thì chẳng còn là kẻ bị chi phối bởi Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, nên đáng gọi là “có lòng tin chuyên dốc”. Vì thế, ngài Mộng Đông nói: “Kẻ khéo bàn về tâm tánh ắt chẳng bỏ lìa nhân quả, nhưng kẻ tin sâu nhân quả rốt cuộc ắt sẽ hiểu tâm tánh thật rõ rệt”. Đấy chính là nguyên do vì sao trong thế gian người niệm Phật đông đảo mà bậc thật sự liễu sanh tử lại hiếm hoi! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 1 Ngoài ra, xem kinh cũng [phải nhiếp tâm] giống như thế, đừng một mặt vừa xem, một mặt lại phân biệt; [nếu không], sẽ được lợi ích ít ỏi, tình tưởng sẽ nhiều. Xưa kia có người chép kinh do chí thành chép kinh, chuyên tâm nhất ý, chỉ chú tâm chép kinh, không có tình kiến gì, đến khi trời đã tối, vẫn cứ viết chép không ngừng. Chợt có người bảo: “Trời đã tối rồi, sao còn chép kinh được?” Lúc ấy, người chép kinh tình niệm vừa động, chẳng thể viết được nữa. Ôi! Phân biệt sáng - tối chính là vọng kiến của chúng sanh, là phàm tình của chúng sanh vậy! Vì thế, đang trong lúc chuyên tâm nhất ý, vọng tận, tình không, chỉ biết chép kinh, chẳng biết trời đã tối, cũng chẳng biết hễ trời đã tối sẽ không có ánh sáng nên không thể chép kinh được nữa! Tới khi có người nhắc nhở, khuấy động, do vô minh động nên tình tưởng bèn chia ra. Vọng niệm vừa động, ngay lập tức, sáng sủa và tối tăm liền tách bạch nên chẳng thể chép kinh được nữa. Do vậy, biết rằng đầu mối của đạo dụng công là chuyên nhiếp, chẳng quan tâm đến tình tưởng. Nếu đã không có suy tưởng thì đâu có tà kiến nữa! Tà kiến đã không còn, đấy chính là chánh trí! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 1 Trong chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông [của kinh Lăng Nghiêm] có câu: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam-ma-địa, ấy là bậc nhất”. Do vậy biết pháp Niệm Phật phải nên nhiếp trọn sáu căn. Trước khi nhiếp trọn sáu căn thì trước hết phải nhiếp được hai hay ba căn. Hai hay ba căn là gì? Chính là tai, miệng, tâm vậy. Miệng niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật sao cho từng câu từng chữ rõ ràng, rành mạch, trong tâm niệm cho rõ ràng rành mạch, tai nghe cho rõ ràng, rành mạch. Hễ có chỗ nào hơi không phân minh thì đấy chính là không chân thật, thiết tha, có vọng tưởng [xen tạp] (Chỉ niệm mà không nghe thì dễ sanh vọng tưởng). Niệm Phật cố nhiên phải sao cho từng câu từng chữ phân minh, chẳng để sự suy nghĩ xen vào. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 1 Cũng có những kẻ do thấy pháp môn Tịnh Độ hết sức Thiền chính là Chân Như Phật Tánh chúng ta vốn sẵn có, tức bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra, tức “linh tri ly niệm, không Năng, không Sở, vừa Tịch, vừa Chiếu”, tức cái được gọi là “thuần chân tâm thể”. Tịnh Độ chính là tín nguyện trì danh, cầu sanh Tây Phương (chứ không phải chỉ riêng cho “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”). “Có Thiền” là tham cứu cực lực đến mức “niệm tịch, tình vong”, thấy thấu triệt bản lai diện mục, minh tâm kiến tánh. “Có Tịnh Độ” là chân thật phát tâm, sanh lòng tin, phát nguyện, trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Thiền và Tịnh Độ là ước theo Giáo, ước theo Lý. “Có Thiền, có Tịnh Độ” là ước theo căn cơ, ước theo tu. Một đằng là Lý, một đằng là Sự. Lý tuy là như thế, nhưng phải cần theo đúng Lý để khởi Hạnh, Hạnh phải đạt đến cùng cực nhằm chứng Lý, chính mình phải chuyên gắng nhằm thật sự đạt được. Nếu tham Thiền chưa ngộ, hoặc ngộ chưa triệt để, đều chẳng thể gọi là “có Thiền”. Nếu niệm Phật nhưng không có tín nguyện, hoặc có tín nguyện nhưng không chân thật, thiết tha, chỉ hờ hững, hời hợt, lằng nhằng cho xong chuyện, hoặc hạnh tuy tinh tấn nhưng nhân địa chẳng thật, tâm lưu luyến trần cảnh, cho đến cầu phú quý trong đời sau, cầu sanh lên cõi trời hưởng lạc đều chẳng thể gọi là “có Tịnh”! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 1 đơn giản, hết sức dễ dàng, dẫu là ngu phu ngu phụ cũng tu được, bèn coi thường Tịnh Độ, chẳng biết một môn Tịnh Độ thích hợp khắp ba căn, nhiếp trọn mười giới! Trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử sau khi đã chứng bằng với chư Phật, Phổ Hiền Bồ Tát bèn dùng mười đại nguyện vương để khuyến tấn, khích lệ Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới nhằm mong viên mãn Phật quả. Như Thiện Tài đã đạt đến địa vị Đẳng Giác, Hoa Tạng hải chúng không có vị nào là phàm phu, Nhị Thừa, toàn là những người thuộc bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, phá vô minh, chứng Tam Đức, mà vẫn phải hồi tâm niệm Phật, nguyện vãng sanh Tây Phương! Hơn nữa, trong Hoa Tạng Hải có vô lượng Tịnh Độ, nhưng cần phải hồi hướng Tây Phương; đủ biết vãng sanh Cực Lạc chính là cửa ngõ nhiệm mầu để xuất thế, là đường tắt để thành Phật. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 1 Các pháp môn thuộc Tông, thuộc Giáo phần nhiều cậy vào tự lực. Dẫu cho túc căn sâu dầy, triệt ngộ tự tâm, nhưng nếu Kiến Hoặc và Tư Hoặc còn có chút nào chưa sạch hết thì vẫn luân hồi trong sanh tử y như cũ, không thể thoát ra. Huống chi đã thọ Thai Ấm, vừa chạm cảnh liền sanh mê, kẻ từ giác đến giác ít ỏi, người từ mê vào mê đông đảo! Bậc thượng căn còn như thế, hạng trung - hạ cần chi phải nói nữa! Liễu thoát sanh tử thật chẳng dễ dàng! Chỉ có pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chuyên cậy vào nguyện lực của Phật Di Đà, bất luận thiện căn chín muồi hay chưa, ác nghiệp nặng hay nhẹ, thậm chí Ngũ Nghịch, Thập Ác, chỉ cần sanh lòng tin phát nguyện, trì danh hiệu Phật, khi lâm chung chắc chắn được đức Di Đà tiếp dẫn vãng sanh Tịnh Độ. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Pháp Ngữ, thư 1 Pháp Hoa kinh tạng sâu thẳm u viễn không ai thấu đạt được. Chúng ta có chí tiến nhập thì xin hãy chí thành khẩn thiết, chuyên trì thánh hiệu A Di Đà Phật. Nếu có thể nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối thì sẽ tự có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu. Trong đời hiện tại sẽ mau chóng thoát khỏi Ngũ Trược, cao đăng chín phẩm, cho đến chứng Vô Sanh Nhẫn, thành đạo Bồ Đề. Lời nói này tuy cực bình thường, nhưng quả thật là bí yếu của chư Phật. Nếu bậc thông gia xem đến, chắc chắn sẽ bật cười! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 36 Cư sĩ Trí Duệ vừa đọc Văn Sao liền sanh tín tâm, ăn chay niệm Phật, chưa được bao lâu liền biết trước lúc mất, niệm Phật qua đời. Đáng gọi là bậc trượng phu trong nữ giới! Chẳng thẹn mang tên Trí Duệ. Nguyện những vị trượng phu mày râu, những vị hiền thục mềm mỏng chốn khuê các trong cõi đời đều chẳng nhường cho bà ta riêng được giải thoát thì may mắn lắm thay. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 34 Xót thương chúng sanh trong cõi đời, căn độn, nghiệp nặng, chỉ có niệm Phật thì mới chắc chắn mong thoát được sanh tử. Hãy nên quán tưởng như tù nhân bị dắt ra chợ [để hành hình], mỗi bước càng gần với cái chết hơn! Phàm những vị có cùng chí hướng niệm Phật với tôi, ắt đều phải niệm niệm trừ sạch các duyên, quyết muốn giữ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha. Hãy nên tu Chánh Hạnh niệm Phật, dùng Tín - Nguyện dẫn đường, lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh. Ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh chính là tông yếu của pháp môn Niệm Phật. Do bốn chữ hồng danh chẳng rời niệm, tiếng niệm Phật chẳng ngừng, tâm và Phật tự nhiên khế hợp, tam-muội sẽ tự thành - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 33 Khi đại giáo được truyền sang phương Đông, [các tháp xá-lợi] ấy lần lượt xuất hiện, như chùa Dục Vương ở Ngũ Đài v.v… Tháp [thờ xá-lợi] ở chùa A Dục Vương tại Ninh Ba là do vào năm Thái Khang thứ ba (282) đời Tấn Vũ Đế có một vị tăng là Huệ Đạt, vị này chính là Lợi Tân Bồ Tát thị hiện, lễ bái thỉnh cầu, [tháp xá-lợi] bèn từ đất vọt lên. Sư bèn dựng chùa A Dục Vương, thờ tháp xá-lợi ấy trong lòng tháp đá nơi đại điện, cửa tháp thường khóa chặt. Có ai muốn chiêm ngưỡng xá-lợi phải thông báo trước cho vị chủ tháp biết. Lễ Phật trong đại điện xong, quỳ ở bậc thềm ngoài điện, nơi ấy thường có người quỳ. Phàm ai muốn chiêm ngưỡng, đều quỳ tiếp theo đó. Tháp chủ thỉnh tháp ra, trước hết cho người quỳ phía trong xem, rồi cho khắp những người quỳ tiếp theo được xem. Dẫu trong một ngày có người theo chiêm ngưỡng mấy lượt cũng chẳng lấy đó làm phiền. Tháp ấy cao một thước bốn tấc, chu vi cũng chỉ hơn một thước. Tầng giữa tháp trống rỗng, bên trong ấy treo một quả chuông đặc ruột, ngay chính giữa đáy chuông có gắn một cây kim. Xá-lợi được gắn trên mũi kim. Bốn mặt trổ cửa sổ, có chấn song chạm trổ ngăn che, chẳng thò tay vào được, [người chiêm bái] liền ghé mắt dòm qua khe chấn song chạm trổ. Viên xá-lợi ấy hình dáng, màu sắc, lớn - nhỏ, nhiều - ít, cố định hay di động đều không nhất định. Những người bình thường nhìn vào phần nhiều thấy là một hạt, cũng có người thấy là hai, ba, bốn hạt, có người thấy xá-lợi dính vào đáy chuông không chuyển động, có người thấy xá-lợi tụt suông khỏi mũi kim chừng khoảng một tấc. Có người thấy xá-lợi chợt dâng lên chợt hạ suông, chợt nhỏ, chợt lớn. Có người thấy là màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, và mỗi sắc lại đậm - nhạt khác nhau, hoặc có cả hai màu, hoặc có nhiều màu sắc khác nhau. Có người thấy màu sắc tăm tối, có người thấy màu sắc sáng ngời. Chẳng riêng gì mỗi người thấy mỗi khác, mà ngay cả đối với một người cũng phần nhiều chuyển biến bất nhất. Lại có người thấy có hình như hoa sen và tượng Phật, Bồ Tát. Cũng có kẻ nghiệp lực sâu nặng, hoàn toàn trọn chẳng thấy được gì! Khi thấy xá-lợi nhỏ thì nó to bằng hạt đậu xanh nho nhỏ. Cũng có người thấy xá lợi to bằng hạt đậu nành hoặc bằng quả táo tàu. Trong niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, Lại Bộ thượng thư là Lục Quang Tổ dốc lòng tin tưởng Phật pháp, cực lực hộ trì, cùng mấy vị thân hữu đến xem, thoạt đầu thấy xá-lợi to bằng hạt đậu đỏ, kế đó to như hạt đậu nành, to như trái táo, rồi to như quả dưa, rồi to như bánh xe, quang minh chói ngời, tâm mục thanh lương. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Bi Ký, thư 9 Kim Sa Cư Sĩ Lâm đã được thành lập, sẽ một vai gánh vác danh nghĩa, thực chất, sự nghiệp của hàng cư sĩ thì không lâu sau sẽ đích thân thấy cõi đời trở lại thuở Đường Ngu, con người mong trở thành thánh, thành hiền. Nói tới cái danh nghĩa “cư sĩ” thì [cư sĩ] chính là những vị sống tại gia tu đạo. Nói tới thực chất thì chính là giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tu hành điều lành trong thế gian để lập nền tảng, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, nguyện cho khắp mình lẫn người đều cùng liễu sanh tử. Người làm được như thế thì mới chẳng phụ cái danh là Cư Sĩ. “Sự nghiệp” chính là dùng thân để làm gương, hoằng dương sự giáo hóa của đức Phật, chỉ lấy “tự lợi, lợi tha, tự lập, lập người” làm chí hướng, sự nghiệp. Đối với hư danh, lợi lộc phù phiếm đều xem nhẹ, chẳng hề bận lòng; đối với luân lý, thanh quy quyết chẳng vi phạm, khiến cho người thấy kẻ nghe đều sanh lòng ngưỡng mộ. Đấy gọi là “dùng lời lẽ để dạy thì bị tranh cãi, dùng thân để dạy thì người ta thuận theo”. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Bi Ký, thư 10 Làm phận con nên lấy đạo “siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử” để khuyên cha mẹ, khiến cho ngay trong đời này, cha mẹ được cao dự Liên Trì hải hội, thân cận Di Đà Thế Tôn, cùng có thọ lượng, quang minh giống như Di Đà Thế Tôn. Hiếu như vậy mới là chân hiếu! Còn truyền bá hành trạng của cha mẹ tuy là một trong những hạnh hiếu, nhưng tự hành, dạy người, làm cho khắp những ai thấy nghe đều cùng tu Tịnh nghiệp, cùng sanh Tịnh Độ, cùng chứng Vô Sanh, cho đến cùng thành giác đạo chẳng phải là tốt hơn hay chăng? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 32 Thơ của [Giang] Dịch Viên đúng là lời, phụ nữ, trẻ con nghe kinh ngạc, dung nhiếp ý Phật lẫn ý Tổ, quan trọng nhất là sanh cõi Tịnh! Thơ của Dịch Viên đúng là vẽ. Tâm cảnh, tánh địa phô cặn kẽ. Độ ách khiến cho Ngũ Uẩn không, quy mạng Nguyện Vương khuyên kính lễ. Thơ của Dịch Viên đúng là quẻ. Họa, phước, cát, hung phô rành rành, khiến thoát trọn vẹn cửa ải họa, phước! Tịnh niệm tiếp nối cầu về Tây. Nếu ai thường đọc thơ Dịch Viên, thân - khẩu - ý đều không tỳ vết. Khi sống trọn thành bậc thánh hiền, lâm chung chắc về ao bảy báu. Tôi: Sư tầm thường, rành cơm cháo, trừ niệm Phật, trăm sự bất tài, nguyện các hiền triết khắp pháp giới, đều kết bạn lành nơi hải hội. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 31 Đáng than thay! Người đời phần nhiều tưởng mình là trí, nhưng đối với chân diện mục của chính mình còn chưa biết được danh tự, huống hồ những chuyện thuộc về quá khứ, hiện tại, vị lai, đời trước, đời sau! Bậc cổ thánh nhân của Nho giáo chú trọng nơi xử thế nên đối với đạo lý sâu xa này chỉ nêu đại lược những nét chánh yếu. Nho sĩ chẳng suy xét sâu xa, liền bảo không có nghĩa ấy! Phật đã dạy rõ ràng rộng rãi như đuốc huệ trong đêm dài, phàm những ai có túc căn đều cùng quy hướng. Nhưng bọn Lý Học muốn ngăn trở bước tiến [của hậu học], đặc biệt cực lực bài xích để mong ngăn chặn hết thảy mọi người, chẳng biết người có căn tánh lớn lao quyết chẳng bị bọn chúng khống chế. Đáng than thay! Những kẻ tầm thường cứ lầm tưởng [những lời lẽ xằng bậy của bọn Lý Học] là chánh đáng, chí lý; do đấy, đả phá sự lý nhân quả và luân hồi, cho rằng con người chết đi vĩnh viễn diệt mất, không có thần trí! Do vậy, những kẻ làm ác có lý do lớn lao để lấp liếm [ác tâm, ác hạnh], cho đến ngày nay rối loạn cùng cực không cách gì chữa trị được! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 30 Ông Hoàng Sơn Cốc nói: Ngã nhục, chúng sanh nhục, Danh thù, thể bất thù, Nguyên đồng nhất chủng tánh, Chỉ thị biệt hình khu, Khổ não tùng tha thụ, Phì cam vị ngã nhu, Mạc giao Diêm lão đoán, Tự sủy, ứng hà như? (Thịt ta, thịt chúng sanh, Tên khác, thể chẳng khác, Vốn cùng một chủng tánh, Chỉ là khác hình hài. Khổ não chúng cam chịu, Ngọt bùi ta hưởng riêng. Chẳng đợi Diêm vương xử, Tự suy ắt biết mà!) Nguyện Vân thiền sư có bài kệ như sau: Thiên bách niên lai oản lý canh, Oán thâm như hải, hận nan bình, Dục tri thế thượng đao binh kiếp, Đản thính đồ môn dạ bán thanh. (Trăm ngàn năm qua trong bát canh, Oán sâu tự biển, hận khôn bình; Muốn biết đao binh trên cõi thế, Lắng nghe lò mổ giữa đêm thanh) Từ Thọ thiền sư nói: Ẩm thực ư nhân nhật nguyệt trường, Tinh thô tùy phận tắc cơ thương, Hạ hầu tam thốn thành hà vật? Bất dụng tương tâm tế giảo lượng. (Đời người ăn uống bao niên, Dở, ngon tùy phận khỏi phen đói lòng, Nuốt qua cổ họng là xong, Tính toan tỉ mỉ nhọc lòng làm chi?) - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 27 Đời đã loạn đến cùng cực, ai nấy đều mong bình trị, nhưng chẳng tìm ra đạo để đạt đến bình trị, chỉ mong mỏi suông thì rốt cuộc có ích gì đâu? Do vậy, phải nên đề suông giáo dục trong gia đình và nhân quả báo ứng. Giáo dục trong gia đình phải khởi đầu khi con cái đang còn thơ ấu, ngõ hầu chúng nó biết tường tận “hiền từ, hiếu thảo, nhường nhịn, cung kính, hòa thuận, nhân từ, trung thực” chính là thiên chức của kẻ làm con, làm anh em, làm chồng vợ, làm chủ, làm tớ. Từ đấy, ai nấy trọn hết bổn phận của chính mình để mong đấng sanh ra ta chẳng bị hổ thẹn, để làm kẻ hiền thiện. Lại còn tuyên nói nhân quả báo ứng ngõ hầu có pháp tắc để chế ngự cái tâm, chẳng đến nỗi vượt lý, phạm phận thì những ý niệm tự tư tự lợi xấu ác tự bị tiêu trừ, thiện tâm vì người vì vật sẽ tự nẩy sanh. Như thế thì chuyện tranh giành, đánh phá lẫn nhau sẽ bị diệt mất, thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui. Bởi thế, cùng với những người có cùng một chí hướng lưu thông sách [Âm Chất Văn Đồ Chứng] này ngõ hầu người đọc sách sẽ thọ trì làm theo, xoay vần lưu truyền thì may mắn lắm thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 26 Kinh luận Tịnh Độ văn nghĩa rõ ràng, cách tu trì của Tịnh Độ tùy cơ tự lập. Đã không phải lo có những chỗ sâu mầu khôn lường, mà cũng chẳng phiền vì gian nan, khốn khổ. Lại còn chẳng tốn kém tiền tài, hơi sức, chẳng trở ngại nghề nghiệp, làm ăn. Nếu có thể tùy phần, tùy sức, thường luôn nghĩ nhớ thì thần ngưng, ý tịnh, nghiệp tiêu, trí rạng, tự nhiên thân tâm an lạc, các duyên thuận lợi, niềm vui ấy làm sao diễn tả được! Nguyện người thấy kẻ nghe đều cùng tu trì, ai nấy đều ôm lòng tự lợi, lợi tha, cùng phát nguyện tự lập, lập người, cung kính thọ trì, tùy duyên suông suất, hướng dẫn, xoay vần lưu thông, khiến cho được trọn khắp cõi nước ngõ hầu hết thảy đồng luân đều cùng được gội ân Phật, cùng sanh Tịnh Độ thì thật là điều may mắn lớn lao! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 24 Pháp môn Tịnh Độ đế lý rất sâu, chỉ có Phật với Phật mới thấu hiểu trọn hết. Bởi lẽ pháp này Đại - Tiểu bất nhị, Quyền - Thật như một; vì thế trên từ Đẳng Giác Bồ Tát dưới đến phàm phu nghịch ác đều nên tu trì, đều có thể tu tập thành tựu. Chúng sanh đời Mạt thiện căn cạn mỏng, nếu chẳng nương vào Phật lực sẽ trông cậy vào đâu? Nếu vâng tin lời Phật, sanh lòng tin phát nguyện trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Lại còn đừng làm các điều ác, vâng làm những điều lành, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành. Nếu làm được như thế thì trong vạn người không một ai chẳng được vãng sanh! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 24 Sách [Gia Ngôn Lục] này văn tuy chất phác, vụng về, nhưng nghĩa thật thiết yếu; tựa hồ chỉ để nói riêng với người tu Tịnh Độ, nhưng thật ra ngụ ý đề suông đạo “nhân quả, báo ứng, giáo dục trong gia đình”. Mong những ai có được bộ sách này hãy nên thường giảng nói, hướng dẫn cha mẹ, anh em, vợ con, xóm giềng, làng nước, thân thích, bằng hữu để bọn họ đều giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, đánh đổ ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ắt sống sẽ dự vào bậc thánh hiền, mất về cõi Cực Lạc, may mắn chi hơn? Nguyện những ai đọc tụng hãy cung kính tin nhận, đừng nên khinh nhờn, hãy lần lượt lưu thông, đừng nên bỏ mặc. Sẽ thấy hiền tài dấy lên đông đảo, thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 21 Sách [An Sĩ Toàn Thư] này mượn từ ngữ để xiển dương ý nghĩa, tinh tường, tỉ mỉ trọn vẹn. Đối với cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, cùng lý, tận tánh, xử thế, xuất thế, đều tạo lợi ích lớn lao, đáng coi là bộ sách lạ lùng vãn hồi thế đạo nhân tâm bậc nhất. Độc giả cần phải chú trọng cung kính, kiền thành, khiết tịnh, lắng lòng suy nghĩ lãnh hội thì vô biên lợi ích sẽ đích thân đạt được. Nếu như khinh nhờn, sẽ mắc tội chẳng cạn. Nếu chẳng muốn xem, xin hãy tặng lại cho người khác, đừng cất trên gác cao. Lại mong [độc giả xem xong sẽ] lập đủ mọi cách để xoay vần lưu truyền ngõ hầu hết thảy đồng bào trong hiện tại lẫn vị lai đều cùng thoát khỏi đường mê, đều cùng lên bờ giác. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 21 Kính thưa trình cách đọc gồm mười điều, mong hãy xét cho lòng ngu thành. 1) Lúc sắp mở sách ra đọc tụng, trước hết hãy nên phát tâm cung kính như gặp vị khách quý, như đối trước bậc tiên triết, ngõ hầu luôn luôn ngộ nhập được dụng ý sâu xa của tác giả. 2) Lúc sắp mở sách ra đọc tụng, trước hết hãy nên phát tâm chí thành, thốt lời khẩn thiết, khen ngợi ông Châu An Sĩ vận tâm cứu thế rộng lớn để soạn thành kiệt tác cứu thế này và vui mừng mình đã hữu duyên được đọc. 3) Lúc sắp mở sách ra đọc tụng, trước hết hãy nên rửa tay, súc miệng, đặt sách trên bàn sạch trong gian phòng sạch sẽ rồi mới mở ra xem. 4) Lúc sắp mở sách ra đọc tụng, trước hết chỉnh đốn quần áo, ngồi ngay ngắn một lát, sám hối hết thảy những ác niệm, ác ngữ, ác hạnh như ganh ghét, khinh mạn, kiêu cuồng v.v… 5) Lúc đọc tụng, hễ ngộ nhập được một câu một chữ, đều nên khởi lòng hoan hỷ lớn lao và tùy thời ghi chép những điều tâm đắc, đừng bỏ mặc cho quên mất! 6) Lúc đọc tụng, hãy nên nghĩ rộng rãi về ý nghĩa, thoạt đầu là dùng sách để nhiếp tâm, tiếp đó dùng tâm để chuyển nghiệp, cuối cùng tiến tới tâm niệm không ngừng nghỉ thực hành, khuyên dạy rộng rãi để chuyển thế giới Ngũ Trược thành thế giới Cực Lạc. 7) Lúc tâm khởi vọng niệm, hãy nên cung kính đặt sách suông, tạm ngừng đọc. 8) Đọc xong hoan hỷ, theo đúng pháp vâng làm, hãy nên thường khởi lòng hâm mộ tâm hoằng pháp của ông Châu, tận lực bắt chước làm theo. 9) Đọc hết bộ sách xong, hãy nên nghĩ kỹ rộng rãi xu hướng trong xã hội hiện tại để nhiếp hóa rộng lớn, ngõ hầu điều lành được lưu truyền. 10) Đọc hết bộ sách xong, thấy được những chỗ có thể tuyên thuyết phù hợp căn cơ liền vì người không biết chữ mà phương tiện diễn nói rộng rãi để tạo lợi ích lớn lao. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 21 Những câu nói [chứa đựng nhiều Thiền cơ] ấy chỉ có người thật sự có sở ngộ mới hiểu được ý chỉ, chớ nên dò đoán, tìm tòi ý nghĩa dựa theo câu văn! Dẫu cho sẵn tánh thông minh, hễ càng suy lường thì càng xa. Lời lẽ trong nhà Thiền đều là như thế. Nếu có thể chú trọng lòng kính, giữ lòng Thành, chấp trì thánh hiệu của Bồ Tát thì mai kia nghiệp tiêu trí rạng, tất cả những lời lẽ Thiền cơ sẽ đều hiểu rõ từng câu như “mở cửa thấy núi, vẹt mây thấy mặt trăng” vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 20 Pháp thế gian hay xuất thế gian đều lấy lòng Thành làm gốc. Hễ có lòng Thành thì sẽ cảm được thánh ứng; không có lòng Thành thì do không cảm, thánh sẽ không ứng. Ví như mặt trăng rạng rỡ giữa bầu trời, hiện bóng trong muôn sông. Nếu nước đục ngầu, xao động, bóng trăng khó thể hiển hiện được. Do nước gây nên như thế, đâu phải lỗi của trăng! Vì thế nói: “Muốn được lợi ích thật sự nơi Phật pháp, ắt phải cầu từ nơi cung kính. Có một phần cung kính, tiêu được một phần tội nghiệp, tăng một phần phước huệ. Có mười phần cung kính, tiêu được mười phần tội nghiệp, tăng mười phần phước huệ”. Nếu không cung kính thì chỉ kết được cái duyên xa, khó được lợi ích thật sự. Nếu lại còn khinh nhờn sẽ mắc tội vô lượng. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 20 Hết thảy kinh Phật và những kinh sách xiển dương Phật pháp đều nhằm làm cho con người giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, sửa lỗi hướng lành, hiểu rõ nhân quả ba đời, nhận biết Phật tánh vốn sẵn có, thoát biển khổ sanh tử, sanh lên cõi tịnh Cực Lạc. Vì thế, phải vô cùng cung kính, chớ nên khinh nhờn! Sách này trình bày cặn kẽ Bổn và Tích của đức Quán Âm trong những kiếp xưa, cũng như sự cảm ứng ở phương này. Phân nửa quyển một phần nhiều trích dẫn kinh văn, trọn quyển bốn là những đoạn trích dẫn từ kinh điển. Những quyển khác tuy gồm những trích dẫn từ các sách vở, nhưng đều nhằm chỉ rõ chuyện cứu khổ ban vui của đức Quán Âm thì cũng giống như kinh. Do ân từ đức thánh ban bố cho nên nói: “Phải tôn kính như tôn kính đức thánh vậy!” Người đọc ắt phải sanh lòng cảm ơn, sanh ý tưởng khó được gặp gỡ, tay sạch, bàn sạch, giữ lòng kính, gìn lòng thành, như đối trước Phật, trời, như tới trước mặt thầy dạy của đế vương thì vô biên lợi ích sẽ đích thân đạt được. Nếu buông lung không e dè, mặc sức khinh nhờn và cố chấp nơi sự thấy biết hẹp hòi của chính mình rồi sanh lòng hủy báng xằng bậy thì tội lỗi ngập trời, khổ báo vô tận. Ví như kẻ mù đụng phải núi báu, đâm ra bị thương tổn, chẳng đáng buồn sao? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 20 Đừng nói cảnh giới của Phật, Bồ Tát chẳng thể suy lường được, đối với chủ nhân ông của khởi tâm động niệm, kẻ ấy từ sống đến chết há có biết được, có nhìn thấy chút nào hay chăng? Nếu đích thân biết được, thấy được chủ nhân ông của khởi tâm động niệm nơi chính mình thì sẽ dần dần biết được cảnh giới của Phật, Bồ Tát. Những kẻ trí huệ nhỏ nhoi mà cứ tự phụ ví như kẻ mù chẳng thấy được mặt trời, bèn bảo: “Chẳng có mặt trời!” Lũ mù nghe vậy, khen ngợi kẻ ấy: “Kiến thức cao siêu, đích xác, không sai lầm”, chẳng biết đấy chính là tà thuyết tự lầm, lầm người! Há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 20 Phật pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không. Nếu nói thiển cận thì phàm phu đều có thể biết, có thể hành. Nếu nói sâu xa thì thánh nhân vẫn có những điều chẳng biết! Những kẻ thông minh trong thế gian nếu có hàm dưỡng, từng trải thì sẽ nhập đạo. Nếu không, ắt sẽ do trí huệ nhỏ nhoi mà tự phụ đến nỗi lầm lạc cậy vào sự hiểu biết của chính mình rồi hủy báng Phật pháp. Vì thế, đức Phật xếp Thế Trí Biện Thông vào tám nạn. Điều này đáng răn dè sâu đậm, thiết thực! Căn bệnh ấy chính là do dùng tri kiến của phàm phu để suy lường cảnh giới của Phật, Bồ Tát. Nếu biết phàm phu quyết chẳng thể suy lường cảnh giới của Phật, Bồ Tát thì sẽ ngưng dứt được căn bệnh ấy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 20 Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, từ bi rộng lớn, tùy loại hiện thân tầm thanh cứu khổ. Người đời hễ gặp phải tật bệnh, hoạn nạn, nếu có thể vận tâm sửa lỗi, hướng lành, cung kính, chí thành, thường niệm danh hiệu Bồ Tát, không ai chẳng được Ngài rủ lòng gia bị tùy theo lòng Thành lớn hay nhỏ. Nhỏ là gặp dữ hóa lành, gặp nạn thành hên; lớn là nghiệp tiêu trí rạng, chướng tận, phước tăng, cho đến siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Đáng tiếc người đời phần nhiều chẳng biết! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 20 Pháp môn được nói trong ba kinh Tịnh Độ chính là phàm phu sát đất dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương, kiêm thêm “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Tuy đầy dẫy Hoặc nghiệp, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Đấy chính là điều chưa từng có trong hết thảy các kinh, chính là đại pháp môn của đức Như Lai nhằm làm cho khắp hết thảy dù thánh hay phàm đều cùng thoát khỏi luân hồi lục đạo ngay trong đời này. Nhưng kinh A Di Đà lời văn giản lược, nghĩa lý phong phú, thấu triệt khắp mọi căn cơ, lợi ích của kinh hết kiếp khó thể tuyên nói được! Vì vậy, kể từ khi đức Phật nói ra pháp này đến nay, vãng thánh tiền hiền người người đều hướng về, ngàn kinh muôn luận chốn chốn chỉ quy. Kẻ có duyên gặp được xin đừng bỏ lỡ thì may mắn lắm thay! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 19 Hết thảy kinh Phật và các sách xiển dương Phật pháp, không một loại nào chẳng nhằm làm cho con người lánh dữ, hướng lành, sửa lỗi, hướng thiện, nêu rõ nhân quả ba đời, hiểu rõ Phật tánh sẵn có, vượt khỏi biển khổ sanh tử, sanh lên cõi sen Cực Lạc. Người đọc hãy nên sanh tâm cảm ân, sanh ý tưởng khó gặp gỡ, tay sạch, bàn sạch, giữ lòng kính, gìn lòng Thành, như đối trước Phật, trời, như đến trước mặt các quan dạy bảo đế vương thì vô biên lợi ích sẽ đích thân đạt được. Nếu phóng túng không kiêng dè, mặc tình khinh nhờn, và cố chấp, thấy biết hẹp hòi, lầm lạc sanh lòng hủy báng, tội lỗi sẽ ngập trời, khổ báo vô tận. Kính khuyên người đời, hãy lánh xa tội, cầu lợi ích, lìa khổ được vui vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 18 Sức Chung Xã được thành lập. Sức Chung (飾 终) có nghĩa là giúp đỡ cho người sắp mất được vãng sanh. Ấy là vì đang trong lúc ấy, nếu hành nhân được phụ trợ bằng khai thị, hướng dẫn sẽ sanh tâm vui mừng, hoan hỷ, lòng tham ái chấm dứt, tai nghe danh hiệu Phật, tâm duyên theo cảnh Phật, sẽ tự có thể cảm ứng đạo giao cùng Phật, được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Ví như kẻ yếu hèn muốn lên núi cao, đằng trước có người lôi, sau lưng có kẻ đẩy, hai bên có người xốc nách dìu đi, sẽ tự chẳng đến nỗi bỏ cuộc giữa chừng. Dẫu cho kẻ lúc bình thường trọn chẳng hề nghe đến Phật pháp, lâm chung được thiện tri thức chỉ dạy liền sanh tín tâm. Lại được trợ niệm Phật hiệu khiến cho người ấy theo tiếng niệm của đại chúng mà niệm ra tiếng hoặc niệm thầm trong tâm. Nếu được trợ niệm đúng pháp, không có hết thảy những chuyện phá hoại chánh niệm thì cũng có thể vãng sanh. Do Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, do pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, do chúng sanh tâm lực chẳng thể nghĩ bàn, nên được lợi ích thù thắng ấy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 17 Tỳ-kheo-ni Tiên Đức Từ khi vào Không Môn, Lòng chỉ nghĩ đến Phật, Trong suốt mười hai thời, Niệm Phật chẳng gián đoạn. Niệm lâu ngày chầy tháng, Tâm đã hợp với Phật, Biết trước được lúc mất, Đến kỳ, ngồi qua đời, Nhằm lợi khắp nữ giới, Nên viết bài tụng này. Nguyện cho người đời sau, Giữ mãi hạnh đẹp ấy. - AQVS Tam Biên, quyển 4, phần Kệ, thư 15 *Đứng một mình chẳng thẹn với bóng, ngủ một mình chẳng thẹn với áo Lớn thay môn Tịnh Độ! Quy túc của các pháp, Thích hợp mọi căn cơ, Không căn nào chẳng gồm. Trên thì nhiếp Đẳng Giác, Dưới chẳng sót ác nghịch. Muôn dòng đổ vào biển, Do Phật đại nguyện lực. Sư Cát Đường cao cả, Đời trước trồng huệ căn, Đã nổi bật từ nhỏ, Xuất gia vượt trần tục. Từ đấy Luật-Giáo-Tông, Ý chỉ đều thấu hiểu. Muốn liễu ngay đời này, Liền chuyên tu Tịnh Độ, Đặc biệt phát ba tâm, Mong tòa sen thượng phẩm. Tuổi thọ mới năm tư, Tịnh nghiệp đã viên thành, Biết trước lúc vãng sanh, Bảo chúng niệm Phật tiễn. Sư vẫn niệm rõ ràng, Đột nhiên nhập tịch định. Đồ chúng muốn truyền dương, Cậy tôi thuật đại lược. Nguyện những kẻ thấy nghe, Ai nấy đều chú ý. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Kệ, thư 10 Ngọc Trụ đại sư là đồng học của Quang vào năm mươi năm trước. Sư tánh tình chất trực, khiêm hòa, tu trì thiết thực, chân thành, nghiêm túc, chẳng làm trụ trì, chẳng thâu đồ chúng giống như Quang. Sư chú trọng trì Luật và niệm Phật, nên vào tuổi già thường khắc in nhiều trước tác của Luật Tông. Ấy là vì muốn tạo nền tảng vững vàng ngõ hầu những kẻ thông sáng trong đời sau đều cùng sanh Cực Lạc. May mắn thay, Sư đã về An Dưỡng, thẹn cho Quang vẫn bị ràng buộc trong cõi đời này, nguyện Sư cầu Phật rủ lòng tiếp dẫn, ngõ hầu cùng được theo học với Như Lai. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Kệ, thư 8 Kính lạy Quán Thế Âm, từ bi đại đạo sư, chứng vô thượng đã lâu, an trụ Thường Tịch Quang. Vì thương chúng sanh khổ, lại hiện thân mười cõi, nên dùng thân nào độ, liền hiện ngay thân ấy. Gần là sanh đường lành, xa là chứng Bồ Đề. Bồ Tát từ bi lực, chư Phật thuật chẳng trọn. Đệ tử con tên là… từ vô thủy đến nay, do bởi sức ác nghiệp, luân hồi trong sáu nẻo, trải qua trần sát kiếp, không cách nào thoát lìa, may nhờ túc thiện căn, được nghe tên Bồ Tát, muốn nương sức từ bi, đời này sanh Tịnh Độ. Xưng thánh hiệu dài lâu, kiêm lễ bái, cúng dường, sám hối các ác nghiệp, tăng trưởng các thiện căn. Nguyện rủ lòng từ mẫn, tiêu diệt các tội chướng, phóng quang chiếu thân con, duỗi tay xoa đầu con, cam lộ rưới đỉnh con, gột phiền cấu tâm con, khiến cho thân tâm con, đều được thanh tịnh cả. Con nguyện hết thân này, đến tận kiếp vị lai, nguyện bảo khắp chúng sanh, ân đức của Bồ Tát, khiến họ đều quy y, đều phát tâm Bồ Đề. Nguyện rủ lòng từ mẫn, chứng minh và nhiếp thọ. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Kệ, thư 7 Sống uổng bảy mươi năm, Tháng ngày chẳng còn mấy, Như tù dẫn ra chợ, Mỗi bước gần cái chết, Tạ tuyệt hết thảy sự, Để chuyên tu Tịnh Độ, Nếu hiểu lòng ngu thành, Mới là chân liên hữu. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Kệ, thư 6 Chuyện thế gian hay xuất thế gian, không một chuyện nào chẳng lấy thân làm gốc. Nếu gốc chẳng lập, dẫu có làm gì đi nữa thì cũng chỉ là chuyện phô trương bề ngoài mà thôi! Đã không chân tu ắt sẽ chuốc lấy sự khinh thường từ bên ngoài, lại còn ngược ngạo tạo bằng cớ cho kẻ tà kiến hủy báng Phật pháp. Tự lợi lẫn lợi tha đều mất thì đại sự sanh tử làm sao liễu được? Nếu là những lâm hữu tham dự Cư Sĩ Lâm, ai nấy hãy nên phát tâm kim cang kiên cố, thề làm chuyện lợi ích cho mình lẫn người, trọn hết luân thường học Nho, tận tánh học Phật, noi dấu bậc tiên giác trong quá khứ, chẳng chịu thua kém chút nào. Đấy gọi là đệ tử thật sự của đức Phật, là bậc đại trượng phu thật sự. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Bi Ký, thư 10 Ông Lạc Bân Chương ở huyện Định Hải tuy theo nghề buôn nhưng khá tin Phật. Mùa Xuân năm nay tới đất Hỗ, gặp đúng lúc Quang đang ở đậu chùa Thái Bình, bèn dẫn vợ cùng tới xin thọ Tam Quy Ngũ Giới. Bân Chương pháp danh là Huệ Bân, vợ ông ta pháp danh là Huệ Tĩnh. Do vậy, tôi bèn cho họ các sách như Văn Sao, Gia Ngôn Lục v.v… bảo họ hãy y theo đó để tu trì. Huệ Tĩnh từ đấy chuyên dốc lòng niệm Phật, đến giữa tháng Năm bị bệnh, cho đến đầu tháng Bảy vẫn còn gắng gượng lễ Phật, niệm Phật. Sau đấy, nằm bẹp trên giường không dậy được, nhưng trong tâm thường tự thầm niệm Phật hiệu. Đến đêm mồng Bảy tháng Tám, ho hắng suốt một tiếng đồng hồ rồi ngủ thiếp đi, mộng thấy rất nhiều tăng nhân và các đồng tử cùng với các thứ như tràng, phan v.v… Đến khi tỉnh giấc bệnh khổ hoàn toàn hết hẳn. Tới đêm mồng Chín lại mộng thấy Quán Thế Âm Bồ Tát và các tăng chúng cùng các đồng tử. Đêm mồng Mười, người trông bệnh và các quyến thuộc thấy bà ta miệng niệm Phật hiệu, chắp tay như đang làm lễ mười mấy lượt rồi ngủ thiếp đi, tỉnh giấc nói: “Phật đã đến rồi, ta sắp vãng sanh”. Hỏi: “Giờ nào sẽ đi?” thì bà ta bảo không biết. Ngày hôm sau đem tất cả quần áo, đồ trang sức trên đầu đem bán sạch để làm việc thiện, khuyên người nhà làm lành, tu đức, hiểu nhân biết quả. Đến giờ Ngọ, mắt chợt tỏa quang minh. Quang minh dường như màu vàng, nhưng chẳng phải vàng, dường như đỏ nhưng chẳng phải đỏ, liền nói: “Đức Phật đến rồi!” Mặt hiện nét mỉm cười, tuy thân mình đã tắm rửa từ hôm trước, vẫn sai đứa tớ gái rửa chân, tự mình rửa mặt. Ánh mắt liền sáng rỡ, bảo Huệ Bân rằng: “Phật cùng Đại Thế Chí Bồ Tát và các đồng tử tiếp tôi về Tây Phương”. Huệ Bân muốn hỏi thêm, bà nói: “Đừng nhiễu loạn tôi”, chỉ niệm thầm Phật hiệu theo tiếng những người trợ niệm, chưa đầy mấy phút đã qua đời. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Bi Ký, thư 7 Như bà Vương nhà họ Hà ở Thượng Hải vốn là một phụ nữ vô tri vô thức, từ năm hai mươi chín tuổi được nghe pháp môn Tịnh Độ bèn quy y Tam Bảo, ăn chay, niệm Phật, nhàm chán sâu xa sự trược ác cõi Sa Bà, quyết chí cầu sanh Tây Phương. Ba mươi năm qua tinh tấn không lười biếng, đến năm Dân Quốc 17 (1928), bà được năm mươi chín tuổi. Đến ngày Mười Chín tháng Sáu biết trước lúc mất, dặn dò gia quyến: “Mười hai giờ đêm hôm nay ta sẽ về Tây, tới lúc ấy các ngươi hãy đồng thanh niệm Phật để giúp sức. Đừng nên bi ai khóc lóc đến nỗi phá hoại chánh niệm của ta”. Do vậy, bà liền tự tắm gội, mặc áo thọ mới may, trước hết niệm chú Đại Bi bao nhiêu đó biến, tiếp đấy chuyên niệm thánh hiệu A Di Đà Phật. Đến mười một giờ, cả nhà lớn - bé đồng thanh trợ niệm “Nam-mô A Di Đà Phật”. Tới mười hai giờ, bà bèn ngồi ngay ngắn niệm Phật qua đời. Ôi! Bản lãnh như thế, dẫu kẻ có học vấn, công nghiệp trùm lấp cõi đời xưa nay cũng chẳng thấy mấy, huống là hạng kém cỏi hơn ư? - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Bi Ký, thư 6 Ôi! Như cư sĩ [La Tử Sanh] đáng gọi là bậc thiện sĩ trong một làng, là đứa con thật sự của đức Như Lai. Nếu ngờ vực cư sĩ là người sốt sắng giữ vẹn luân thường, tận lực tu các điều thiện, lại còn niệm Phật nhiều năm, sao lúc lâm chung lại nẩy sanh khối loét ác hiểm ấy thì [kẻ nghi như vậy] chẳng biết chúng ta từ vô thủy đến nay đã kết oán nghiệp không thể kể nổi số lượng. Nếu chẳng niệm Phật, ắt sẽ phải báo đền dài lâu suốt kiếp, chẳng có lúc nào xong! Do sức niệm Phật, cư sĩ mới chuyển được báo nặng trong đời sau thành báo nhẹ trong đời này để giải thoát các nỗi khổ sanh tử, về thẳng Tây Phương, cao dự hải hội, thân cận Di Đà, cùng với các thiện nhân hội họp ở một chỗ. Xưa kia, pháp sư Giới Hiền còn mắc phải bệnh ngặt, pháp sư Huyền Trang lâm chung cũng bị đau khổ, mỗi vị đều được Bồ Tát chỉ dạy an ủi, cho biết đấy là quả báo do trong đời trước đã não hại chúng sanh, huống hồ hạng phàm phu sát đất ư? - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Bi Ký, thư 4 Thoạt đầu, mười mấy hôm trước khi cư sĩ [La Tử Sanh] mất, cổ chợt sanh ung loét, đấy chính là do túc nghiệp. Loét rữa bên trong, nóng - lạnh xen lẫn, nhưng cư sĩ muốn nhờ vào nỗi khổ ấy để mau được vãng sanh, bảo quyến thuộc tụ tập niệm Phật trong phòng để giúp chánh niệm. Cũng có bạn bè đến trợ niệm, mỗi lần đến mấy chục người. Ông ta đã dặn sẵn quyến thuộc: “[Khi ta] lâm chung chẳng được tắm rửa, thay quần áo sẵn, khóc lóc v.v… Trong đám tang, bất luận tế thần, đãi khách đều chẳng dùng đồ mặn. Đồ tẩm liệm chỉ dùng vải trơn, chẳng được dùng lụa là”. Con và dâu đều vâng lời, phương trượng Tuyết Phong Đạt Bổn đặc biệt đến khai thị. Vì thế, trong mười mấy ngày tuy bị đau khổ, nhưng tâm cư sĩ thường trấn định, trọn chẳng có một niệm nào khác. Đến lúc lâm chung, chánh niệm phân minh, an tường qua đời, hàng quyến thuộc ai nấy đều nén đau buồn niệm Phật suốt năm tiếng đồng hồ rồi mới tắm rửa, thay áo, khóc lóc v.v… đáng gọi là “biết pháp”. Đến lúc nhập liệm, đảnh môn (đỉnh đầu) vẫn còn ấm, tứ chi mềm mại, đủ chứng tỏ cụ đã sanh Tây. Điều lạ nhất là con trai lẫn con dâu đều phát nguyện suốt đời ăn chay trường niệm Phật. Những xã hữu trong Phật Hóa Xã niệm Phật, niệm chú Vãng Sanh cho ông ta có tới ba mươi mấy gia đình. Số câu niệm Phật đến hơn một ngàn năm trăm vạn câu, chú Vãng Sanh được niệm tới hơn mười một vạn chín ngàn biến. Đều dùng những công đức ấy để cầu cho phẩm sen của ông ta được cao hơn, mau chứng Vô Sanh. Nếu ông ta chẳng phải là người bình sinh chí thành cảm người, làm sao được như vậy? Thế gian lẫn xuất thế gian đều lấy lòng Thành làm gốc. Lòng Thành đến cùng cực, đá vàng phải nứt. Huống hồ những người cùng hàng đều cùng được phú bẩm cái tâm này, mà chư Phật, Bồ Tát lại là những vị trọn không có tâm, lấy tâm của chúng sanh làm tâm của chính mình ư? Trong cõi đời, chưa hề có ai lòng Thành tuy chưa đến mức cùng cực mà [lại có thể khiến cho] người khác nhìn vào sanh lòng cảm kích, được đức Phật rủ lòng gia bị! Cũng chưa có ai lòng Thành đã đến mức cùng cực mà người khác nhìn vào chẳng cảm kích, Phật không gia bị. Vì thế, kẻ mong thành thánh, thành hiền, học Phật, học Tổ, chỉ nên cạn hết tấm lòng Thành mà thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Bi Ký, thư 4 Đến năm Ngài [Trí Giả] ba mươi tám tuổi mới vào núi Thiên Thai, đấy chính là năm Ất Mùi nhằm niên hiệu Đại Kiến thứ bảy (575) đời Trần Tuyên Đế. Đến nơi, Ngài thấy cảnh núi và gặp vị tăng tên Định Quang giống hệt như cảnh đã được đến và người đã được gặp khi thần thức ngao du trong lúc lễ Phật phát nguyện thuở mới được mười bảy tuổi. Do vậy, biết là trước kia đã từng có nhân duyên lớn với núi này; từ đấy về sau, hoặc hoằng pháp trong núi, hoặc tùy cơ ứng duyên, suốt hơn hai mươi năm hoằng dương pháp hóa lớn lao. Trong truyện ký của Ngài đã chép đầy đủ nên ở đây chẳng cần phải trình bày rườm rà. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Bi Ký, thư 3 Trí Giả đại sư chứng Pháp Thân đã lâu, [Ngài đã đạt đến địa vị] Thập Địa, Đẳng Giác, hay Diệu Giác đều chẳng thể suy lường được! Nương sức túc nguyện, thị hiện giáng sanh trong cõi đời này. Đêm Ngài giáng sanh, thần quang sáng rực bầu trời. Lông mày chia thành tám sắc, mắt sáng rực, có con ngươi kép. Do chất chứa đức phi thường nên hiện tướng phi thường. Ngài sanh vào năm Mậu Ngọ, tức năm Đại Đồng thứ tư (538) đời Lương Vũ Đế. Vừa mới thôi Địu (bồng ẵm), hễ nằm liền chắp tay, hễ ngồi liền hướng về Tây, gặp tượng ắt lễ, gặp Tăng ắt kính. Ấy là vì Ngài muốn nêu gương mẫu cho cõi đời nên cẩn trọng từ lúc đầu vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Bi Ký, thư 3 Công đức của cụ Phù và các đàn tín sẽ tự được Phật, trời chứng giám, khiến cho đều được tiêu tai tăng phước, khi sống sẽ vừa nhân từ vừa cao tuổi thọ, khi mất sẽ sanh vào cõi Cực Lạc. Chỉ mong những người sống trong chùa này, buông suông thân tâm, chuyên tu Tịnh nghiệp. Hễ rảnh rang bèn lắng lòng nghiên cứu kinh điển trong Đại Tạng, ngõ hầu hiểu rõ giáo lý, biết được tông chỉ tu trì, có căn cứ để tự hành lẫn dạy người. Làm được như thế thì những hạng tà kiến chẳng tin tưởng sẽ đều sanh lòng chánh tín sâu xa, sẽ kéo nhau tu tập, hộ trì để mong được lưu truyền vĩnh cửu. Pháp không có hưng - suy, hưng - suy do nơi con người. Chỉ mong đại chúng trong hiện tại, vị lai, ai nấy đều gắng sức. Đem công đức này cung chúc “nền tảng nước nhà củng cố, thế đạo thái bình, hưng thịnh, Phật nhật thêm sáng, pháp luân thường chuyển, thuần phong mỹ tục, lễ nghĩa nhân nhượng hưng khởi, can qua vĩnh viễn chấm dứt, dân khỏe mạnh, vật sanh trưởng”, do lòng người chuyển biến nên quyến thuộc cõi trời thường giáng lâm. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Bi Ký, thư 2 Ấy là vì [xét trên] Chân Như Phật tánh thì chúng sanh và Phật đồng thể; ai cũng đều có thể là Nghiêu - Thuấn, ai nấy đều có thể thành Phật, nhưng do còn mê chưa ngộ nên lầm lạc sanh nhiễm trước nơi cảnh duyên sáu trần, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, đến nỗi luân chuyển cả kiếp dài lâu, vĩnh viễn không có lúc thoát ra! Đức Như Lai thương xót giảng cho họ lý “Phật tánh sẵn có nơi tâm” và sự “nhân quả ba đời”, dạy họ tu Ngũ Giới, Thập Thiện, Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ, vạn hạnh và “tâm chính là Phật” cũng như đạo “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, ngõ hầu bậc thượng căn hễ vượt thoát liền vào thẳng địa vị Như Lai, bậc trung căn liền tu tập dần dần theo thứ tự để chứng được Bồ Đề, kẻ hạ căn liền gột lòng tẩy ý trở thành hiền thiện. Chúng sanh đông đảo không một ai chẳng được hưởng ân trạch ấy. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Bi Ký, thư 2 Nay có vị đại hộ pháp X… túc căn sâu dầy, dốc lòng tin tưởng Phật thừa, muốn chuyển uế độ thành Tịnh Độ, bỏ ra tài sản thế gian để làm pháp tài nên bèn quyên tặng món tiền chừng bao nhiêu đó dùng để mua chừng đó mẫu ruộng cấy lúa tẻ. Hoa lợi thâu được sẽ dùng làm chi phí niệm Phật, cầu thỉnh bảy vị sư tăng chấp trì lục tự Phật hiệu, suốt đời quy mạng, gieo lòng thành cho tới hết báo thân. Từ đấy trở đi, vĩnh viễn giữ [quy củ ấy] không buông bỏ hòng báo ân nước và đáp tạ ân đàn-na tín thí. Nguyện cho những vị ngoại hộ có cùng một hạnh và những hàng thiện tín thấy nghe tùy hỷ trong hiện tại vị lai, hễ Phật niệm vừa khởi lên sẽ nhanh chóng đoạn ngay phàm tình, núi phước chót vót, biển nghiệp cạn khô, sương mù tội chướng tiêu tan, mặt trời trí huệ rạng bày, biết được những điều đức Phật biết, do trì danh mà thấu đạt sâu xa Thật Tướng, trụ nơi đức Phật trụ thì tuy sống trong cõi Đồng Cư mà đã khế hợp thẳng vào cõi Tịch Quang. Lại nguyện theo chiều dọc trọn khắp ba đời, theo chiều ngang tột cùng mười phương, hết thảy hữu tình cùng nhiễm mùi hương này, dùng công đức này để cung chúc: “Nền tảng nước nhà củng cố, Phật nhật thêm sáng, tám phương có đạo để vâng lãnh lâu dài, bốn biển vui thích sự giáo hóa vô Vi”. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Bi Ký, thư 1 Trộm nghe: Đức Như Lai thuyết pháp chúng sanh đắc độ, khó - dễ, chậm - nhanh khác biệt lớn lao! Do vậy, viên âm vừa giảng, kẻ căn cơ chín muồi liền chứng Bồ Đề. Một trận mưa thấm khắp, kẻ tiểu căn chỉ được tăng trưởng đôi chút. Do vậy, rộng lập giáo pháp Đốn, Tiệm, Thiên, Viên nhằm phù hợp căn cơ, mở toang môn Luật, Giáo, Thiền, Mật hòng lợi vật. Cầu lấy một pháp “tâm này làm Phật, tâm này là Phật, ngay từ trong cái niệm niệm Phật sẽ thành Phật ngay trong cái niệm ấy, gom tam thừa ngũ tánh cùng về cõi tịnh, hướng dẫn thượng thánh hạ phàm cùng chứng chân thường, chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà được dự vào địa vị Bổ Xứ ngay trong một đời này, lên thẳng Diệu Giác” thì không chi thù thắng, siêu tuyệt bằng pháp môn Tịnh Độ! Thật có thể nói [pháp môn Tịnh Độ] là giềng mối lớn lao trong Phật giáo, là đường tắt để xuất trần. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Bi Ký, thư 1 Tam giới không yên giống như nhà lửa, các nỗi khổ đầy dẫy, thật đáng kinh sợ! Trong hội Pháp Hoa, đức Như Lai đã sớm nói đến điều này. Nỗi thảm đao binh trong cõi đời gần đây quả thật từ ngàn xưa chưa hề nghe tới. Phương cách giết người không kiểu kỳ lạ nào chẳng có, đến nỗi vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống! Xét đến nguyên do, đều là vì chúng sanh đang mê, chẳng hiểu Ngã Không, cho nên đối với những cảnh nghịch hay thuận đều khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm mà ra. Nhưng với hai chuyện dâm và trộm thì người hiền dùng lễ để tự ngăn ngừa, kẻ ngu do bị luật pháp khống chế [nên hai nghiệp này] vẫn chẳng đến nỗi quá mức. Chỉ có chuyện sát sanh ăn thịt là do quen thói nên thế tục coi như chuyện đương nhiên, điềm nhiên chẳng để ý tới, đến nỗi đây - kia đời đời kiếp kiếp báo thù lẫn nhau, ươm thành tai kiếp cực thảm như thế này, chẳng đáng buồn sao? - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 40 Quán Kinh dạy: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Phàm nhớ Phật, niệm Phật, quán Phật, lễ Phật, vẽ hình Phật đều gọi là “làm Phật”. Do tâm nghĩ đến đức Phật nên trong tâm liền hiện tướng hảo trang nghiêm, công đức, oai thần của Phật. Cho nên nói: “Tâm này là Phật”. Kẻ làm đệ tử Phật sao chẳng dốc sức nơi đây? Trong những việc ấy, chỉ có vẽ hình Phật lại càng thân thiết, bởi lẽ chẳng dốc trọn hết tinh thần sẽ chẳng thể diễn tả được tướng hảo, thái độ trang nghiêm, từ bi được! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 39 Nay muốn vãn hồi thế đạo nhân tâm để thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui, mà bỏ đạo “tu chân ngay trong cõi tục, hiểu nhân rõ quả” của đức Như Lai thì làm sao yên được? Ấy là vì đức Như Lai gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, đối với mỗi người đều dạy trọn hết chức phận của chính mình thì gia đình hết sức hòa thuận, con người quen thói lễ nghĩa, nhân nhượng. Tiến hơn bước nữa là tu pháp môn Tịnh Độ thì chính là dùng pháp thế gian để tu pháp xuất thế gian, chẳng lìa những xử sự luân thường trong hằng ngày mà vào thẳng biển pháp của Như Lai. Dẫu cho căn cơ kém hèn cũng có thể cậy vào Phật từ lực để được liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 36 Phật pháp chính là pháp chung của hết thảy tứ thánh lục phàm trong mười pháp giới, không ai chẳng nên học, mà cũng không một ai chẳng thể học được vì Phật pháp chính là tâm pháp. Con người ai không có tâm? Nhưng ai là kẻ nhận biết cái tâm? Trong cõi đời cố nhiên chẳng thiếu kẻ thông minh, thấu hiểu rộng rãi, nhưng do họ chuyên chú trọng rong ruổi tìm cầu bên ngoài, chẳng biết xoay lại chiếu soi bên trong, dẫu suốt ngày sử dụng cái tâm, suốt ngày nói tới cái tâm, nhưng rốt cuộc chẳng biết tâm là vật gì! Vì sao vậy? Vì chỉ có tri thức biện định sự vật, chứ trọn chẳng có trí huệ thấu hiểu tận cùng tâm tánh. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 36 Cần biết rằng: Phật pháp chính là pháp tận lực giữ vẹn luân thường, là pháp ngầm giúp đạt đến bình trị tột bậc, là tin tưởng một cách trí huệ, chẳng phải là mê tín, là tích cực, chứ không phải tiêu cực, là cứu thế, chứ không phải yếm thế, là làm cho người khác cùng được tốt lành, chứ không chỉ nhằm tốt lành cho riêng mình, là hợp với nhân sanh, chứ không phải trái nghịch nhân sanh. Do người đời chẳng biết chân tướng của Phật pháp nên đến nỗi đối với pháp “có ích lớn lao cho quốc gia, xã hội, cũng như hữu ích cho thân tâm, tánh mạng của mỗi người” này, lại gán cho đủ mọi cái tên xấu xa để chê bai, bài xích, khiến tự lầm, lầm người, chẳng đáng buồn ư? Tri kiến của những kẻ cùng hàng thật nông cạn. Lúc thoạt đầu do chưa từng nghiên cứu nên cũng ôm giữ những thứ tri kiến như trên. Nếu hơi nghiên cứu một chút thì mới biết vua, quan, vĩ nhân, bậc trí trong các đời đều phụng hành, tu trì, lưu truyền rộng rãi ngõ hầu có thể thấu hiểu tận cùng chân lý trong vũ trụ, giải quyết được nguyên do của nhân sanh, cải cách được lề thói xã hội, củng cố nền tảng nước nhà, thúc đẩy nền văn minh trên thế giới, hiểu rõ trọn khắp cội nguồn của các pháp. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 35 Truy cứu đến cái gốc họa, chẳng thể không quy tội cho những lời lẽ cong vẹo của gã suông Lê (Hàn Dũ)! Lại có những kẻ ngu phu ngu phụ tuy có tâm chuộng điều lành, nhưng chẳng được biết tới Phật pháp chân thật, thường tưởng luyện đan vận khí là Phật pháp. Tuy có lòng tốt nhưng chỉ bồi đắp được chút phước thế gian hoặc lọt vào ma đạo, đáng cảm khái, than thở sâu xa lắm thay! Do mỗi nơi có nhân duyên riêng biệt mà có chỗ trước kia Phật pháp được hưng khởi lớn lao rồi rốt cuộc trọn chẳng còn tiếng tăm, dấu vết, hoặc chỉ còn đôi chút hình tướng đến nỗi đại đa số mọi người như đang ở trong đêm dài chẳng thấy được mặt trời; há có phải là Phật pháp bất hạnh hay là lũ chúng ta đại bất hạnh vậy? - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 35 Cần biết rằng: Trong Phật pháp, pháp môn vô lượng. Hễ tu [bất cứ một pháp môn nào] đến cùng cực cũng đều có thể liễu sanh thoát tử; nhưng để có thể quyết định liễu sanh thoát tử ngay trong đời này thì chỉ có một môn Tịnh Độ! Những pháp môn khác dẫu [tu tập suốt] nhiều đời nhiều kiếp vẫn chưa chắc chắn đã liễu sanh thoát tử được! Bởi lẽ, hết thảy các pháp môn đều cậy vào tự lực, còn pháp môn Niệm Phật hoàn toàn cậy vào Phật lực và kiêm thêm tự lực. Do cậy vào Phật lực nên dễ hơn cậy vào tự lực trăm ngàn HẰNG HÀ SA lần. Lại còn phải nên biết rằng: Pháp môn Niệm Phật thật sự là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Do vậy, chúng sanh trong chín giới hễ lìa pháp này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo, mười phương chư Phật bỏ pháp này thì dưới chẳng thể phổ độ quần sanh. Nếu chẳng đã gieo thiện căn từ đời trước, làm sao được nghe tới pháp này? Nghe mà chẳng tu, hoặc tu mà không đắc lực thì đáng đau tiếc lắm thay! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 34 Phật pháp là mặt trời trí huệ trong đêm dài, là gạo thóc trong đời đói kém, là người dẫn đường nơi đường hiểm, là thuyền Từ trong biển khổ. Gần đây, lòng người suy hãm, chìm đắm, đua nhau toan tính những chuyện kỳ quái. Phàm đối với những cương thường luân lý do bậc thánh nhân đã lập vào thời cổ họ đều muốn xô đổ, rốt cuộc trở thành tình thế vô pháp vô thiên, phất cao ngọn cờ biến con người thành cầm thú, đem những tà thuyết ấy dụ dỗ những kẻ vô tri vô thức phóng túng làm càn, trọn chẳng kiêng nể, ràng buộc gì! Chẳng biết đã tự diệt tuyệt nhân loại, vĩnh viễn thường đọa trong ác đạo. Tánh tình con người như thế, nếu chẳng lập cách cứu vãn thì tình cảnh mai sau sẽ chẳng thể nào tưởng tượng được! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 34 Cần biết rằng: Pháp môn Tịnh Độ pháp nào cũng viên thông, như mặt trăng sáng vằng vặc giữa trời, dòng sông nào cũng hiện bóng; thủy ngân rớt suông đất, hạt nào cũng đều tròn xoe. Chẳng những có lợi ích lớn lao cho cách vật, trí tri, cùng lý, tận tánh, giác thế, yên dân, trị quốc, an bang, mà ngay cả sĩ, nông, công, thương muốn phát triển sự nghiệp, già, trẻ, trai, gái muốn tiêu diệt bệnh tật khổ sở, không ai chẳng vừa cảm liền ứng, thỏa lòng, mãn nguyện. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 32 Cậy vào tự lực mà chưa đoạn sạch Phiền Hoặc sẽ chẳng thể vượt khỏi tam giới. Cậy vào Phật lực thì nếu tín nguyện chân thật, thiết tha, sẽ liền có thể cao đăng chín phẩm sen. Con người hiện thời muốn giải quyết xong đại sự sanh tử ngay trong đời này mà bỏ pháp này thì sẽ trọn chẳng có hy vọng gì hết! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 32 Trong thánh giáo của Như Lai có vô lượng pháp môn. Y theo bất cứ một pháp nào, dùng tâm Bồ Đề để tu thì sẽ đều có thể liễu sanh thoát tử, thành Phật đạo; nhưng khi đang tu còn chưa chứng thì không gì là chẳng khó - dễ, nhanh - chậm khác biệt! Cầu lấy một pháp chí viên, chí đốn, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, vừa khế lý lẫn khế cơ, vừa là tu, vừa là tánh, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp lợi căn lẫn độn căn, là chỗ quy túc của các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường tắt cho trời - người, phàm - thánh chứng chân thì không gì bằng một pháp “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương”! Ấy là vì hết thảy pháp môn đều phải cậy vào tự lực, còn pháp môn Niệm Phật kiêm cậy vào Phật lực. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 32 Có ông Dương Bội Văn bình sinh theo đuổi Nho học, nhưng chẳng biết đức Phật là người như thế nào. Do đứa cháu nội chưa đầy năm đã chết, hết sức đau buồn, tiếc nuối. Cư sĩ X… khuyên tham dự liên xã niệm Phật, và đọc các kinh sách Tịnh Độ, ông ta liền tinh tấn thường niệm. Chưa đầy ba tháng, từ hoa đèn trước bàn thờ Phật kết thành một đóa sen, trong ấy có xá-lợi to bằng hạt kê, có màu như màu ngọc Phỉ Thúy. Đấy là do lòng tinh thành của ông ta cảm vời cho nên Phật hiện ra tướng lành ấy để lòng tin của mọi người được vững chắc. Nguyện những ai đọc bài văn này sẽ cùng sanh lòng chánh tín, đều cùng chăm chú tu tập thật sự thì trong hiện tại sẽ tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ, cao dự vào bậc thánh hiền, lâm chung được Phật từ bi đích thân rủ lòng tiếp dẫn, cao đăng cõi Cực Lạc. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 31 Xưa kia, Hoài An cũng là vùng đất Phật giáo hưng thịnh. Sau này bèn lặng ngắt không nghe nói tới nữa. Gần đây, phong tục trong cõi đời ngày một đi suông, những vị có lòng lo cho con người bèn cùng nhau đứng lên cứu vãn. Do vậy, tại Quán Âm Am trong thành đã lập ra Phổ Tế Liên Xã để mong sao ai nấy đều sốt sắng giữ luân thường, chánh lý, tu trì pháp môn Tịnh Độ. Trụ Trì là ngài Vô Vi cũng sẵn tâm cứu vớt rộng khắp sâu xa. Tăng - tục cũng một lòng cùng hoằng dương sự giáo hóa của đức Phật. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 31 Vùng Hỗ Độc (Thượng Hải) là vùng đất Phật giáo hưng thịnh từ thời cổ, nay trở thành bến cảng thông thương lớn nhất. Trong năm Dân Quốc thứ mười (1921), đã do các vị cư sĩ như Vương Nhất Đình v.v… sáng lập Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã, Phật Giáo Cư Sĩ Lâm, ước định chương trình quy củ, chú trọng tu trì thực tiễn, nhưng một giải phía tây đất Hỗ vẫn còn thiếu khuyết. Nhờ các vị cư sĩ như Kiều Tuân Như, Kim Thiện Sanh v.v… sáng lập Niệm Phật Xã tại miếu Điện Tử thuộc trấn Tào Hành. Ngày Mồng Một mỗi tháng, suất lãnh những người cùng chí hướng kiền thành trì niệm thánh hiệu, hồi hướng Tây Phương, còn kèm thêm diễn thuyết lợi ích tu trì. Họ sợ người thấy nghe và những người tham dự liên xã chưa biết nguyên do, bèn cậy Quang soạn lời duyên khởi, do vậy tôi bèn thuật đại ý. Cần biết rằng: Những hạnh như vừa nói trên đây chính là do niệm Phật mà hộ quốc, tuy ngầm tu mà phù tá cõi đời. Những kẻ câu nệ hẹp hòi do không có trí nhãn, cho là Phật giáo diệt luân lý, vô ích cho con người, cho đất nước! Như vậy thì có khác gì kẻ mù từ lúc mới lọt lòng, tuy được hưởng ân che chở, chiếu soi của mặt trời, được làm người, nhưng vì chẳng thấy bèn bảo là không có! Há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 30 Đức Đại Giác Thế Tôn điều ngự chúng sanh tùy cơ thuyết pháp, tuy Đại, Tiểu, Thiên, Viên bất đồng, dẫu Quyền, Thật, Đốn, Tiệm mỗi pháp mỗi khác, nhưng đều là muốn làm cho chúng sanh đích thân chứng được Chân Như Phật Tánh sẵn có ngay trong tự tâm mà thôi. Nhưng Phật tánh ấy sẵn có trong cái tâm, chứ chẳng phải là vật từ bên ngoài đến, như lấy của báu trong nhà sẽ được thụ dụng ngay trong hiện tại. Do vậy, chứng Phật Tánh ấy là chuyện cực dễ dàng! Hiềm rằng chúng sanh ở trong sanh tử đã lâu, mê hoặc rất sâu. Ví như gương báu bị bụi phủ cả kiếp, muốn khôi phục bản thể quang minh chiếu trời soi đất của nó cố nhiên chẳng thể đổ công lau chùi một hai ngày sẽ liền đạt ngay được! Đức Như Lai bi tâm chân thật, thiết tha, biết chúng sanh đích thân chứng đắc bằng tự lực sẽ khó khăn; dẫu có tu trì nhưng vì chưa đoạn Phiền Hoặc, hễ thọ sanh lần nữa sẽ chẳng khỏi lại mê! Từ đấy kẻ đọa lạc thì đông, người siêu thăng ít ỏi. Do vậy, đặc biệt mở ra pháp môn Tín Nguyện Niệm Phật để những vị đã chứng Pháp Thân sẽ mau thành Phật đạo, kẻ chưa đoạn Phiền Hoặc cũng thoát khỏi luân hồi. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 30 Nam Kinh là cuộc đất Phật giáo hưng thịnh từ thời cổ, nay lại được lập làm Thủ Đô. Phàm những bậc vĩ nhân, kiệt sĩ, học rộng, trí sâu đều tụ họp về đây. Không có tịnh xã sẽ chẳng dễ tu thật hạnh hòng chứng tịnh quả. Hơn nữa, năm phương cùng tụ lại một chỗ, rắn - rồng hỗn tạp, nếu không có tịnh xã thì làm sao thoát khỏi hang tối để vượt lên cây cao chót vót. Do vậy, các vị cư sĩ Dương Tiên Phân, Ngụy Ngưỡng Sơn v.v… vào những lúc công việc rảnh rỗi đã suất lãnh những người cùng chí hướng tu trì Tịnh nghiệp. Do những người nghe tiếng liền tùy hỷ đông đảo, nên tạm thời thuê Diệu Phong Am để làm cơ sở. Lại sợ những người thấy nghe và xã hữu chẳng biết lợi ích của pháp môn bèn cậy Quang viết duyên khởi nhằm nêu rõ cái đạo sẵn có ngay trong cái tâm này, pháp tu chân ngay trong cõi tục, cũng như lợi ích do dùng chính niệm Phật để bảo vệ đất nước, do ngầm tu mà giúp đỡ cõi đời [khiến cho những ai thấy nghe] đều được biết rõ! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 29 Cư sĩ Trần Huệ Cung nhóm họp mấy chục người cùng chí hướng thành lập Cư Sĩ Lâm tại Đường Áp, mỗi Chủ Nhật hằng tháng phàm những lâm hữu đã gia nhập hội và những thiện tín tùy hỷ đều cùng đến niệm Phật một lượt. Hễ rảnh rang thì bèn thừa dịp thuận tiện diễn nói phương pháp tu trì và lợi ích của pháp môn Tịnh Độ, cũng như nhân quả ba đời, lục đạo, luân hồi, Tam Cương, Ngũ Thường, Thập Thiện, Bát Đức, để hết thảy chúng sanh đều cùng biết đạo dẹp loạn nhằm đạt bình trị và pháp siêu phàm nhập thánh, ngõ hầu chẳng đến nỗi uổng sẵn đủ Phật tánh có thể làm Phật mà vĩnh viễn luân hồi trong tam đồ lục đạo suốt kiếp, chẳng thể hưởng dùng được. Các lâm hữu xin chỉ dạy cương yếu; do vậy, tôi lược thuật những nét chánh yếu trong pháp môn Tịnh Độ và duyên khởi thành lập Cư Sĩ Lâm. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 28 Gần đây, lòng người kém hơn xưa, bỏ gốc chạy theo ngọn, gió Âu dần dần thổi sang Đông, đua nhau đề cao duy tân, phế kinh điển, phế luân thường, bỏ hiếu, vứt thẹn, đến nỗi hùa theo nhau ầm ĩ đề suông giết cha giết mẹ. Người có lòng lo cho thế đạo nhân tâm trông thấy hiện tượng ấy, sợ đạo làm người gần như bị diệt mất, đua nhau lập cách cứu vãn. Do vậy, các xứ đều lập Tịnh Nghiệp Xã, Cư Sĩ Lâm, đề suông Phật học, nêu tỏ nhân quả ba đời, chỉ rõ luân hồi trong lục đạo, khiến cho hết thảy mọi người đều giữ tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, hành tám sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, ắt sẽ ngăn giận, chặn dục, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành để thành người hiền, người thiện trong thế gian, phát Bồ Đề tâm, tự hành, dạy người, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Để đến khi lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây Phương, trở thành thượng thiện nhân xuất thế gian. Đấy là đại ý vì sao các xứ lập Tịnh Nghiệp Xã. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 27 Ví như gã chân teo suốt ngày chỉ đi được mấy dặm, nếu ngồi luân bảo của Chuyển Luân Thánh Vương thì trong một ngày liền đến khắp bốn châu. Vì thế, pháp [môn Tịnh Độ] này được chín giới cùng hướng về, mười phương cùng khen ngợi, ngàn kinh cùng xiển dương, muôn luận đều tuyên nói, là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương tam thế hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Xét từ khi đại giáo được truyền sang phương Đông, Viễn Công là vị mở liên xã đầu tiên. Đương thời, bậc cao tăng đại nho dự vào hội có tới một trăm hai mươi ba người. Từ đấy trở đi, đời nào cũng có cao nhân tục diệm truyền đăng trọn khắp trong ngoài nước. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 27 Do biển pháp của chư Phật chỉ có Niệm Phật là dễ vào nhất; Chân Như tánh hải chỉ có Niệm Phật là dễ đích thân chứng được nhất. Do vậy, pháp môn Niệm Phật này chính là cửa ngõ để vào biển pháp của chư Phật, để chứng Chân Như tánh hải! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 26 Đức Đại Giác Thế Tôn thương xót, tùy cơ chỉ dạy, nói đủ mọi pháp, khiến cho ai nấy đều theo đường về nhà, đích thân thấy được Phật tánh. Hiềm rằng chúng sanh căn khí bất nhất, liễu thoát ngay trong đời này chẳng được mấy kẻ! Do vậy, đức Phật liền đặc biệt mở ra một môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ để mong sao bọn họ dù thánh hay phàm đều cùng được giải thoát ngay trong đời này. Ấy là vì “tâm này làm Phật, tâm này là Phật” chứ chẳng phải có [một Phật quả] ở riêng ngoài tâm để đạt được! Do Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh tâm lực cũng chẳng thể nghĩ bàn; chúng sanh và Phật dung nhiếp nhau, cảm ứng đạo giao, nên dễ được thành tựu. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 26 Chân Như tánh hải tịch - chiếu viên dung, vô Năng, vô Sở, chẳng dời, chẳng biến, ngay cả cái tên Niết Bàn còn chẳng có thì làm sao có chuyện sanh tử? Nhưng vì chúng sanh mê muội, chôn vùi toàn thể, chẳng hiểu tự tâm, lầm lạc đuổi theo huyễn cảnh. Do vậy, đối với những cảnh thuận, nghịch, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, từ kiếp này sang kiếp khác luân hồi trong lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra, ngược ngạo nương vào sức tịch - chiếu viên dung của Chân Như Phật tánh ấy để làm cái gốc khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi sanh tử; há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 26 Nay đại sư Diệu Đăng thấy một pháp Niệm Phật nhiếp khắp kẻ định tâm lẫn tán tâm, nhưng cần phải chuyên ròng dụng công để mong đắc nhất tâm ngõ hầu lên thẳng Thượng Phẩm, mau chứng Tịch Quang, liền tính mỗi năm vào cuối mùa Đông sẽ lập một kỳ hạn nhất định chuyên niệm Phật trong bốn mươi chín ngày để mong tâm khế hợp với Phật, hòng chứng được nghĩa “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, cảm ứng đạo giao, chẳng phụ lòng Thành như mẹ mong con, như con nhớ mẹ. Pháp hội đã mở ra, chỉ mong lợi lạc trọn khắp. Phàm kẻ tại gia thiện sĩ muốn tùy hỷ tu trì đều chấp thuận hết. Chỉ có những vị anh hiền chốn khuê các cố nhiên nên ở yên trong nhà, nhất tâm niệm Phật, chẳng cần phải đến dự hội để mong đích thân được hưởng lợi ích chân thật, không vướng phải các hiềm nghi, khiến cho người khác sanh lòng ngưỡng mộ, vĩnh viễn dứt hết các nghi báng, ai nấy tùy theo phận mình gắng sức tu trì, quả thật là nhiệm vụ trọng yếu. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 25 Kinh Di Giáo dạy: “Này các thầy tỳ- kheo! Sau khi ta diệt độ, hãy nên tôn trọng, quý trọng, cung kính Ba La Đề Mộc Xoa như trong tối tăm gặp được ánh sáng, như kẻ nghèo được báu vật. Hãy nên biết đấy chính là đại sư của các thầy giống như ta trụ thế, trọn chẳng khác gì!” Kinh Phạm Võng dạy: “Ta là Phật đã thành, các ông là Phật chưa thành. Nếu tin được như thế thì giới phẩm đã trọn đủ”. Lại nói: “Chúng sanh nhận lãnh giới nhà Phật liền dự vào địa vị Phật, địa vị giống với bậc Đại Giác, đúng là con của chư Phật”. Nguyện các Phật tử thọ giới ai nấy đều tự biết chính mình vốn sẵn là Phật, nhưng do mê trái nên ngược ngạo nhờ vào sức công đức Phật tánh ấy mà luân hồi trong lục đạo, chịu các sự khổ cùng cực. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 23 Lô Xá Na Phật lấy Giới làm Thể, do không điều ác nào chẳng hết sạch nên gọi là Tịnh, không điều thiện nào chẳng trọn vẹn nên gọi là Mãn. Đoạn ác tu thiện chính là cùng vâng giữ Chỉ và Tác. Do vậy, Luật là Phật thân, Giáo là Phật ngữ, Tông là Phật tâm. Ba thứ tâm - ngữ - thân quyết chẳng thể tách rời, quyết khó thể thiếu sót. Nếu không, thì một cánh khó bay, một bánh xe chẳng thể di chuyển được! Muốn tự lợi, lợi tha sẽ khó thể như nguyện! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 23 Hãy nên biết: Cả ba điều này chính là một, tuy một nhưng là ba. Đừng cho rằng Giới chỉ là nền tảng ban đầu của Định và Huệ mà thôi! Phàm Luật Nghi Giới giữ cho thân chẳng làm [những điều ác] thì có thể gọi là nền tảng ban đầu, nhưng Định Cộng Giới giữ cho tâm chẳng khởi [những vọng niệm] và Đạo Cộng Giới nghiệp tận tình không, Chân cùng, trí rạng, há chẳng phải là toàn thể đại dụng của Định và Huệ ư? Há nên chỉ coi là nền tảng ban đầu ư? Nhưng Định Cộng Giới và Đạo Cộng Giới lấy Luật Nghi Giới làm bản thể, chỉ do công dụng trì giới sâu hay cạn mà lập ra hai cái tên ấy, chứ chẳng phải là nói đến thứ giới bổn nào khác cả! Người đời thường lấy Luật Nghi để bàn luận, đến nỗi chẳng biết hoặc coi thường ý nghĩa chế giới lớn lao của đức Như Lai! Chẳng khởi sự từ Văn Huân mà mong đạt được Chân Giới, Chân Định, Chân Huệ, đáng than lắm thay! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 23 Đức Như Lai dùng ba sự để giữ cho chánh pháp tồn tại lâu dài trong thế gian khiến cho chúng sanh đều được độ thoát. Ba sự ấy là gì? Chính là Giới - Định - Huệ. Do chúng sanh một mực trái nghịch đạo giác, xuôi theo trần lao, luân hồi trong lục đạo, nên nay đức Phật muốn làm cho họ bỏ trần lao thuận theo đạo giác, hướng tới chứng được Niết Bàn. Nếu không có Giới thì chẳng có gì trói buộc, ắt sẽ đến nỗi đuổi theo trần cảnh, khởi Hoặc, tạo nghiệp. Không có Định, sóng thức cuồn cuộn, làm sao tâm không trụ vào đâu cho được! Không có Huệ sẽ do đâu triệt chứng được chân tâm sẵn có? Vọng Hoặc huyễn khởi sẽ do đâu mà nhanh chóng diệt mất? Vì thế, kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nhiếp tâm là Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Huệ. Đấy gọi là Tam Vô Lậu Học”. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 23 Thường thấy ngu phu ngu phụ cắm cúi tu trì đạt được lợi ích hơn hẳn kẻ thông minh nhiều lắm. Ấy là vì một đằng hết lòng Thành, cạn lòng kính, chuyên tâm nhất chí, còn một đằng thì hờ hững, lợt lạt, tán loạn, hư vọng suy lường mà ra! Xin các độc giả đều biết ý này, đấy chính là đã hiểu trọn ý nghĩa của kinh, khi trì tụng sẽ chẳng còn sanh phân biệt nữa, sẽ như đối trước thánh dung đích thân lắng nghe viên âm, trọn không thấy có một niệm nào để được thì lợi ích ấy chẳng thể dùng ngòi bút để hình dung được đâu! Đấy chính là bí quyết trì tụng. Nguyện khắp các đồng nhân đừng coi thường lời này thì may mắn lắm thay! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 22 Trì tụng kinh chú quý tại chí thành. Dẫu trọn chẳng biết nghĩa, mà nếu có thể hết lòng thành, cạn lòng kính, kiền thành, khẩn thiết thọ trì thì lâu ngày chầy tháng tự nhiên sẽ nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận, tâm minh, còn có thể thấu hiểu trực tiếp ý Phật, huống là những giải thích về mặt văn tự và ý nghĩa của chúng ư? Nếu không, dẫu có thấu hiểu thông suốt, nhưng do chẳng chí thành thì chỉ trở thành tình kiến phàm phu, dò đoán suy lường mà thôi; chứ không có cách nào đạt được lợi ích chân thật và sự cảm ứng chân thật của kinh! Do hoàn toàn là thức tâm phân biệt suy lường thì làm sao có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp diệu đạo, hễ vừa vượt thoát liền chứng nhập trực tiếp, mau chóng đạt lợi ích thù thắng? - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 22 Quả báo thiện - ác như bóng theo hình. Nếu biết được lý này thì trên chẳng oán trời, dưới chẳng hờn người, dè dặt, kiêng nể, kinh sợ tu tỉnh, trừ khử những món vật tư dục trong tâm chính mình thì chánh tri sẵn có trong tự tâm sẽ phát hiện. Do vậy, kẻ mất niệm thành cuồng sẽ đều khắc chế được ý niệm mà trở thành thánh. Đấy chính là loại nhân quả được nói bởi Nho giáo mà còn có lợi ích lớn lao như thế, huống hồ đức Phật dạy con người tu Giới - Định - Huệ, đoạn tham - sân - si, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành! Thoạt đầu là đoạn sạch Phiền Hoặc thế gian, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Tiếp đến là dần dần tấn tu cho đến khi Chân cùng, Hoặc tận, huệ mãn, phước trọn, triệt chứng tự tâm, thành Bồ Đề đạo, đều chẳng ra ngoài nhân quả. Do vậy nói: “Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh”. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 21 Kinh Phật nói nhân quả ba đời tường tận, chu đáo nhất. Nói toát yếu là: “Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị. Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị” (Muốn biết cái nhân đời trước thì những gì phải hứng chịu trong đời này chính là nó đấy; muốn biết quả đời sau thì [hãy nhìn vào] những gì đã làm trong đời này). Con người thường gọi khổ - sướng, hên - xui phải hưởng chịu trong đời này là Mạng, cho đó là mệnh lệnh từ cõi trời, nào biết đấy chính là quả báo của những điều thiện - ác do chính mình đã làm trong đời trước. Trời đâu có hạ lệnh hậu đãi người kia, bạc đãi kẻ này? Vì thế, sách Cảm Ứng Thiên chép: “Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu” (Họa - phước không có cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy). - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 21 Nếu hờ hững nghiên cứu tràn lan các thứ pháp môn và cũng nương theo đó tu trì thì sẽ có phần làm một vị đại thông gia và hưởng phước báo trời người trong đời sau, chứ muốn liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh sợ khó thể mộng được! Vì sao vậy? Do hết thảy các pháp môn đều phải đoạn Hoặc chứng Chân thì mới hòng liễu sanh thoát tử, chứ không như pháp môn Tịnh Độ: Cậy vào Phật từ lực sẽ có thể đới nghiệp vãng sanh. Phật lực, tự lực khác biệt hệt như một trời một vực! Hiểu rõ điều này sẽ chẳng dám cậy vào tự lực, vứt bỏ Phật lực để kéo dài kỳ hạn liễu sanh tử tới bao nhiêu số kiếp trong vị lai. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 20 Kim Cang Kinh chính là khuôn mẫu do đức Phật dạy con người phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo, xa lìa trọn vẹn phàm tình - thánh kiến để hành lục độ vạn hạnh. Vì thế nói: “Ngã ưng diệt độ nhất thiết chúng sanh, diệt độ nhất thiết chúng sanh dĩ, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả” (Ta hãy nên độ hết thảy chúng sanh, diệt độ hết thảy chúng sanh rồi mà thật ra chẳng có chúng sanh nào được diệt độ cả). Ấy là vì: Trong chẳng thấy tướng Ta là người hóa độ; ngoài thì chẳng thấy tướng người được độ và tướng chúng sanh; giữa là chẳng thấy có tướng thọ giả chứng đắc Vô Dư Niết Bàn. Xa lìa trọn vẹn bốn tướng, chẳng vướng vào sáu trần, nên được xứng tánh tu trọn khắp lục độ vạn hạnh để trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Đấy gọi là “không trụ vào đâu để sanh tâm, sanh tâm nhưng không trụ vào đâu”. Nếu có trụ thì cái tâm được sanh ấy sẽ đọa trong phàm tình thánh kiến, sẽ trái nghịch với nghĩa “tam luân thể không, nhất đạo thanh tịnh”. Do vậy, một câu “hãy nên không trụ vào đâu để sanh tâm” quả thật là cương yếu của bài kinh này, mà cũng là kim chỉ nam cho hết thảy những người hành Bồ Tát đạo. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 19 Thọ Giả tướng (Jīvasamjñā): Theo quan điểm thông tục, mỗi cá thể sẽ có một linh hồn hoặc nhân cách, linh hồn ấy sẽ luân chuyển thọ sanh, tồn tại thật sự. Đó gọi là Thọ Giả Tướng. Trong Kim Cang Bát Nhã Sớ, quyển 3, ngài Cát Tạng đã viết: “Ngoại đạo chấp có Thần Ngã, chết đây sanh kia, trải khắp sáu đường nên gọi là Thọ Giả”. Ngoài ra, theo quyển 2 của kinh Đại Phẩm Bát Nhã thì Thọ Giả chính là một trong mười sáu tên gọi khác của Ngã. Có kẻ bảo Quang nghiêm cấm người khác đọc tụng, nghiên cứu kinh luận Đại Thừa, chẳng biết phàm ai đến chỗ Quang xin dạy bảo, nếu như [người thưa hỏi ấy] thân vướng vít trong lưới tục, hoặc tuổi tác đã cao; đối với những kẻ bận bịu công việc, tháng ngày chẳng còn mấy, mà vẫn dạy họ xem đọc, nghiên cứu tràn lan, trước hết chẳng dạy họ hiểu rõ rệt thấu triệt nguyên do của pháp môn Tịnh Độ, chắc họ sẽ có phần gieo thiện căn, hiểu giáo lý, đối với chuyện liễu sanh thoát tử, sợ sẽ chẳng có hy vọng gì bởi chỉ chú trọng đọc tụng, nghiên cứu để mong khai ngộ tự chứng, chẳng còn chú trọng tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 18 Thuốc không sang - hèn, thuốc chữa được bệnh là thuốc hay. Pháp không tinh - thô, pháp hợp căn cơ là pháp diệu. Pháp môn tu trì vô lượng vô biên, bọn độn căn đời Mạt thật khó thể thông hiểu trọn khắp. Huống hồ đã không chứng nhập thì làm sao có thể đạt lợi ích cho được? Quang túc nghiệp sâu nặng, hạnh trong hiện đời nhỏ yếu, lạm dự vào Tăng chúng đã năm mươi năm. Một câu Phật hiệu vẫn chưa trì đến mức “tâm và Phật tương ứng”, nói gì các thứ pháp môn khác! Mười mấy năm qua thường có những người lầm nghe lời kẻ khác ngỡ Quang là tri thức đến nỗi gởi thư từ qua lại để cầu khai thị. Cố nhiên Quang nghiêm túc giữ bổn phận, đem những gì chính mình biết được và chính mình tu tập thưa trình. Nếu người hỏi kiến thức cao minh, trí huệ rộng lớn, liền xin người ấy hãy chuyển sang hỏi bậc cao nhân, quyết chẳng dám đem sự hèn tệ của chính mình để ngăn giữ người, đến nỗi họ chẳng thể đạt đến chỗ cao minh, khuất lấp thiên tư, tài đức của họ. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 18 A Di Đà Phật phổ độ chúng sanh, chỉ cần có lòng tín nguyện trì danh hiệu Phật, chắc chắn lâm chung được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Đã vãng sanh Tây Phương thì sẽ siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, thân cận Di Đà, kề cận hải chúng, chứng Vô Sanh Nhẫn, lên địa vị Bất Thoái, ngay trong một đời này liền viên thành Phật đạo. Lợi ích ấy dù hết cả kiếp vẫn khó nói trọn! So với những gã câu nệ hẹp hòi, tự xưng là thông gia, nhưng lại mua rương trả châu, bỏ vàng gánh gai thì nào phải chỉ khác biệt vời vợi một trời một vực ư? Đấy là pháp dễ tu trì nhất, dễ thành tựu nhất trong Phật pháp, lợi ích ấy lại vượt trỗi hết thảy các pháp khác, bởi đã lấy Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, cho nên nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân. Tiên sinh và phu nhân nếu chẳng vì thấy con người [Quang kém hèn] mà vứt bỏ lời này thì trong ao bảy báu nơi cõi Tây Phương sẽ lại lập tức thấy trổ hai đóa sen tử kim. Xin hãy suy nghĩ sâu xa, xin hãy suy nghĩ sâu đậm vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 17 Con người sống trong thế gian thọ hay yểu, cùng quẫn hay hanh thông, đều có nhất định hoặc không nhất định. Hễ nhất định thì Nho gia gọi là Mạng, gọi là “thiên tích” (trời ban cho). Nhưng trời đại công vô tư, há lẽ nào lại ban phát cao - thấp khác xa nhau, muôn phần chẳng bình đẳng ư? Há lẽ nào trời cũng có tư dục đối xử nồng hậu hay lợt lạt, khinh - trọng ư? Nhà Nho chẳng nói đến ba đời, vì thế coi cái nhân đời trước là “mạng trời’ (Thiên Mạng), chẳng biết nhà Phật gọi cái Thiên Mạng vừa được nhắc đến ấy là quả báo! Đức Phật gọi thân này là Báo Thân. “Báo” có nghĩa là do cái nhân gồm những điều thiện, sự ác đã tạo trong đời trước nên cảm lấy cái quả phải hứng chịu thọ - yểu, cùng quẫn - hanh thông trong đời này. Những điều ấy có nhất định. Còn bất định là dốc chí tu trì, tích lũy điều lành và công đức, mong thành thánh, thành hiền, hay mặc sức phóng túng, buông lung không kiểm điểm, lười nhác quá mức, tự ruồng rẫy, tự phụ bạc chính mình. Ấy là vì sức của những điều thiện sự ác đã làm trong đời này mạnh mẽ nên chuyển biến những nghiệp báo trong đời trước khiến cho chúng sanh trở thành tốt đẹp hơn hay kém cỏi hẳn đi. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 17 Tâm tánh ấy có đủ vô lượng đức, bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến, nơi phàm chẳng giảm, tại thánh không tăng. Do mê hay ngộ khác nhau đến nỗi có mười giới sai biệt. Nhưng ngay trong mười giới ấy, mỗi mỗi không gì chẳng phải là “tâm sẵn đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là”. Cầu sanh Tây Phương chính là chân vô sanh, do sanh về cõi Tây Phương “tâm sẵn đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là”; không phải như kẻ chấp Lý phế Sự chỉ có cái danh suông, chứ thật sự chẳng có cảnh Tây Phương! Ấy chính là “quyết định sanh nhưng không có tướng sanh, quyết định vô sanh nhưng không có tướng vô sanh”, sanh mà vô sanh vậy. Lấy tín nguyện niệm Phật để cầu sanh vào cõi Tây Phương “tâm sẵn đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là” của chính mình, cho nên tuy sanh mà không có tướng sanh, tuy không sanh nhưng chẳng trụ vào tướng vô sanh. Đấy chính là ý chỉ tổng quát của Sanh Vô Sanh Luận. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 16 Do đã không có tín nguyện, dẫu có đích thân thấy được [người niệm Phật] là ai thì cũng chỉ là đại triệt đại ngộ mà thôi! Nếu Phiền Hoặc chưa hết thì vẫn luân hồi y như cũ. Do cảnh duyên trược ác, kẻ mê mất đông đảo, muốn liễu sanh thoát tử ắt phải đợi đến năm con lừa! Chẳng đáng buồn sao? U Khê đại sư nương theo bổn nguyện, thị hiện giáng sanh, hiểu trọn vẹn Giáo, ngộ tự tâm nơi Thiền, dốc lòng tu Tịnh nghiệp, lợi khắp trời người, thương những kẻ mê muội trong cõi đời, chẳng biết “Tây Phương Cực Lạc thế giới vốn là duy tâm Tịnh Độ; đạo sư A Di Đà Phật vốn là tự tánh Di Đà”, bèn bỏ sự thực để chấp lấy lý Không rồi dạy người khác niệm “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Rốt cuộc cho rằng “đạo lợi khắp thánh phàm của đức Như Lai chỉ nhằm biểu thị pháp hoặc là chuyện ngụ ngôn”, chỉ mong khai ngộ, mặc kệ những điều khác, đến nỗi kẻ cao minh đâm ra chẳng bằng phường ngu phu ngu phụ cắm cúi niệm Phật mà có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp diệu đạo, cảm ứng đạo giao, được Phật tiếp dẫn liền được vãng sanh. Căn bệnh là do ham cao chuộng xa, chứ chưa thật sự hiểu sâu xa nguồn cội của sự cao xa. Rốt cuộc biến khéo thành vụng, cầu thăng lên đâm ra bị đọa suông, thật đáng buồn thương! Đại Sư buồn xót khôn cùng, riêng soạn bộ [Tịnh Độ] Sanh Vô Sanh Luận nhằm chỉ thẳng tâm tánh của ba thứ tâm - Phật - chúng sanh không sai biệt. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 16 Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài được, hết thảy pháp môn không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này; hết thảy hạnh môn không môn nào chẳng trở về pháp giới này, thật sự là đạo thành thủy thành chung để chư Phật viên mãn Bồ Đề mà cũng là pháp để chúng sanh cậy vào Phật từ lực hòng liễu thoát ngay trong đời này. Lý ấy rất sâu, sự ấy cực dễ. Vì thế con người phần nhiều chẳng thể thấu hiểu những chỗ ẩn kín, nên hoặc cầu phước báo trời người, chẳng dám gánh vác ngay, hoặc bỏ tín nguyện cầu sanh để chuyên khán câu “người niệm Phật là ai”, khiến cho pháp do đức Như Lai đặc biệt lập ra để khắp hết thảy thượng thánh hạ phàm sẽ cậy vào Phật từ lực được cao dự Liên Trì hải hội ngay trong đời này bị trở thành pháp tự lực. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 16 Chân Như Phật Tánh, chúng sanh và Phật trọn không hai. Do tu trì nghịch hay thuận mà thánh - phàm khác biệt vời vợi một trời một vực! Ấy là vì chúng sanh tuy sẵn có Tánh Đức, nhưng trọn chẳng có Tu Đức. Dẫu có tu tập vẫn đều trái nghịch Tánh Đức, nên gọi là “nghịch tu”. Bởi vậy, Tánh Đức không có cách nào hiển hiện để thọ dụng được! Phật thì từ nơi Lý Thể của Tánh Đức sẵn có bèn dụng công Tu Đức về mặt Sự, do vậy Tam Hoặc đều hết sạch, bởi đó Nhị Nghiêm đều viên mãn. Công Tu Đức đến cùng cực thì Tánh Đức phô bày trọn vẹn, thường trụ Tịch Quang, hưởng thụ pháp lạc; nhưng do bi tâm vô tận, đức Phật lại thị hiện giáng sanh trong thế gian, thị hiện thành Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi nói đủ mọi pháp khiến cho ai nấy đều biết lấy “hạt châu trong chéo áo”, theo đường trở về nhà. Lại do chúng sanh đời Mạt Pháp chướng sâu, huệ cạn, nếu cậy vào tự lực quyết khó thể liễu sanh thoát tử ngay trong đời này. Do vậy, đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, khiến cho hàng phàm phu sát đất và các vị Bồ Tát tín giải tu chứng đều cùng nương theo hoằng thệ nguyện lực của A Di Đà Phật vãng sanh Tây Phương để mong triệt chứng Tánh Đức trọn chẳng tiếc nuối gì! Đấy chính là khuôn phép lớn lao xuất thế độ sanh của đức Như Lai. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 15 Nếu như căn cơ kém hèn, chẳng thể đạt được [pháp Chân Như, Ngũ Uẩn Giai Không] như vậy; cố nhiên hãy nên sanh lòng tin phát nguyện, niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, như ngài Vĩnh Minh đã dạy: “Nhược đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ” (Nếu được thấy Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ) chính là vì ý này. Do Quang mong trở về mà chưa được, thường nghĩ đến những ai đang còn rong ruổi nên mới nói lời này. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 14 Ông Viên Lệ Đình ở Vô Tích xưa kia là một gã ngông cuồng, do nghe Phật pháp, biết nhân quả báo ứng đều do tự tâm cảm vời, muốn bỏ ác quả để tận lực tu thiện nhân. Do thấy chính mình may mắn đã được biết tới [những điều trên đây], bèn thương xót những kẻ khác chưa ngộ, liền tập hợp những người cùng chí hướng, lập ra Tịnh Nghiệp Xã. Phàm những ai gia nhập đều tùy theo khả năng của chính mình mà sốt sắng hành điều lành thế gian để mong chẳng phụ bạc cái đạo làm người, kiêng giết, bảo vệ sanh vật, ăn chay, niệm Phật, ngõ hầu cùng sanh về cõi Cực Lạc. Nay đã hơn ba năm rồi… - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 11 Hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng ra ngoài nhân quả. Có kẻ chẳng tin chê là mờ mịt, chẳng thể truy cứu, nên thành ra bỏ thiện nhân, thiện quả, để chọn lấy ác nhân, ác quả. Bởi lẽ, tin nhân quả thì sẽ dè dặt, kinh sợ, răn dè, cẩn thận ngay trong những nơi không ai thấy được, kiêng nể ngay trong chỗ không ai nghe được, tu sửa đức mình. Không tin nhân quả thì sẽ phóng túng, tà vạy, xa xỉ, trọn chẳng kính sợ mạng trời, khinh miệt ngôn giáo của thánh hiền, buông tuồng không nể nang. Vì thế, kinh Thư nói: “Tác thiện giáng chi bách tường, tác bất thiện giáng chi bách ương” (Làm lành thì trăm điều lành giáng suông, làm điều chẳng lành thì trăm nỗi tai ương giáng suông). Kinh Dịch chép: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương” (Nhà chất chứa điều lành ắt sự vui có thừa, nhà chất chứa chuyện chẳng lành ắt tai ương có thừa). Gia đình hưng thịnh hay suy sụp, đất nước bình yên hay loạn lạc không gì chẳng do vì lẽ này gây nên. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 11 Phật pháp là đèn đuốc cho đêm dài vô minh, là thuyền bè trong biển khổ sanh tử. Giữ thân, xử thế, mong thành thánh, thành hiền, cùng lý, tận tánh, liễu sanh thoát tử, không gì chẳng được [Phật pháp] giúp cho thành tựu từ đầu cho đến cuối. Ấy là vì đức Như Lai thuyết pháp tùy thuận căn cơ của chúng sanh. Đối với kẻ căn cơ nông cạn thì Ngài dạy giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thâm nhập sâu dần ắt sẽ có thể đạt đến mức tam nghiệp thanh tịnh, nhất tâm viên minh. Đối với kẻ căn cơ sâu thì Ngài liền giảng diệu lý tâm tánh khiến cho họ lập tức ngộ nhập, nhưng công phu tu trì vẫn chẳng rời những chuyện giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận v.v… Đấy gọi là: “Pháp không cạn - sâu. Cạn hay sâu do người. Người căn tánh viên đốn nhận lãnh pháp thì không pháp nào chẳng viên”. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 10 Những kẻ chỉ chú trọng bàn nói điều huyền lẽ diệu, miệt thị sự tướng nhân quả và pháp môn Niệm Phật đều là vì chưa thể thấu hiểu cặn kẽ: Đức Như Lai chứng đắc triệt để tâm tánh, thành Bồ Đề đạo đều do trải bao kiếp tu các điều lành, tích công lũy đức mà ra! Muốn chứng tâm tánh để thành giác đạo, nếu chẳng thực hiện từ “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành” thì có khác nào chim không cánh lại muốn bay, cây không rễ lại muốn xum xuê đó ư? - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 10 Trụ Trì hiện thời là Bồi Căn, muốn lập mấy gian Niệm Phật Đường để làm chỗ tinh tấn tu trì Tịnh nghiệp quanh năm. Lại lo chùa không có tài sản cố định, sau này sẽ khó lòng duy trì vĩnh viễn, cũng như muốn cho khắp những ai hữu duyên đều được thấm nhuần pháp lợi, thẹn chẳng có đạo phong như Lô Sơn, Chiêu Khánh, lại chẳng có sức của một vị thầy nghiêm túc như Lộ Công. Do vậy bèn châm chước, lập ra hội Một Vạn Người Kết Duyên. Phàm những ai gia nhập hội đều bỏ ra một đồng, dùng công đức của một vạn người để tậu hết ruộng đất, lấy hoa lợi thu được hằng năm để cung cấp chi phí cơm áo cho các vị sư niệm Phật, ngõ hầu có cái vốn để tu trì, hành đạo không bị trở ngại, suốt đời quy mạng, dốc lòng thành cho đến hết báo thân, thoát Sa Bà, sanh về Cực Lạc, vượt dòng phàm, dự vào hội thánh, đều do một vạn người thành tựu. Chế ra một tấm bảng hình hoa sen ghi tên hết những người bỏ tiền ra, treo hai bên vách của Niệm Phật Đường để mong họ vĩnh viễn được hưởng Phật quang, thường nghe Phật hiệu. Do Phật lực, pháp lực, sức tu trì cầu nguyện khẩn thiết của chúng tăng mà trong đời hiện tại tội chướng sẽ ngầm tiêu, các duyên thuận thảo, thích hợp, sẽ hưởng năm điều phước như Cơ Tử đã luận, trọn đủ tam đa như người được sắc phong ở đất Hoa đã chúc tụng. Lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương, giã biệt tám sự khổ trong nhân gian, lìa năm thứ suy trong đường trời. Từ đấy thường hầu Phật Di Đà, hằng dự vào hải chúng, nghe viên âm mau thấu hiểu tự tánh, thấy diệu cảnh triệt chứng duy tâm. Niềm vui ấy chẳng thể nào ví dụ được! Những người giúp cho kẻ khác được thành tựu bằng cách bỏ ra một bữa ăn của chính mình để giúp cho người khác thành tựu sẽ hưởng quả báo đến tận đời vị lai trọn chẳng có lúc nào hết. Có ai muốn siêu độ tiên vong và tự cầu vãng sanh thì xin hãy ghi phương danh, cùng đăng tên trên bảng sen. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 9 Đức Đại Giác Thế Tôn thương xót chúng sanh mê trái tự tâm, luân hồi lục đạo trải kiếp lâu xa, không được cứu vớt, không chỗ quay về, chịu các thứ khổ sở, cay đắng không thể thoát khỏi. Do vậy, dấy lòng Vô Duyên Từ, vận lòng Đồng Thể Bi, thị hiện giáng sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội. Trong thời gian ấy, do tùy theo căn cơ mà lập giáo sai khác, do duyên mà pháp khác biệt. Đại, Tiểu, Thiên, Viên, Quyền, Thật, Đốn, Tiệm, thảy đều thuận theo cơ duyên khiến cho mỗi căn cơ đều được lợi ích. Nhưng trong số ấy, tìm lấy một pháp thích hợp cả ba căn, thâu tóm trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn, thực hiện dễ mà thành công cao, dùng sức ít mà đạt hiệu quả nhanh chóng, chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà được dự vào Hải Hội, nhất định ra khỏi luân hồi ngay trong một đời này thì không gì thù thắng siêu tuyệt bằng “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương!” - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 9 Vị phu nhân [được nhắc đến trong AQVS Tam Biên quyển 3, thư 592] tánh tình tàn nhẫn, hung ác, trọn chẳng thể đem tình lý khuyên nhủ được, nhưng do một đêm nằm mộng liền thôi ăn mặn mà ăn chay, kiêng giết, phóng sanh. Do vậy biết rằng con người và loài vật vốn không hai. Đời sống giống như giấc mộng, sự - lý tương đồng. Nếu chẳng mau chóng sửa đổi tâm trước, khó khỏi hứng chịu quả báo sau này. Hễ sanh làm dị loại thì đời đời kiếp kiếp thường bị giết chóc, muốn lại được làm thân người, trọn chẳng có lúc nào! Vì thế, sau khi nằm mộng bèn liền giác ngộ. Do [đích thân cảm nhận] nỗi khổ thảm khốc, chỉ sợ đời sau phải chịu đựng lần nữa. Nhưng vị phu nhân ấy trong đời trước vốn có thiện căn lớn lao nên mới lấy được người chồng từ thiện, nhưng vì mê muội sâu nặng nên trải qua mấy chục năm hun đúc vẫn chẳng thể cảm hóa được bà ta. Nếu chẳng nằm mộng thấy như thế thì nỗi khổ trong tương lai sẽ chẳng thể nào nói được nổi! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 8 Hình thể giữa người và vật do tội hay phước mà sai khác. Đã may mắn được làm người thì phải nên thương xót loài vật cùng mang cái thân máu thịt này, cùng có tánh linh tri này mà tìm cách cứu vớt, che chở để bọn chúng thoát lìa sự giết chóc thì người ấy đời đời sẽ được làm người. Nếu lại còn có thể tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì sẽ cậy vào sức từ tâm không giết ấy mà sẽ từ tạ Sa Bà mãi mãi, mau thoát nỗi khổ luân hồi, cao đăng An Dưỡng, vĩnh viễn hưởng niềm vui chân thường. Nếu coi loài vật là thức ăn rồi mặc tình tàn sát thì khi một hơi thở ra không hít vào được nữa, thần thức sẽ đọa trong loài ấy, dẫu có hối cũng chẳng ích gì! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 8 Kinh dạy: “Hết thảy những loài có mạng sống, không một loài nào chẳng yêu mến thọ mạng”. Cứ từ ta suy ra, ắt sẽ hiểu, đừng giết, đừng đánh đập. Ông Hoàng Sơn Cốc nói: Thịt ta, thịt chúng sanh, Tên khác, thể vốn đồng, Vốn cùng một chủng tánh, Chỉ thân xác khác nhau, Khổ não bọn chúng chịu, Béo ngọt ta hưởng riêng, Chớ đợi Diêm Vương xử, Tự suy ắt biết mà! Chỉ vì con người chẳng biết đặt mình vào hoàn cảnh ấy để xét lại, đến nỗi đem chuyện khổ sở cùng cực, thảm thiết cùng cực giáng suông thân loài vật mà lòng vui sướng, tự bảo mình có phước, chẳng biết phước thọ đã vun bồi từ đời trước sẽ bởi đấy mà dần dần bị tiêu diệt, trong vị lai sẽ đời đời phải hứng chịu những nỗi khổ độc chẳng có lúc nào xong! Nếu trong lúc sát sanh ăn thịt mà nghĩ đến chuyện này, dẫu có kẻ đem cái chết uy hiếp buộc phải sát sanh ăn thịt, vẫn chẳng dám làm! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 8 Sự tình sát sanh ăn thịt thê thảm lắm thay, lại còn di họa vừa sâu vừa xa! Con người và loài vật đều cùng bẩm thụ sự sanh thành trưởng dưỡng của trời đất mà sống, cùng được hưởng cái thân huyết nhục, cùng có tánh linh tri, cùng biết tham sống sợ chết, hướng lành tránh dữ, quyến thuộc đoàn tụ thì vui sướng, ly tán bèn đau xót, được ban ân thì cảm ơn, bị làm khổ thì ôm lòng oán hận. Mỗi một điều đều giống như nhau. Hiềm rằng loài vật do sức ác nghiệp đời trước phải đọa làm súc sanh, hình thể khác biệt, miệng chẳng thể nói được! Lẽ ra con người phải thương chúng nó bị đọa lạc, mong cho chúng nó đều được sống yên vui. Sao lại nỡ lòng vì chúng nó hình dạng khác biệt, trí lực thấp kém, bèn xem chúng như thức ăn, cậy vào trí lực, tài lực của chính mình để vây bắt khiến chúng nó chịu nỗi khổ cùng cực “dao chặt, nung nấu” nhằm sướng miệng, thỏa bụng ta trong chốc lát vậy thay? - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 8 Vào cuối đời Minh, kỷ cương của vương triều suy đồi, đại thần không có quyền hành, những kẻ nắm quyền đều là bọn thái giám vô tri vô thức. Kẻ gian ác ỷ quyền làm chuyện tệ hại, kẻ mang ý nguyện chân thật thì thiếu tài trí để lập phương cách [cứu vãn] đến nỗi dân khốn đốn, nước nguy ngập, hết cả thuốc chữa! Hám Sơn, Tử Bách, Liên Trì, Diệu Phong cùng xuất hiện trong thời ấy, ngầm giúp cho đạo bình trị, thầm cải thiện cuộc sống nhân dân rất lớn. Vì hoằng pháp, ngài Hám Sơn bị vu cáo, bị đày đi làm lính thú ở Quảng Châu. Ngài đã cứu nhân dân đất Việt (Quảng Đông), giữ cho xã tắc tồn tại lâu dài vừa sâu vừa xa. Nếu ngài Hám Sơn chẳng bị đày đi làm lính thú ở Quảng Châu, dân Quảng châu đã sớm lâm vào cảnh hiểm, tạo thành mối lo cho nước nhà. Những chuyện như dẹp bỏ thuyền chặn xét thâu thuế, dẹp yên sự nổi loạn của dân chúng, đem lại hòa bình cho Khâm Châu v.v… đều do Sư khuyên nhủ một buổi mà giải quyết xong. Nếu chẳng phải là bậc thừa nguyện thị hiện giáng sanh cứu dân trong cơn nước lửa thì làm sao đạt được như thế? - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 7 Nếu luận theo Phật pháp, khi hiển đạt, cố nhiên nên làm cho người khác cùng được thiện, nhưng trong khi nghèo cùng vẫn có thể làm cho người khác được thiện. Nghiêm trì giới luật, đôn đốc luân thường, lấy thân làm gương để đốc thúc người khác, khiến cho hết thảy mọi loài đều nhìn theo bắt chước làm lành. Đợi khi cái tâm vui sướng hướng theo đã dấy lên rồi, bèn dạy cho họ biết sự lý “nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo, tâm vốn là Phật nhưng phải do nhân duyên niệm Phật vãng sanh thì mới đích thân chứng được”. Phàm những kẻ hữu tâm, không ai chẳng vui vẻ thuận theo.Vì thế các bậc cao tăng đời trước đi đến đâu cũng thường có nhiều người quy y, so với sự giáo hóa cai trị của nhà vua còn tạo lợi ích sâu đậm hơn. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 7 Cho nên biết một quyển kinh này [phẩm Nhập Cảnh Giới] chính là phần quy túc của toàn bộ kinh Hoa Nghiêm. Trong Hoa Nghiêm thế giới hải có vô lượng vô biên cõi Tịnh Độ, nhưng ắt phải lấy cầu sanh về Tây Phương làm hạnh để viên mãn Phật quả; đủ biết một pháp niệm Phật cầu sanh Tây Phương vốn bắt nguồn từ hội Hoa Nghiêm. Nhưng do phàm phu, Nhị Thừa chẳng dự hội này, không cách chi vâng nhận được, cho nên trong hội Phương Đẳng, đức Phật mới vì khắp hết thảy phàm phu, Nhị Thừa và các Bồ Tát, tuyên nói kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, kinh A Di Đà, khiến cho họ đều biết nhân hạnh quả đức của Phật Di Đà, sự trang nghiêm thù thắng của Tịnh Độ, sự tu nhân chứng quả của hành nhân, ngõ hầu hết thảy phàm phu đầy dẫy triền phược và hàng Nhị Thừa đã đoạn Kiến Hoặc, Tư Hoặc cùng với bậc Pháp Thân Đại Sĩ đã phá Vô Minh Hoặc đều cùng thoát khỏi cõi Ngũ Trược này, sanh lên chín phẩm sen trong cõi kia ngay trong đời này để tấn tu dần dần mãi cho đến khi viên mãn Bồ Đề mới thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 6 Xưa kia, lúc đức Như Lai mới thành Chánh Giác, đã cùng các vị đại Bồ Tát trong Hoa Tạng thế giới hải hỏi - đáp, nói ra các pháp nhân quả của Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác. Những vị dự hội đều là các vị Pháp Thân đại sĩ đã phá vô minh, chứng pháp tánh thuộc bốn mươi mốt địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác. Tuy nói đến pháp môn Thập Tín, nhưng địa vị Thập Tín chưa phá vô minh, chưa chứng pháp tánh, nên chẳng thể dự hội được, huống là phàm phu, Nhị Thừa ư? Cho đến hội cuối cùng, tức phẩm Nhập Pháp Giới, Thiện Tài sau khi viên mãn tâm Thập Tín, nghe lời ngài Văn Thù dạy, liền tham học với khắp các tri thức. Thoạt đầu, ở nơi tỳ-kheo Đức Vân nghe giảng pháp môn Niệm Phật liền chứng Sơ Trụ, trở thành Pháp Thân Đại Sĩ. Từ đấy tham học khắp các tri thức, ở chỗ vị nào cũng có sở chứng. Cuối cùng đến chỗ Phổ Hiền Bồ Tát, được ngài Phổ Hiền khai thị và được sức oai thần [của ngài Phổ Hiền] gia bị, sở chứng bằng với Phổ Hiền và bằng với chư Phật, trở thành Đẳng Giác Bồ Tát. Đức Phổ Hiền bèn nói kệ xưng tán công đức thù thắng nhiệm mầu của Như Lai, khuyến khích Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng cùng dùng công đức của mười đại nguyện vương để nhất trí tiến hành hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới nhằm mong viên mãn Phật Quả. Nhưng kinh Hoa Nghiêm trọn chẳng nói đến thệ nguyện của đức Di Đà và sự trang nghiêm trong Tịnh Độ, cũng như nhân quả vãng sanh, bởi lẽ các vị Đại Sĩ ấy đều đã biết rõ, không cần phải nhắc lại Nữa! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 6 Nêu lên những tông lớn trong các pháp do đức Như Lai đã giảng trong suốt một đời Ngài thì có năm tông là Luật, Giáo, Thiền, Mật và Tịnh. Năm tông này đều cùng hiển thị tam nghiệp thân - khẩu - ý, tam học Giới - Định -Huệ của đức Phật cũng như hết thảy tam-muội, vạn đức. Vì thế, chẳng thể đề cao hay hạ thấp, so sánh hơn - kém được, hoặc chọn lọc, lấy - bỏ được! Nhưng đối với sự tu tập của từng người học thì phải xét kỹ pháp nào khế hợp với căn tánh của chính mình để tu. Thâm nhập một môn so ra đỡ tốn sức hơn! Nhưng trong năm tông ấy, không tông nào chẳng lấy Luật làm căn bản, lấy Tịnh làm chỗ quy túc. Trong thời đức Phật tại thế đã như vậy, huống nay đang là thời đại Mạt Pháp ư? - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 6 Kinh này chính là cội nguồn của giáo pháp trong toàn bộ Đại Tạng, là chỗ quy túc của hết thảy pháp môn. Cư sĩ Vưu Dưỡng Hòa ở Tô Châu tuy xuất thân từ gia đình phú quý, nhưng trọn chẳng có tập khí của bọn mặc quần lụa nõn, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, nghiêm túc trọn hết đạo hiếu. Mẹ ông ta sợ con bị tập tục xoay chuyển, nên khi bị bệnh nặng sắp mất đã dặn con phải cung kính chép kinh Hoa Nghiêm để mong con được huân tập, tiêm nhiễm thành chủng tử, vĩnh viễn trở thành gốc đạo, đồng thời là để trên báo đáp Tứ Ân, dưới giúp cho Tam Hữu (Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới). Mẹ ông ta đáng gọi là “khéo dùng lòng Từ!” Trong thời kỳ cư tang, hằng ngày ông ta cẩn thận chép kinh để mong từ mẫu được tăng cao phẩm sen và tiêu trừ ác nghiệp của bản thân. Nếu chẳng phải là đã có thiện căn từ đời trước thì làm sao như thế được? - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 5 Hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ trí huệ của đức Như Lai, nhưng do vọng tưởng chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng, chấp trước thì Nhất Thiết Trí, Vô Sư Trí liền được hiện tiền”. Do nghe nghĩa này nên hết thảy phàm phu sẽ chẳng đến nỗi đề cao thánh cảnh, nhưng lại cam phận phàm ngu. Do vậy biết kinh [Hoa Nghiêm] này chính là pháp môn rốt ráo thành thủy thành chung để mười phương tam thế chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Bất luận căn tánh như thế nào đều phải nương theo đây để tu tập, nhưng chỗ thiết yếu nhất chỉ là một môn Niệm Phật. Ấy là vì “toàn thể tánh trở thành tu” nên bậc thượng thượng căn chẳng thể vượt khỏi khuôn khổ này. Do “toàn thể Sự chính là Lý” nên phường hạ hạ căn cũng có thể đạt tới được. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 5 Theo phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm, trọn hết các bậc Pháp Thân đại sĩ trong Hoa Nghiêm thế giới hải như Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, bốn mươi mốt địa vị đều nhất trí tiến hành, vâng theo lời Phổ Hiền Bồ Tát dạy, dùng công đức của mười đại nguyện vương cầu sanh Tây Phương nhằm mong viên mãn Phật quả. Những kẻ khoe khoang trí mình, miệt thị Tịnh Độ, tưởng chính mình vượt trỗi những vị Bồ Tát ấy, chính là mất trí điên cuồng, cầu thăng hóa đọa, biến khéo thành vụng! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 4 Tôi thường có một cặp câu đối như sau: Pháp môn quảng đại, phổ bị tam căn, nhân tư cửu giới đồng quy, thập phương cộng tán. Phật nguyện hồng thâm, bất di nhất vật, cố đắc thiên kinh tịnh xiển, vạn luận quân tuyên. (Pháp môn rộng lớn, độ khắp ba căn, do vậy chín giới cùng hướng về, mười phương chung khen ngợi, Phật nguyện to sâu, chẳng sót một ai, nên được ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận cùng tuyên nói). - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 4 Bởi lẽ, Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh tâm lực chẳng thể nghĩ bàn. Hai sức chẳng thể nghĩ bàn là Phật lực và pháp lực cùng hợp lại khiến cho tự tâm lực được hiển hiện trọn vẹn (loại tự lực này rất khác với loại tự lực chẳng cậy vào Phật lực và pháp lực), cho nên so với kẻ chuyên cậy vào tự lực sẽ giống như hằng hà sa số lần sự khác biệt vời vợi giữa trời và vực. Do vậy, biết: Chẳng thể đem đạo lý của hết thảy pháp môn thông thường để bàn luận pháp môn này được, bởi nó là pháp môn đặc biệt. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 4 Người tu pháp môn Tịnh Độ chỉ cần có đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, chí thành khẩn thiết, như con nhớ mẹ mà niệm, những hành vi trong thường nhật đều chẳng trái nghịch Phật pháp lẫn tình nghĩa thế gian thì lúc lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Dẫu là kẻ chưa đoạn được Hoặc nghiệp mảy may nào, hễ được đới nghiệp vãng sanh thì sở đắc của kẻ ấy còn cao trỗi hơn bậc A La Hán nghiệp tận tình không, vì chủng tánh bất đồng vậy! Huống hồ bậc đã đoạn [được Hoặc nghiệp] thì cần gì phải nói nữa! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 4 Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài được, như trời che khắp, dường đất chở đều. Trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra khỏi pháp này, dưới là tội nhân nghịch ác cũng có thể dự vào trong ấy. Thật đáng gọi là “pháp môn tổng trì của tam thế chư Phật, là đạo đặc biệt mầu nhiệm trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai”. Pháp môn này lớn lao, thâu nhiếp căn cơ rộng rãi, dùng sức ít mà đạt hiệu quả nhanh chóng, nhưng thường bị những kẻ hơi thông hiểu Tông - Giáo xem nhẹ, coi là pháp môn dành cho lũ ngu phu ngu phụ tu trì, chẳng biết sự lớn - nhỏ, khó - dễ giữa Phật lực và tự lực chẳng thể dùng ngôn ngữ, văn tự để hình dung được! Bởi lẽ, hết thảy các pháp môn đều phải nương vào sức Giới - Định - Huệ để tu tới địa vị “nghiệp tận, tình không” thì mới có phần liễu sanh tử. “Nghiệp tận, tình không” há nói dễ dàng ư? Đoạn Kiến Hoặc giống như cắt đứt dòng nước chảy xiết rộng bốn mươi dặm, huống là Tư Hoặc ư? Dẫu cho kiến địa cao sâu, hễ Phiền Hoặc chưa đoạn thì vẫn luân hồi y như cũ. Nếu thọ sanh lần nữa thì người lui sụt trong vạn kẻ có đến mười ngàn, người tăng tấn trong ức kẻ hiếm khi có tới ba bốn người! Tự lực chẳng đủ để nương tựa, dám khoe khoang trí mình, chẳng tùy thuận đạo thệ nguyện nhiếp thọ của Như Lai ư? - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 4 Hơn nữa, những lời đơn giản, rõ ràng như thế thật ra đã được tuyên dương bởi tướng lưỡi rộng dài của Như Lai, là đại pháp môn vô thượng viên đốn thành thủy thành chung để mười phương chư Phật phổ độ chúng sanh và chúng sanh trong chín giới viên thành Phật đạo. Vì thế, lấy từ ngữ Quảng Trường Thiệt (lưỡi rộng dài) làm tựa đề nhằm mong những ai chưa phát tâm hễ đọc đến sẽ liền phát tâm. Cố nhiên người đã nhập môn sẽ chẳng cần đến; nhưng cách thức cắn ăn hay mớm cho trẻ thơ thì người nuôi nấng trẻ thơ vẫn cần phải tìm hiểu, suy xét. Tuy chính mình chẳng cần đến, nhưng cũng không thể chẳng chuẩn bị cho người sơ cơ! - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 3 Pháp không có tướng nhất định, hễ hợp căn cơ thì là tốt đẹp. Cùng là một pháp nhất vị, nhưng đức Như Lai giảng nói bằng nhiều phương cách. Giống như cỗ ngon quý báu của bậc Đại Sĩ, nếu gặp được người trưởng thành liền dọn hết cả ra để họ được ăn no. Nếu gặp trẻ thơ, do chúng chẳng thể tự cắn nuốt được, ắt phải thay chúng cắn xé nhỏ ra, mớm cho chúng, ngõ hầu làm lợi cho thân tâm của chúng để chúng mau được trưởng thành. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 3 Nếu chẳng chí thành và chẳng trọn hết bổn phận thì sẽ được cảm ứng nhỏ nhoi, chứ không phải là lòng Từ của đức Phật chẳng trọn khắp, [nguyên nhân là] vì tâm chẳng tương ứng với Phật vậy! Đạo cảm ứng giống như gõ chuông. Gõ mạnh thì chuông kêu to, gõ nhẹ thì chuông kêu nhỏ. Trong đời thường có những kẻ do tiểu cảm mà được đại ứng chính là vì công đức tu trì trong đời trước cảm nên. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 2 Trí thức của con người không nhờ vào học vấn, lịch duyệt sẽ không thể nào khai thông được! Nhưng những cuộc đất thánh đạo tràng nơi danh sơn trong thiên hạ sẽ dễ gây xúc động, phát khởi chí hướng “mong thành thánh thành hiền” nơi con người nhất, có quan hệ đối với chuyện lập thân, tu nghiệp, thành đức, đạt tài cũng lớn lắm. Vì thế, xưa nay những người nhiệt tâm sẵn chí “tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha” thường chẳng ngại nhọc nhằn bươn bả tới thăm để mong những cảnh mình được trông thấy, những gì mình ngộ nhập sẽ bồi bổ thân tâm, mở mang, phát khởi trí thức của chính mình. - AQVS Tam Biên, quyển 3, phần Tự, thư 1 Sau này, phàm hễ có ai cầu xin soạn truyện ký, sẽ lấy cớ có lời thề không viết tiểu truyện cho ai để từ chối. Nếu không, kẻ ham danh ghét thật sẽ hằng ngày cầu xin viết tiểu truyện để mong khi chết đi được coi là cao tăng, tức là đã biến giả thành thật, khiến cho người ta đối với chuyện thật cũng chê là giả tạo, Phật pháp sẽ bị suy bại sát đất cũng đều do hạng người thông minh ấy gây nên! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 626 Ông cho rằng hàng bạch y làm thầy của tỳ-kheo-ni và giảng giải giới luật chắc sẽ trái nghịch với cấm chế của đức Phật; chỉ cần [vị cư sĩ ấy] chẳng coi mình là thầy mà giữ địa vị đồng học, cùng nhau nghiên cứu thì trọn chẳng bị trở ngại gì! Nhưng cần phải chú trọng thực hành, đừng chỉ chú trọng học tập văn tự. Văn tự chỉ là thứ dùng kèm thêm cho cái thân, còn đức hạnh mới là cái gốc của con người. Huống chi bọn họ đều chẳng phải đang trong lứa tuổi thơ ấu; nếu lấy [đường lối học tập] Quốc Học, Quốc Văn như Trúc cư sĩ đã lập để làm tông chỉ chủ yếu thì sẽ thành chương trình của một trường học [dạy chữ] thông thường, chứ không phải là căn bản của một học viện nhằm huấn luyện tu Trì. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 626 Kinh Phật, chú giải và các trước thuật của cổ nhân đều là văn chương. Hãy nên dạy cho họ suy gẫm tường tận ý nghĩa của từng lời lẽ, từng lời hỏi - đáp giữa chủ và khách cũng như ý nghĩa cùng tột thì suốt ngày xem kinh sách chính là suốt ngày tập tành văn chương! Trước kia, pháp sư Nguyệt Hà giảng kinh Hoa Nghiêm, lại thỉnh một vị lão nho dạy Quốc Văn, lại thỉnh một vị chuyên giảng nói văn chương để giảng nghĩa chữ. Quang nghe chuyện, không nghĩ [pháp sư Nguyệt Hà] làm như vậy là đúng lắm, bởi lẽ kinh chẳng phải là văn chương hay sao? Chú giải chẳng phải là văn chương hay sao? Suốt ngày xem kinh đọc chú giải, chẳng đủ là phương pháp để tập luyện cách viết văn hay Sao? - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 626 Cách học ở nơi đây chớ nên dựa theo chương trình trong nhà trường, hãy nên dựa theo sự tu trì để truyền dạy. Thoạt đầu, hãy nên dạy học sinh đọc chánh văn của Tứ Thập Nhị Chương Kinh, Phật Di Giáo Kinh, Bát Đại Nhân Giác Kinh. Lại còn dùng những bản chú giải của Ngẫu Ích đại sư để giảng diễn. Tiếp đó, dạy họ đọc Tịnh Độ Ngũ Kinh để hiểu cặn kẽ nguyên do của môn Tịnh Độ thì sẽ dám đối trước mọi người khuyên tu Tịnh nghiệp, chẳng bị dao động mê hoặc bởi những giáo lý cao sâu huyền diệu của các tông khác. Tiếp đấy là học Phạm Võng Kinh, rồi nghiên cứu Tịnh Độ Thập Yếu và đọc Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Kẻ thông minh thì chẳng ngại gì xem nhiều sách của Tịnh tông, mà cũng chẳng cần đặc biệt vì cái tiếng tăm mở mang Quốc Học mà phải học văn chương. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 626 Cái hại của thuốc lá thơm còn quá thuốc lá Tây. Nước ta cùng quẫn quá nửa là vì lẽ này! Quang đã nghĩ sâu xa về những chất độc hại ấy, thường khuyên người khác đừng hút. Trong ấy có những chất độc như morphine, heroin v.v… nếu phụ nữ trẻ tuổi hút vào chắc chắn sẽ không sanh nở được! Điều này do một đệ tử quy y tên là Triệu Nguyệt Tu, tự Hằng Quang, đích thân nghe một nữ giáo viên ngoại quốc răn nhắc các nữ sinh. Xin hãy nói rộng rãi với mọi người thì công đức ấy sẽ giống như bảo toàn dòng dõi cho người ta vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 625 Trong Ngũ Giới chẳng nói đến chuyện hút thuốc là vì trong thời đức Phật chưa có nạn ấy. Thói nghiện ngập ấy bắt đầu thịnh hành từ cuối thời Minh. Tăng sĩ không tu hành chính là chủng tử địa ngục, nên những hành vi hạ lưu không gì chẳng trọn đủ! Huống chi ai nấy đều hút thì bọn họ còn có gì kiêng dè nữa ư? Ông đã biết bọn chúng là lũ bại hoại, sao còn hỏi [tại sao] không có giới ấy? Há có phải là trong hết thảy hành vi bọn chúng đều chẳng trái giới, chỉ phạm mỗi một giới này ư? - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 625 Quý hội hãy nên thông cáo khắp nhân dân trong vùng cùng niệm thánh hiệu “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, chứ không cần phải làm nhiều nghi thức [rườm rà], chỉ đem công đức niệm Bồ Tát để hồi hướng cho các vị linh hiển, thần thông trong chốn núi non được tăng trưởng oai phước, hồi hướng cho các cô hồn đều được vãng sanh Tây Phương, so ra sẽ hữu ích hơn! Ngay như tế lễ thần thánh cũng đừng dùng đồ huyết nhục. Chuyện gì cũng lấy thành kính làm gốc, chứ không phải là do nghi thức [trịnh trọng] cho đẹp mắt! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 624 Học Phật trong đời Mạt thì phải nên chú trọng nơi biết nhân quả và tu Tịnh Độ. Bởi lẽ, biết nhân quả thì chẳng dám dối mình, lừa người, làm chuyện thương thiên hại lý, tổn người lợi mình. Tu Tịnh Độ thì dẫu là phàm phu đầy dẫy triền phược vẫn có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Trong các pháp môn khác đều phải đoạn sạch phiền não rồi mới có thể liễu sanh thoát tử. Nếu không, dẫu cho đại triệt đại ngộ, có đại trí huệ, đại biện tài, biết được quá khứ, vị lai, muốn đi liền đi, muốn tới liền tới vẫn chẳng thể liễu được; huống là kẻ đầy dẫy phiền não ư? - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 624 Xét theo ý nghĩa thì nên xây dựng sơn môn (cửa chùa) theo lối Tam Quan, [hàm nghĩa] Tam Giải Thoát Môn, một cửa mà đủ ba nghĩa: 1) Không Giải Thoát môn. 2) Vô Tướng Giải Thoát môn. 3) Vô Nguyện Giải Thoát môn. Do ba môn giải thoát mà vào thẳng được điện báu Niết Bàn. Do Không nên Vô Tướng. Do Vô Tướng nên Vô Nguyện. Hiểu rõ bản thể của hết thảy các pháp chính là Không thì Không và Có đều chẳng thể gọi tên được, cho nên là Vô Tướng. Hễ Vô Tướng thì chẳng có tâm nguyện chấp Không lẫn chấp Có. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 624 Thanh Lương Sơn Chí có chép: Vào đời Tùy, ở Đại Châu, Triệu Lương Tướng giàu nứt đố đổ vách, sanh được hai đứa con, trưởng là Doanh, thứ là Mạnh. Doanh mạnh mẽ, còn Mạnh yếu đuối. Ông bố sắp chết, chia gia sản làm hai phần, Mạnh được phần hơn. Cha chết rồi, Doanh cướp sạch gia nghiệp của Mạnh, chỉ để lại cho Mạnh mảnh vườn và căn nhà. Mạnh phải làm thuê để kiếm sống. Không lâu sau Doanh chết đi, đầu thai làm con của Mạnh, có tên là Hoàn. Lại chẳng bao lâu sau, Mạnh chết, đầu thai vào nhà Doanh làm cháu nội của Doanh, tên là Tiên. Hoàn làm đầy tớ trong nhà Doanh. Tiên muốn triều bái Ngũ Đài, sai Hoàn theo hầu. Hoàn biết bác mình cướp sạch tài sản, tính muốn giết Tiên, nay may mắn được dịp thuận tiện; đến chỗ vắng vẻ ở Ngũ Đài, rút con dao đã ngầm giấu, bảo Tiên: “Ông nội mày cướp gia nghiệp của tao khiến cho đời tao khốn cùng. Nay tao giết mày để vơi hận!” Tiên chạy lẹ, Hoàn đuổi theo, chạy vào một am tranh. Một vị lão tăng ngăn lại bảo: “Không được hành hung ở chỗ này!” Hoàn nói: “Tôi giết kẻ oán mà thôi!” Vị lão tăng mời ngồi, đưa cho mỗi người một chén trà để uống, [uống xong] liền biết chuyện đời trước, đều cùng khóc òa lên, bèn xuất gia trong núi ấy. Nếu các nước đều thấy chuyện đời trước, đời sau, há vẫn cứ chuyên coi giết người là chánh sách trọng yếu để làm cho đất nước hùng mạnh nữa ư? - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 624 Hiện thời, các nước Tây Dương đang đánh nhau dữ dội, nếu chẳng mau kết thúc, chắc sẽ lan sang nước ta. Các nước trong ngoài mạnh - yếu khác nhau, nhưng đều bị tổn hại giống hệt như nhau; chứ chẳng phải là nước thua trận bị thiệt hại, còn nước thắng được lợi. Xét theo sự thực để luận thì người bị kẻ khác giết cố nhiên đáng thương, nhưng kẻ chuyên giết người càng đáng thương hơn! Đối với kẻ chỉ biết chuyện trước mắt thì kẻ thắng dường như được lợi, chứ nếu nhìn vào đời kế tiếp hay đời sau nữa thì kẻ giết người càng khổ sâu xa hơn người bị hắn giết gấp vạn lần! Tiếc rằng người đời đều chẳng biết [như vậy]! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 624 Tượng Phật [vẽ trên vải hay giấy] bị nhăn rút (xếp nếp) thì nên dùng bàn ủi [để ủi cho thẳng lại], phía dưới [bàn ủi] lót khăn trải bàn, còn tượng Phật thì đặt trên bàn [dưới tấm khăn trải bàn]. Một người dùng hai tay căng cho tượng thẳng thớm, người kia cầm bàn ủi để ủi. Vàn muôn phần chớ nên dùng khăn trải giường để lót! [Nếu không dùng khăn trải bàn thì] dùng những tờ giấy dài, trải mấy lớp cũng được. Hãy đốt bàn ủi bằng than sạch bỏ thêm hương. Nên chùi mặt bàn ủi cho sạch sẽ, đừng để bàn ủi quá nóng. Nóng quá sẽ làm tượng Phật bị hư hại, chỉ ủi cho thẳng mà thôi! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 624 Trong hiện thời, lòng người bại hoại đến cùng cực, đi lại bên ngoài dẫu không mắc họa cũng rất nguy hiểm. Nếu ông biết được ý này thì tâm niệm Phật sẽ tự thiết tha, tâm nghiên cứu giáo nghĩa sẽ tự nhạt bớt! Vì sao vậy? Vì trong khi hoạn nạn, chẳng thể nào gởi lòng nơi phương diện tri kiến, hiểu nghĩa được! Lại còn thường nên đem những điều này để răn nhắc con cái, con dâu, khiến cho bọn họ ai nấy đều niệm Phật và niệm Quán Âm mỗi ngày. Nếu cả nhà đều sanh lòng kiêng sợ, chí thành niệm Phật và niệm danh hiệu Quán Âm sẽ chẳng đến nỗi mắc họa. Nếu không, muốn vĩnh viễn không gặp tai họa quả thật rất khó thể đạt được! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 623 Niệm Phật nếu chẳng hôn trầm sẽ tán loạn, đấy chính là hiện tượng chứng tỏ cái tâm [niệm Phật] hời hợt, hờ hững cho xong việc! Nếu niệm Phật với cái tâm như bị té vào lửa nước, như đang gặp phải giặc cướp mong gấp được cứu giúp thì sẽ tự chẳng có căn bệnh ấy. Hãy nên sắp xếp thời gian, lúc nào sẽ nghiên cứu, lúc nào sẽ trì tụng. Khi nghiên cứu thì chẳng được vượt quá thời gian hạn định; vì nếu không, sẽ cảm thấy nghiên cứu thú vị, sẽ trở thành nghiên cứu suốt ngày, chẳng những gây trở ngại cho niệm Phật, mà còn sợ rằng do dụng tâm quá độ sẽ bị thương tổn. Đấy gọi là: “Ngược ngạo ghét dễ dàng, đơn giản, tìm cầu khó khăn, khéo quá hóa vụng”, thật đáng xót Thương! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 623 Người niệm Phật trước hết phải hiểu duyên do của pháp môn Tịnh Độ rồi mới đọc khắp các kinh luận thì [sẽ thấy rõ các kinh luận] đều nhằm nêu tỏ ý nghĩa Tịnh Độ, cũng như sẽ thiết tha tu hạnh Tịnh Độ. Nếu chẳng hiểu duyên do của pháp môn Tịnh Độ thì hễ nghiên cứu kinh giáo đến tột cùng sẽ nghĩ nghĩa lý của kinh giáo ấy là cao sâu, coi nghĩa lý Tịnh Độ là thiển cận, đến nỗi đảo ngược vị trí của Chánh Hạnh và Trợ Hạnh, hoặc vứt Tịnh Độ ra sau ót, chỉ gieo được ích lợi sẽ đắc độ trong đời vị lai, quyết khó thể liễu sanh thoát tử, góp mặt cùng các vị thượng thiện nhân ngay trong đời này! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 623 Kẻ biết tốt - xấu chớ nên phỏng theo chí nguyện của bậc hành Bồ Tát đạo đã liễu sanh tử, mà cần phải chắc chắn được vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này! Đã vãng sanh Tây Phương rồi mới học theo [chí nguyện những bậc hành Bồ Tát đạo đã liễu sanh tử] thì sẽ hữu ích. Nếu chưa vãng sanh mà đã bắt chước ngay thì sẽ giống như chén bát chưa nung, vừa gặp trận mưa sanh tử liền rã thành bùn đất! Trong cõi đời thường có những kẻ thích ăn to nói lớn, tự coi mình có thân phận giống như Phật, Bồ Tát, chỉ trở thành hạng tự lầm, lầm người mà thôi! Xin hai vị hãy suy nghĩ sâu xa! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 622 Theo như ông nói thì trong bốn mươi chín ngày niệm Phật trước kia đã có chút sở chứng, đấy chính là căn bản khiến cho đạo tâm bị lui sụt! Mới có đôi chút tương ứng và cảm ứng, há nên tưởng đấy là đã chứng ư? Được chút ít đã cho là đủ, rồi vì đó liền lười nhác, buông bỏ, kẻ sơ tâm thường hay như thế. Từ nay về sau, hãy nên thuần nhất cái tâm, càng có cảm ứng bèn càng cảm thấy thiếu sót thì sẽ tránh được căn bệnh ấy. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 621 Pháp môn Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào Phật lực nên dễ dàng. Nếu là kẻ có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, chí thành niệm Phật thì lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây Phương. Đã vãng sanh Tây Phương thì phiền não chẳng mong đoạn mà tự đoạn. Do tất cả cảnh giới trong Tây Phương đều khiến cho con người tăng trưởng công đức, trí huệ, trọn không có gì khiến cho con người khởi tham - sân - si. Vì thế, Long Thọ Bồ Tát xưng tụng là “đạo dễ hành”, Mã Minh Bồ Tát xưng tụng là “phương tiện tối thắng”; nhưng pháp này chẳng phải chỉ để độ phàm phu mà thật ra còn phổ độ hết thảy phàm - thánh. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 620 Người quy y Phật pháp tu trì Tịnh nghiệp ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Dùng những điều ấy để tự hành, lại còn dạy người, sao cho trong là cha mẹ, anh em trai, vợ chồng, con cái, chị em gái, chị em dâu, tôi trai, tớ gái, ngoài là xóm giềng, làng nước, thân thích, bằng hữu cùng với hết thảy những người quen biết hữu duyên đều dùng những điều này để khuyên lơn họ. Phàm muốn khuyên ai, chính mình ắt phải thực hành chuyện ấy thì người ta sẽ tự làm theo. Chuyện thế gian hay xuất thế gian không gì chẳng lấy thân làm gốc. Đấy gọi là “dùng lời lẽ để dạy sẽ bị tranh cãi, dùng thân để dạy thì người ta sẽ thuận theo”. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 620 Đã phát tâm quy y Tam Bảo, cố nhiên nên giữ trọn cả năm giới. Tuy Phật đại từ đại bi có lệ cho con người tùy ý thọ một, hai, ba, bốn giới, nhưng đấy là dành cho những người lâm vào tình thế có những chuyện chẳng thể giữ được, đừng nên viện cớ đó để rồi dễ duôi! Nói đến những chuyện khiến cho [người thọ giới] chẳng thể giữ được là như kẻ đồ tể chẳng thể giữ giới sát sanh, tửu bảo chẳng thể giữ giới không uống rượu v.v… - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 620 Trong Phật pháp, pháp môn vô lượng, không một pháp môn nào chẳng lấy Giới làm cơ sở, chẳng lấy Tịnh Độ là chỗ quy túc. Hai người các vị đã muốn quy y Tam Bảo thì hãy nên sốt sắng giữ tịnh giới của đức Phật. Người tại gia lấy Ngũ Giới làm căn bản. Bốn giới đầu trong Ngũ Giới, tức “giết, trộm, dâm, dối”, chính là Tánh Giới. Bất luận đã thọ giới hay không đều chớ nên phạm; nhưng kẻ chưa thọ giới mà phạm thì dựa theo sự để luận định tội lỗi. Kẻ thọ giới mà phạm thì ngoài việc dựa trên sự để luận tội ra, còn phạm thêm một tầng tội lỗi nữa, tức là phạm giới. Giới “không uống rượu” gọi là Giá Giới, nghĩa là đức Phật ngăn cấm, chẳng cho phép con người uống rượu! Kẻ chưa thọ giới mà uống sẽ không phạm lỗi, nhưng nếu uống rồi làm càn thì sẽ dựa theo chuyện kẻ ấy đã làm để luận tội. Vì thế, tuy chưa thọ giới cũng chớ nên uống. Nếu đã thọ giới mà uống thì chỉ mắc tội phạm giới. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 620 Cha ông đã được vãng sanh thì hãy nên khuyên mẹ ông cũng nên ăn chay trường. Dẫu ông và vợ con chưa thể ăn chay trường thì cũng nên bớt ăn [đồ mặn]. Cần biết rằng: Họa hại chiến tranh liên tiếp trong nhiều năm qua đều do mọi người sát sanh ăn thịt cảm thành. Trong nhà vĩnh viễn cấm ngặt sát sanh thì tự nhiên hết thảy mọi chuyện đều tốt lành. Trong đám tang, phàm cúng thần, đãi khách, đều chẳng dùng rượu thịt. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 619 Chết rồi hỏa thiêu là tốt nhất, chỉ có điều nếu mua cái chum [để thiêu] có hình tượng Di Lặc Bồ Tát thì quả thật là khinh nhờn. Hãy nên mua cái chum có hình hoa sen, đừng mua chum có khắc hình tượng Di Lặc Bồ Tát hay tượng Phật. Lại hãy nên nói điều này với hết thảy mọi người tin Phật. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 619 Qua thư ông và bài Sanh Tây Ký đã biết cặn kẽ; như thế thì [cha ông] chắc chắn sẽ được vãng sanh. Nhưng con người khi lâm chung, điều khẩn yếu nhất là quyến thuộc cả nhà phải trợ niệm sẵn cho [người sắp mất]. Nếu gia cảnh dư dả, hãy nên thỉnh Tăng - tục, liên hữu đến trợ niệm. Niệm đến sau khi tắt hơi vẫn không động chạm tới thân thể [của người đã mất]; cứ niệm Phật như thường cho tới ba tiếng đồng hồ sau thì mới lo liệu những chuyện như tắm rửa, thay quần áo v.v… Trợ niệm như thế nhất định [người đã mất] sẽ được vãng sanh. Chớ nên thường dùng tay thăm dò nóng - lạnh. Nếu thần thức của [người chết] chưa rời khỏi [thân xác], hễ bị tay [người khác] đụng vào chắc sẽ phát sanh sân niệm, sẽ làm hỏng chuyện chẳng nhỏ nhoi đâu! Quang nói điều này để mong lúc mẹ ông lâm chung chẳng đến nỗi bị lầm lẫn như thế. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 619 Đôi câu đối ghi trước bàn thờ Phật của Liên Trì đại sư. [Hai câu đối ấy] hay tuyệt, không chi hơn được nữa! Sao lại còn cậy tôi soạn câu đối làm gì? Tôi viết lại ở đây: Chủ Cực Lạc lục bát đại nguyện chi từ tôn, tuyệt hạn lượng thọ mạng quang minh, bất ly đương xứ. Quá Sa Bà vạn triệu Phật bang chi tịnh độ, diệu trang nghiêm lâu đài trì chiểu, nguyên thị ngô hương. (Đức Từ Tôn chủ cõi Cực Lạc bốn mươi tám đại nguyện, thọ mạng, quang minh không hạn lượng, chẳng rời chỗ này, Cõi Tịnh Độ vượt khỏi Sa Bà vạn triệu cõi nước Phật, lâu đài, ao chuôm đẹp trang nghiêm, đích thị quê ta). - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 618 Quy y Phật pháp thì chẳng thể lại quy y tà ma, ngoại đạo nữa! Ai nấy hãy nên trọn hết chức phận của chính mình, phải hiếu thuận với cha mẹ ruột và bố mẹ chồng, phải giúp chồng thành tựu đức hạnh, phải dạy dỗ con cái khiến chúng đều trở thành hiền nhân, thiện nhân. Phải ăn chay, phải niệm Phật cầu sanh Tây Phương, chớ nên cầu sanh lên trời hay sanh vào nhà phú quý. Chớ nên niệm Huyết Bồn Kinh, phá huyết hồ, trả tiền thọ sanh, gởi kho. Đấy là những chuyện ngụy tạo. Chớ nên học theo ngoại đạo luyện đan, vận khí. Nếu vẫn chiếu theo kẻ vô tri vô thức để làm như thế thì sẽ chẳng vãng sanh Tây Phương được đâu! Bởi lẽ đã nhất tâm làm một con quỷ giàu có, hoặc muốn thành tiên, sanh lên trời, làm sao hưởng lợi ích vãng sanh Tây Phương lớn lao cho được? - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 618 Năm Dân Quốc thứ chín (1920), ông Trang Uẩn Khoan ở Thường Châu đến chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà có làm một bài thơ. Quang đến phòng ông ta, ông ta liền đưa cho Quang, Quang đọc xong, cười khan, đặt suông bàn, chẳng cầm đi. Vì sao vậy? Cái mũ quá cao, muôn phần chẳng dám đội! Nhưng kẻ ham danh trong cõi đời vẫn cầu người khác chế mũ cao cho mình. Tâm tướng của Quang khác với bọn họ! Bọn họ cho là vinh, Quang thấy là nhục. Xin hãy đem lời này nói với khắp các đồng môn, hãy nhớ kỹ nhé! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 617 Từ nay về sau, hễ có ai nhắc đến văn tự của Quang thì chỉ nên chú trọng trích lục thẳng thừng, đừng đội xằng thêm cái mũ cao cho Quang. Trong ý ông, tưởng đó là vinh dự, chẳng biết: “Nếu chẳng phải là cái mũ của chính mình mà cứ đội bừa thì người khác sẽ cho là giả mạo, là mù quáng mạo danh”, nhục nhã lắm! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 617 Trong tờ thông cáo gởi xã viên, vàn muôn phần chớ nên sử dụng bốn chữ “Bồ Tát thị hiện”! Hễ sử dụng thì tội lỗi vô lượng, lại còn khiến cho người có đầy đủ con mắt sẽ bảo Ấn Quang và ông đều là phường cuồng vọng, dám xằng bậy xưng tụng gã phàm phu sát đất là Bồ Tát! Nếu điều này không mắc lỗi khơi gợi người khác tạo tội thì cũng còn có thể tiêu trừ được tội nghiệp cho ông và tôi. Nhưng kẻ vô tri trông thấy sẽ lấy đó làm lệ và hết thảy tăng - tục đều xưng là “Bồ Tát thị hiện” thì thứ tội lỗi lớn lao ấy sẽ do ông và tôi khởi suông, sẽ gây ra thói tệ không cùng tận. Hãy nên dùng mực bôi bốn chữ ấy đi, viết bên cạnh là “xét rõ thời cơ”, ngõ hầu đối với Sự lẫn Lý, đối với mình lẫn người đều chẳng gây trở ngại gì! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 617 Dương Ấm Hồng phát tâm hộ quốc, vãn hồi kiếp vận, nhưng chỉ dạy người khác kiêng giết, ăn chay, chẳng đề suông niệm Phật hay niệm danh hiệu Bồ Tát một câu nào; đủ biết đối với Phật pháp, ông ta vẫn chưa có đủ lòng chánh tín! Nếu thật sự biết Phật lực, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, đang trong lúc đại kiếp đối đầu này mà chỉ muốn dùng cái nguyện kiêng giết, ăn chay để tiêu trừ thì sở kiến sẽ giống như chỉ thấy được đầu mảy lông mùa Thu mà chẳng thấy được hòn Thái Sơn (quyết chẳng thể có lẽ ấy). - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 617 Hôm trước nhận được thư ông hỏi: “Làm thế nào để phân biệt được Tam Tôn Phật?” Thích Ca Phật kết Hàng Ma ấn, tức là tay trái đặt trong lòng, lưng bàn tay hướng suông dưới, lòng bàn tay ngửa lên trên, tay phải úp trên gối, lưng bàn tay hướng lên trên. Dược Sư Phật kết Đại Tam Muội ấn, tức bàn tay phải đặt trên lòng bàn tay trái, [hai tay] đặt ở trong lòng. Di Đà Phật kết Di Đà ấn, tức lòng bàn tay trái đặt trên lòng bàn tay phải, [hai tay] đặt ở trong lòng. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 616 Đến năm Quang Tự 31 (1905), do có việc đến chùa A Dục, lại nhìn lần nữa thì xá lợi lớn bằng hạt đậu đen, có màu sắc giống như hạt đậu đen nổi mốc trắng, dính chặt vào đáy chuông không lay động. Quang nghĩ [mình thấy xá-lợi] có sắc đen nổi mốc trắng, chắc là năm ấy mình sẽ phải chết, nhưng [rốt cuộc] cũng không có chuyện lành hay chuyện dữ gì. Đấy đều là những tướng thông thường do người bình phàm thường thấy được, chứ trọn chẳng phải là chuyện cảm ứng lạ lùng, đặc biệt gì! Có sao lục ra để in thì cũng chẳng có ích lợi gì đâu! Đừng nên lầm lạc bịa chuyện, biến chuyện không cảm ứng thành có cảm ứng thì tội lỗi chẳng cạn đấy! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 615 Hãy nên thường đọc Tịnh Độ Ngũ Kinh thì sẽ biết pháp môn Tịnh Độ là pháp môn tổng trì để mười phương tam thế hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. Đối với những điều tôi chưa nói, hãy đọc Tịnh Độ Thập Yếu thì mọi mối nghi sẽ tan tác, được cởi gỡ, vầng trăng nhất tâm rạng ngời. Tuy Văn Sao lời lẽ vụng về, chất phác, nhưng đã giảng rõ được đại lược nguyên do giữa Thiền và Tịnh, cũng như [Tịnh nghiệp], cho nên cũng có thể giúp cho tự lợi, lợi tha được. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 614 Pháp môn Tịnh Độ chỉ có bậc thượng thượng căn và ngu phu ngu phụ mới được hưởng lợi ích thật sự, còn kẻ thông minh thông Tông thông Giáo đa phần vì chí hướng to tát, lời lẽ lớn lối, chẳng chịu cậy vào Phật từ lực, cứ lấy “cậy vào đạo lực của chính mình” làm chí hướng sự nghiệp, cam phận nhường cho ngu phu ngu phụ sớm dự vào dòng thánh. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 614 Người thông minh phần nhiều lấy “hiểu lý, ngộ tâm” làm chí hướng, sự nghiệp, nhưng chẳng biết niệm Phật chính là đường tắt để “hiểu lý, ngộ tâm”. Nếu niệm niệm có thể tương ứng thì sẽ tự “hiểu lý, ngộ tâm”. Dẫu chưa làm được, nhưng cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương; so với những kẻ “hiểu lý, ngộ tâm”, nhưng chưa đoạn Phiền Hoặc, vẫn bị luân hồi trong sanh tử trọn chẳng có lúc thoát ra, thì [sự cách biệt] giữa trời và đất đã chẳng đủ để ví dụ cho sự bế tắc và hanh thông [giữa hai đường lối tu tập] vậy! Huống hồ sau khi vãng sanh sẽ thân cận đức Di Đà và thánh chúng, sẽ liền đích thân chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn, há nào phải chỉ có “hiểu lý, ngộ tâm” mà thôi ư? - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 614 Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn bình thường nhất nhưng cao sâu nhất trong Phật pháp. Nếu không phải là người đã có huệ căn từ đời trước, quả thật khó thể sanh lòng chánh tín sâu xa. Đừng nói Nho sĩ chẳng dễ sanh lòng tin, ngay cả những vị tri thức thông Tông thông Giáo cũng thường đem những nghĩa thuộc bên Tông bên Giáo để luận định, phán đoán, đến nỗi chẳng những không chịu tu pháp “khiến cho kẻ phàm phu sát đất chưa đoạn Phiền Hoặc liền có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ngay trong đời hiện tại” chẳng thể nghĩ bàn này mà còn chẳng chịu dạy cho người khác. Ấy là vì họ chẳng biết pháp này chính là pháp môn đặc biệt trong Phật pháp. Bọn họ lấy những nghĩa bên Tông bên Giáo làm chuẩn nên mới phạm phải sai lầm ấy! Nếu ngay từ đầu bọn họ đã biết được nghĩa này thì sẽ được lợi ích lớn lao. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 614 Quang sanh ra vốn là kẻ ngu ngốc, vụng về, nhất loạt chẳng dự vào những chuyện kết xã lập hội. Do vì không phụ họa nên bèn oan uổng bị bọn họ vu báng, gán cho cái danh hiệu đẹp đẽ là “đệ nhất ma vương”, còn ngài Đế Nhàn là đệ nhị, Phạm Cổ Nông là đệ tam. [Những lời vu báng ấy] do Mã Nhất Phù là gã tội phạm đầu sỏ phá hoại Phật pháp đệ nhất, truyền đơn của hắn dài đến ba ngàn mấy chữ, chắc là ông đã sớm từng đọc qua rồi! Quang một là không có môn đình, hai là không quyến thuộc, ba là không làm một chuyện gì. Dẫu bị gieo lời vu báng lệch trời, cũng chẳng được - mất gì, mà còn nhờ vào đó sẽ tiêu được tội nghiệp, tăng trưởng thiện căn. Chẳng những không bị phá hoại mà còn được hưởng lợi ích. Nhưng những vị như Đế Nhàn, Cổ Nông là các bậc hoằng pháp hiện thời, kẻ chẳng biết đạo lý vừa trông thấy những thứ ngôn luận ấy, sẽ tưởng là chân thật rồi lui sụt lòng tin, tăng các khẩu nghiệp thì đúng là đáng thương đến cùng cực! Do vậy, hễ trông thấy truyền đơn, bài viết trên báo chí, chớ nên vừa đọc liền tưởng là thật rồi viết vào sách đến nỗi xoay vần truyền bá khiến cho cả mình lẫn người đều bị tổn hại. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 612 Bọn chúng [những gã vô lại tiểu nhân] đã thỏa lòng ham muốn [hủy hoại danh dự của người khác], còn những vị chánh nhân quân tử nhận phải những tờ truyền đơn hay đọc những tờ báo ấy cố nhiên hiểu rõ mười mươi gan ruột bọn chúng; nhưng đối với những kẻ phàm tục sẽ do một người lan truyền dối trá, qua tay một vạn người lan truyền thì lời đồn đãi sẽ được coi như sự thật! Chẳng riêng gì những người chân chánh trong thế gian bị coi như kẻ hết sức tầm thường, kém hèn, ngay cả những vị thánh hiền lỗi lạc thời cổ cũng bị coi như những kẻ hết sức tầm thường, kém cỏi. Do vậy mới có thuyết đề suông Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Khởi Tín Luận v.v… là ngụy tạo. Nếu chẳng xét đúng - sai, chỉ nghĩ những gì mình được nghe đều là đúng thì kinh điển của thánh hiền trong Tam Giáo sẽ đều phải giao cho ngọn lửa hết! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 612 Hiện thời, thế đạo nhân tâm chìm đắm đến cùng cực, nhưng bưu điện thông tin thuận tiện, một ngày đi được ngàn dặm. Thường có những gã vô lại tiểu nhân, nếu có hiềm khích với ai liền bịa đặt rêu rao, gởi truyền đơn khắp nơi và đăng trên báo chí, chỉ muốn hủy hoại danh dự của người khác, chẳng bận tâm chính mình bị tổn phước, giảm thọ, và tương lai sẽ đọa lạc trong tam đồ, hứng chịu các nỗi khổ cùng cực! Đáng thương xót quá! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 612 Ông phát nguyện lập trường học nơi đất trống, lập liên xã nơi đất trống, cố nhiên là đỡ tốn công, nhưng vẫn là chẳng biết tùy địa phương, tùy duyên để tạo phương tiện cho dễ thực hiện. Trên là nơi thanh miếu, minh đường, dưới là bến nước, bên cội cây, hễ gặp được ai có thể trò chuyện liền dùng những chuyện này để khuyên nhủ. Văn Lộ Công phát nguyện “sẽ khiến cho mười vạn người niệm Phật cầu sanh Tây Phương” bèn kết Liên Xã. Tôi cho rằng: “Từ một người cho đến vô lượng người đều nên làm cho họ vãng sanh Tây Phương trong đời này, há nên lấy mười vạn người làm hạn định?” - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 611 Nếu gặp hết thảy mọi người, chỉ nên dạy họ ai nấy trọn hết luân thường, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, phóng sanh, ăn chay, niệm Phật thì [các tai nạn] sẽ biến mất không còn dấu vết. Do đôi bên chẳng bị trở ngại chức trách, công việc, chẳng hao tốn tiền tài, có lẽ người ta sẽ dễ tiếp nhận sự giáo hóa mà mình cũng nhẹ phần gánh vác, Phật pháp càng dễ lưu hành phổ biến hơn! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 611 Trước kia, ông Nữu Nguyên Bá cho biết tại Giang Tây nước ngập ba mươi mấy huyện, đem sổ vàng cứu trợ gởi cho Quang, mong Quang khuyên người khác quyên mộ. Quang chỉ đành tự quyên tặng khoản tiền một trăm đồng cho trọn hết lòng tôi, quý hội cũng giúp đỡ một trăm đồng. Do Quang vốn chẳng có tiền của tích cóp, đấy vẫn là khoản tiền tính dùng để góp phần in Đại Sĩ Tụng nhằm mong sao các trưởng quan thống lãnh binh lính biết “người cùng nhà đánh nhau sẽ là tự chặt tay chân và giết hại thân mạng của chính mình”, từ đấy buông suông cái tâm tàn độc tranh giành, kèn cựa, phát khởi ý niệm nhân từ “chung sống hòa bình” thì nước nhà may mắn lắm thay, nhân dân may mắn lắm thay! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 610 [Để yên thi thể cụ] ba ngày [rồi mới chuẩn bị] nhập liệm, rồi mới tắm rửa, thay quần áo [cho cụ], hết sức đúng! Bởi lẽ, tôi một mực nói [đừng động đến thân thể người đã khuất] trong hai ba tiếng đồng hồ là vì kẻ chẳng hiểu chuyện sẽ chẳng chịu chờ đợi lâu đến như thế! Nếu đúng ra, theo đúng lý, nên đổi thành ba ngày, rồi mới “cử ai” (cất tiếng khóc), tắm rửa, thay áo. Đến bốn mươi chín ngày mới “cử ai” thì về Lý không bị trở ngại gì, nhưng xét về mặt Sự thì dường như quá sức lợt lạt, chẳng đáng để noi theo. Ba ngày sau sẽ “cử ai” quả thật là thích đáng đến cùng cực. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 610 Nhận được thư, biết đích xác chuyện lệnh từ nắm chặt xâu chuỗi [sau khi đã mất], quả thật là chẳng thể nghĩ bàn. Sở dĩ tôi phải hỏi cặn kẽ chuyện ấy là do người đời nay hay giả dối, toàn là bỗng dưng bịa chuyện. Quang chỉ muốn truyền thuật sự thực, chẳng muốn nói cho dễ nghe đến nỗi đem phàm lạm thánh! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 610 Dương Thúc Cát đến đây cho biết nỗi khổ của dân đất Tần (Thiểm Tây) chẳng khác gì ở trong địa ngục cho mấy! Đang trong lúc kiếp trược đời loạn này, cố nhiên hãy nên đề suông nhân quả báo ứng và pháp môn Tịnh Độ thì mới có ích lợi thật sự. Những kẻ ham cao chuộng xa sợ rằng hễ đề suông [như vậy] thì tiếng tăm, giá trị sẽ bị hủy hoại! Vì thế, thà mặc kệ kẻ khác chẳng hiểu, chứ quyết chẳng chịu hạ thấp môn phong của ta. Thử hỏi: Đối với những vật bên ngoài dùng để điều hòa nuôi dưỡng thân tâm, tánh mạng, há bọn họ có thể cố chấp một lối, chẳng cầu biến - thông hay không? Mùa Hạ mặc áo mỏng, mùa Đông mặc áo cừu, khát uống, đói ăn. Trong suốt một ngày, ắt vẫn phải cầu sao cho thích nghi, nhưng trong trí bọn họ đối với chuyện hoằng pháp lại ngược ngạo chẳng tính kế sách [ổn thỏa] giống như nuôi nấng cái thân, há có đáng gọi là “thật sự muốn tạo lợi ích cho người khác” hay sao? - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 609 Năm Dân Quốc thứ sáu (1917), Ưng Đức Hoằng gởi thư cho Quang, trên tờ thư phỏng theo kiểu chữ viết thiếp đời Tấn. Khi viết tới hai chữ Di Lặc, lại vẽ thành hình đức Di Lặc; Quang lập tức quở là sai trái. Người đời nay thích lập dị, nếu chẳng biết kiểm điểm, sẽ tràn lan, hỗn loạn, không còn khuôn phép gì nữa! Con trai Vưu Tích Âm là Hóa Nhất có tín tâm tột bậc, có hành trì, nhưng lại vẽ hình A Di Đà Phật đủ mọi kiểu cọ. Tích Âm đã dọ giá, muốn đem khắc in. [Con trai thứ của Vưu Tích Âm là] Hóa Tam đến núi gặp Quang [thưa trình], Quang cực lực quở trách lỗi ấy mới thôi. Xin hãy xét tường tận! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 608 Chớ nên dùng chữ “A Di Đà Phật” ở cuối thư. Ba năm trước, Phạm Cổ Nông dùng [chữ A Di Đà Phật viết theo lối] triện văn của sư Hoằng Nhất để in theo lối Câu Ấn. Quang biết được, cực lực quở trách ông ta khinh nhờn, do vậy Cổ Nông mới ngừng in. Hãy nên in những ngôn từ có tác dụng cảnh tỉnh, răn nhắc người đời [mạnh mẽ] nhất thì sẽ hữu ích, không phạm lỗi. Nếu in danh hiệu Phật rồi viết bừa bãi trên đó, xét về lý sẽ chẳng thích đáng! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 608 Câu chữ trong Vãng Sanh Chú là do ông Vương Long Thư dựa theo bản chép trong Đại Tạng để chấm câu. Tiền nhân cho rằng chú văn ghi trong Đại Tạng rời rạc (ý nói: Cách chấm câu thiếu mạch lạc, không hợp lý), chẳng thể dựa theo cách chấm câu ấy được, cứ chiếu theo bản đang được lưu thông là đúng. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 608 Điều quý nhất nơi người học Phật là phải đối trị tập khí, sửa lỗi, hướng lành. Nếu không có chuyện gì bận bịu thì dốc hết sức học Phật; nếu có chuyện gì bèn gác bỏ học Phật thì sẽ trở thành kẻ mang cái danh suông, chẳng có mảy may ích lợi thật sự nào! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 608 Hiện thời, trời đang chuyển sang vận khí tốt đẹp, con người vui vẻ, mùa màng sung túc, nghĩ tưởng năm mới đã đến, [chúc ông] mọi duyên như ý, đứng ngồi hưởng phước, Chí Thường và các cháu đều cát tường, yên vui, khôn ngăn vui mừng, an ủi. Viết thư này để mong ông được an vui thuận lợi và chúc mừng năm mới, mong sao cả nhà đều yên vui. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 607 Ông đã biết “hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai”, thì tất cả quyến thuộc chánh phụ (gần xa) trong nhà đều nên vĩnh viễn thôi ăn mặn, đấy mới là thật sự tu hành. Nhà Nho trong cõi đời do thói quen cố kết coi ăn thịt là lẽ đương nhiên, trọn chẳng nghĩ đến nỗi đau khổ khi những con vật bị giết hại; huống là bàn đến chuyện quá khứ và vị lai ư? Buồn thay! Đời này chẳng độ được thân này thì đến đời nào mới độ được? - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 607 Nếu cụ có chứng đắc sau khi vãng sanh thì chẳng thể coi đó là sở chứng trong khi cụ còn sống ở phương này. Vì thế, đối với chuyện ở phương này hay chuyện sau khi đã sanh sang cõi kia, đều phải dựa theo nơi chốn mà phân chia rạch ròi thì mới chẳng trái nghịch cấm chế của đức Phật. Nhưng cụ đã tu hành tốt đẹp thì cũng chỉ nên tùy ý lưu truyền, nhưng chớ nên nghĩ làm như vậy là đúng, khiến cho những kẻ có tâm đều bắt chước làm theo. Quang chẳng thể không nói rõ điều này! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 607 Chẳng biết tháp của lệnh từ được xây theo cách thức như thế nào. Theo chế định của Phật, Luân Vương (Chuyển Luân Thánh Vương) mới được xây tháp nhưng không có tầng cấp. Đối với bậc xuất gia chứng Sơ, Nhị, Tam, Tứ Quả thì tùy theo quả vị của họ đã chứng để phân định [được phép xây] bao nhiêu tầng cấp. Nếu là phàm phu, chớ nên xây tháp! Trong thời gần đây, các Tăng đều xây tháp, nhưng chỉ có hình dáng chứ không phân tầng cấp thì vẫn còn chấp nhận được; chưa hề nghe nói xây tháp cho người tại gia! Các đệ tử của ông Dương Nhân Sơn xây tháp cho thầy, cách thức gần giống như tháp Phật, chẳng đáng để bắt chước theo; nhưng do ông ta có công lưu thông, hoằng dương Phật pháp, nên các đệ tử tôn xưng quá mức. Lệnh từ tuy suốt đời thanh tu, lâm chung chánh niệm vãng sanh, nhưng sở chứng của cụ chưa biết ra sao! Ở phương này (cõi Sa Bà), quyết chớ nên mạo xưng là thánh nhân. Hễ nghĩ như vậy tức là đã “đem phàm lạm Thánh”. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 607 Chữ Huân (葷) vốn chỉ những thứ hành, hẹ, kiệu, tỏi, cho nên viết bằng bộ Thảo. Kinh Phạm Võng giảng rõ Ngũ Tân (năm thứ cay nồng) là Đại Toán Thông (tức hẹ), Từ Thông (hành), Lan Thông (chính là kiệu), Huân Vật (tỏi). Phương này (Trung Hoa) chỉ có bốn thứ ấy, ở Tây Vực có thêm Hưng Cừ (củ nén) nên gọi là Ngũ Tân, cũng gọi là Ngũ Huân. Cũng có ngoại đạo coi Nguyên Tuy (Cilantro) là Huân (rau có mùi tanh hôi), lại có phái ngoại đạo coi Hồng La Bồ (củ giền) là Huân, đều là bịa đặt! Năm thứ Huân này vốn thuộc thảo mộc, nhưng do có mùi hôi dơ nên không được ăn. Ăn vào thì tụng kinh niệm Phật đều không được hưởng lợi ích lớn lao. Huống chi thịt là thứ lấy từ thân thể chúng sanh, [con vật] đang sống sởn sơ bèn giết đi để mong thỏa thích cái miệng. Người đời quen thói chẳng thấy đó là chuyện kỳ quái, hễ nghĩ tưởng thì [sẽ thấy] đúng là vô lý đến cùng cực, đáng sợ thay! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 606 Theo Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (quyển tám) thì năm thứ hôi nồng này, tuy là thảo mộc, nhưng ăn chín sẽ khiến lòng dâm nẩy sanh, ăn sống sẽ khiến cho người thích ăn hay nóng giận. Hơn nữa, thiên tiên mười phương không thích mùi hôi hám của năm loại này nên thường tránh xa, các loài ngạ quỷ lại đặc biệt ưa thích nên thường đến liếm môi mép của người ăn. Do quỷ thường lui tới nên phước đức của người ăn bị tiêu giảm. Đại lực quỷ vương thừa cơ hiện thân Phật dối gạt thuyết pháp, dạy người ăn Ngũ Tân phạm giới, khen ngợi dâm - nộ - si, khiến cho kẻ ấy mạng chung sẽ làm quyến thuộc của ma, vĩnh viễn đọa trong địa ngục Vô Gián. Vì thế, người cầu Bồ Đề phải đoạn dứt Ngũ Tân. Tuy Ngũ Tân bị cấm ăn, nhưng trong trường hợp bị bệnh phải ăn để trị bệnh thì đức Phật cũng đặc biệt hứa khả. Theo Kinh Yếu Tập quyển 20 dẫn các bộ luật Tăng Kỳ, Thập Tụng Luật, Ngũ Phần Luật v.v… nếu tỳ-kheo bị bệnh đành phải ăn Ngũ Tân thì trong bảy ngày phải ở riêng trong một phòng nhỏ, không được nằm trên giường đệm của Tăng, không được ở lẫn lộn với Tăng chúng, không được lên giảng đường, nhiễu tháp Phật, hoặc vào Tăng Đường, phải ngồi dưới chiều gió nếu có chuyện cần thiết phải họp mặt với Tăng chúng. Sau bảy ngày phải tắm gội súc rửa sạch sẽ, dùng hương xông áo khử mùi hôi hám rồi mới được nhập chúng. -Chú thích 119 trong - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 606 Tịch Viên Liên Xã ắt phải thanh tịnh, thơm sạch. Chủ nhân ắt phải cung kính, chí thành, chớ nên ngạo mạn đối với người khác, cũng chớ đừng phô phang tỏ vẻ mình là người có đức hạnh. Phàm có ai đến đều phải đối đãi ôn hòa, cung kính, khiêm tốn (Xét trong hiện thời, các hội Phật giáo các nơi hễ có quy mô hơi lớn thì thường phạm phải thói xấu là ngạo mạn đối với người khác. Đọc đến đây hãy nên đau đáu răn dè. Hãy chớ nên phân biệt sang - hèn, khiến cho khắp mọi người cùng được thấm nhuần pháp vị, gieo thiện căn). Còn như khi chưa niệm Phật và lúc đã niệm Phật xong, nhất loạt chẳng cho [những người đến niệm Phật] bàn tán chuyện trong gia đình. Nếu có những nghĩa trọng yếu có thể bàn luận được thì hãy bàn. Nếu không, ai về nhà nấy. Kẻ nào tuổi quá nhỏ thì chỉ nên niệm trong nhà của chính mình. Nếu thường đến mà ở gần thì còn được, chứ như đường xa sợ sẽ có chuyện xảy ra ngoài ý muốn, chẳng thể không cẩn thận! Nơi đây bất quá là chỗ để đề suông [tu Tịnh nghiệp] trong địa phương mà thôi, vẫn phải chú trọng chuyên niệm Phật tại gia. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 605 Pháp môn Niệm Phật lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông, lấy Bồ Đề tâm làm căn bản. Do bởi thật nghĩa “tâm này là Phật, tâm này làm Phật, nhân trùm biển quả, quả thấu nguồn nhân”, [cho nên] dùng “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” làm công phu thực hiện tối thiết yếu. Dùng điều ấy để hành, lại còn Tứ Hoằng Thệ Nguyện thường chẳng rời tâm thì tâm hợp với Phật, tâm hợp với đạo. Lúc đang còn sống sẽ dự vào bậc thánh, lâm chung lên thẳng Thượng Phẩm, ngõ hầu chẳng phụ cuộc sống này. Phải thường nên giảng nói với Chí Thường [những điều vừa nói trên đây] khiến cho tập khí nữ nhi hẹp hòi, hèn kém của cô ta biến thành chánh trí Bồ Đề thì công đức lớn lao lắm. Người tu Tịnh nghiệp ắt phải khuyên khắp người đời cùng tu Tịnh nghiệp, “làm gương cho vợ mình rồi đến anh em, cho đến khắp đất nước” cho nên chẳng khác gì sự giáo hóa của các vị vua. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 605 Thế đạo hiện thời chính là thế đạo hoạn nạn. Tuy nói “niệm Phật diệt được túc nghiệp”, nhưng cần phải sanh lòng hổ thẹn lớn lao, sanh lòng kinh sợ lớn lao, chuyển cái tâm “tổn người lợi mình” của chúng sanh thành “hành hạnh Bồ Tát lợi khắp các chúng sanh” thì dù là túc nghiệp (nghiệp trong quá khứ) hay hiện nghiệp (nghiệp hiện tại) đều bị quang minh của Phật hiệu trong cái tâm đại Bồ Đề ấy tiêu diệt sạch sành sanh. Nếu đời trước và xưa kia từng tạo nghiệp lớn, nay tuy đã thôi làm ác, nhưng chưa thể tận lực tu các điều lành và chỉ niệm Phật hời hợt, hờ hững thì công chẳng cự được lỗi, cho nên khó tránh vướng phải ác báo ấy được! Chẳng phải là niệm Phật uổng công, mà là vì chưa phát Bồ Đề tâm, nhưng ác nghiệp lại đặc biệt rộng lớn nên [công đức niệm Phật] chẳng thể che lấp [ác nghiệp] được! Nếu có thể phát đại Bồ Đề tâm thì sẽ như mặt trời rực rỡ giữa hư không, sương móc tan ngay lập tức. Người đời phần nhiều nửa đời làm ác, rồi sau này mới cải hối. Do chưa thể hoàn toàn không có ác báo, bèn bảo: “Phật pháp chẳng linh, tu trì vô ích!” - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 605 Dẫu lúc bình thường là kẻ báng pháp thì [khi lâm chung] ắt cũng sẽ giống như té vào nước lửa cầu xin cứu vớt, rảnh đâu để sanh lòng nghi, khởi lòng báng bổ ư? Vãng Sanh Luận nói “kẻ báng pháp chắc chắn không được vãng sanh” vì đã báng chánh pháp thì sẽ không có lòng chánh tín, làm sao vãng sanh cho được? Đấy là lời lẽ nhằm cực lực khuyên con người phải phát lòng chánh tín. Nếu trước kia đã từng báng pháp, về sau biết cải hối thì sẽ được vãng sanh. Ví như lành bệnh liền trở thành người mạnh khỏe; kẻ quy hàng chính là người dân đã quy thuận. Nếu nói: “Kẻ báng pháp dù sau này có cải hối cũng chẳng được vãng sanh” là đã hoàn toàn hiểu sai chuẩn mực tu trì. Đối với Nho giáo còn chẳng hợp, huống hồ đức Phật thấy “hết thảy chúng sanh đều có đủ Phật Tánh, đều sẽ thành Phật” ư? Kinh Thư chép: “Chỉ vì thánh mất niệm mà thành cuồng; cuồng do khắc chế được ý niệm mà thành thánh”. Do vậy biết rằng Nho và Phật đều lấy sửa lỗi hướng lành để chăm chú mong thành thánh, thành hiền, đoạn Hoặc, chứng Chân. Người đời chẳng khéo hiểu ý này, chỉ chấp vào lời văn, tự sanh chướng ngại, chẳng đáng buồn ư? - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 604 trong bốn mươi tám nguyện, [có nguyện thứ mười tám là] “mười niệm xưng danh liền được vãng sanh, chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp”. Đấy là nói về lúc bình thường! Bởi lẽ, Ngũ Nghịch đại tội, báng pháp chẳng tin, thứ tội chướng ấy há có thể dùng sự tu trì hời hợt, hờ hững để tiêu diệt được ư? Theo Quán Kinh, kẻ Ngũ Nghịch Thập Ác lúc sắp mạng chung, tướng địa ngục hiện, có thiện tri thức (ở đây bất luận là Tăng hay tục, nam hay nữ, chỉ cần dạy người ấy niệm Phật thì cũng được gọi là “thiện tri thức”) dạy niệm Phật, hoặc chỉ niệm mười tiếng hoặc niệm chưa đến mười tiếng đã mạng chung, cũng sẽ được cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Mười niệm ấy so ra có khí thế dũng mãnh, thiết tha hơn hẳn mười niệm lúc bình thường một trời một vực. Do vậy bèn được vãng sanh. Do bị nỗi khổ cùng cực nơi địa ngục bức bách nên vừa được nghe danh hiệu Phật bèn dốc hết toàn bộ tinh thần xưng niệm. Trừ niệm ấy ra, trọn chẳng có niệm gì khác! Tuy chưa đích thân chứng được nhất tâm bất loạn, nhưng tâm đã rốt ráo chẳng còn có niệm nào khác! Đang trong lúc ấy, trọn chẳng có tam tâm, nhị ý, chẳng có tâm tướng tin tưởng - nghi ngờ xen lẫn! Vì thế, chẳng gọi là “báng pháp”. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 604 Tôi soạn được lời tựa gồm tám trăm lẻ sáu chữ, nhưng câu chữ vụng về, chất phác, không có vị đại thông gia nào đọc đến chẳng chê bai, phê bình! Nếu có thể dùng được thì xin hãy cậy người viết chữ đẹp chép lại cho trang trọng, rõ ràng, cũng nên thêm dấu chấm câu để tránh cho những người chữ nghĩa ít ỏi không đọc thành câu được. Nếu không đọc được thành câu, làm sao hiểu nghĩa? Vì thế, bất luận là thứ văn tự nào đều phải nên chấm câu. Khi Quang viết thư cho ai, ngay cả khi [người nhận] là bậc đại thông gia, vẫn một mực chấm câu vì chẳng muốn người khác phải tốn chút công suy nghĩ nào để hiểu những lời lẽ hủ bại của tôi! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 603 Nữ nhân lấy “tương phu giáo tử” (giúp chồng dạy con) làm thiên chức. “Tương” (相) là giúp. [“Tương phu giáo tử” là] giúp chồng thành tựu đức hạnh, khéo dạy bảo con cái, khiến cho bọn họ đều thành hiền nhân, thiện nhân. Đấy chính là chức phận của nữ giới. Nữ nhân hiện thời thường nuông chiều con cái quen thói kiêu căng, chẳng lấy đạo lý làm người và nhân quả báo ứng để răn dạy. Vì thế con cái phần nhiều khó thành người đàng hoàng. Do vậy, những kẻ đại thông minh mù quáng nhiễu loạn cõi đời và những phường giặc cướp làm càn làm quấy trọn khắp thế gian khiến cho nước không ra nước, dân chẳng thành dân, căn bản đều là do cha mẹ chúng nó chẳng biết trọn hết chức phận giáo huấn con cái của người làm cha mẹ mà ra, cho nên loạn lạc không có lúc nào yên. Nếu ai nấy đều khéo dạy dỗ con cái thì thế đạo sẽ tự nhiên thái bình. - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 602 ===================================== Muốn vãng sanh, ắt phải nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình, như cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, dựa theo chức phận của chính mình để trọn hết nghĩa vụ của chính mình. Lại còn đem pháp môn này khuyên bảo gia đình cha mẹ, anh em trai, chị em gái, vợ con và bằng hữu thân thích, xóm giềng, làng nước để hết thảy mọi người đều biết pháp này, đều tu pháp này, như vậy thì do cái công khuyên người ấy mà chính mình sẽ đạt được lợi ích càng sâu xa, lớn lao hơn! - AQVS Tam Biên, quyển 3, thư 602 Chương trình của Cực Lạc Đoàn nên chú trọng trợ niệm vào lúc người ta sắp mất và phải dạy người nhà [của người sắp mất ấy] nương theo pháp môn Tịnh Độ, chớ nên chiếu theo thông lệ của tục nhân vào lúc người ta sắp chết liền tắm rửa, thay quần áo sẵn v.v… [Làm như vậy] còn tệ hơn đã té giếng còn bị quăng đá! Cách thức ấy trong Văn Sao đã nói đầy đủ, ở đây tôi chỉ nêu điều quan trọng nhất. Nếu chết rồi thì những chuyện tống táng, ma chay v.v... đều chẳng phải là chuyện quan hệ khẩn yếu, đừng nên bày vẽ phô trương mong sao cho dễ coi, biến Phật sự thành trò đùa! - AQVS Tam Biên, quyển 2, thư 201_1 Khi đứa con gái thứ của ông Ta (Trương Chuyết Tiên) đi lấy chồng, nhà chàng rể biếu một cặp ngỗng để làm lễ Điện Nhạn, ông ta bèn đem chúng phóng sanh tại chùa Vân Thê trong núi Hoa Đình, đã được ba năm rồi. Cặp ngỗng của ông ta mỗi sáng tối khi [đại chúng] lên chánh điện tụng kinh, chúng đều đứng ngoài chánh điện, vươn cổ ngắm Phật. Tháng Tư năm nay, con trống chết trước, người ta cũng không để ý. Sau đấy, con ngỗng mái bỏ ăn mấy ngày. Nó đến nhìn Phật, thầy Duy Na khai thị, dạy nó cầu vãng sanh đừng luyến tiếc cõi đời. Thầy ấy bèn niệm Phật mấy chục tiếng, ngỗng bèn đi nhiễu ba vòng, vỗ hai cánh một cái rồi chết ngay. Do vậy, ông Chuyết Tiên bèn viết bài ký về sự vãng sanh của cặp ngỗng trắng. Ôi, lạ lùng thay! Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều kham làm Phật. Ngỗng còn như thế, há lẽ người chẳng bằng chim ư? -------------------------------------------------------------------------------------------- - AQVS Tam Biên, quyển 2, thư 201_2 ------------------------------------------------------------------------- Con người sống trong thế gian trước hết phải có tâm lợi người. Người dì góa, người em dâu góa, đứa cháu mồ côi v.v… của ông đáng thương, đáng xót, họ chính là chỗ ông để vun bồi ruộng phước, chớ nên giữ ý niệm phiền oán thì chính là hành Bồ Tát đạo! Nếu tâm có phiền oán thì chẳng những không hợp với Bồ Tát đạo, mà còn chẳng hợp với thiên chức, tánh phận của chính mình. Đối với chuyện chị em dâu bất hòa, hãy nên đối xử bằng [thái độ] hết sức công bằng, hết sức độ lượng, hãy thương họ thấy biết hẹp hòi mà chỉ dạy, để họ đều cùng được thấm nhuần pháp trạch; đấy chính là thực hành Phật pháp. Nếu coi đó là oán nghiệp, sẽ phải Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 11 of 746 tiếc đau, oán hận. Đối với chuyện không thể ngăn dứt được, hễ có lòng đau tiếc, oán hận thì công đức sẽ thuận theo tâm lượng mà nhỏ bé đi. - AQVS Tam Biên, quyển 2, thư 202_1 Trí Khánh đã quy y Phật pháp, bọn anh ta nhờ ông nuôi nấng, ông hãy trọn chớ nên tỏ ra vẻ [mình đã làm] chuyện nhân đức trước mặt bọn anh ta. Hễ làm ra vẻ nhân đức thì người ta tuy chịu ân, nhưng cái tâm cảm ân mỏng nhẹ lắm! “Có mà giống như không, thực mà giống như giả, vô cớ bị xúc phạm mà chẳng báo thù”9, đấy chính là bí quyết mầu nhiệm để cư xử trong gia đình đấy! Ta đãi người bằng thái độ khiêm tốn, ắt họ sẽ đối xử hòa hoãn với ta. Phần lớn những gia đình bất hòa đều là do so đo những chuyện nhỏ nhặt không quan trọng mà ra. Buông được cái tâm ta - người suông thì bất hòa sẽ tự hòa vậy! - AQVS Tam Biên, quyển 2, thư 202_2