Bà [góa] Nhân Hiển niệm tụng siêng ròng, chăm chỉ, lúc rảnh lên núi đẵn củi về bán để đổi lấy thưng thóc đấu gạo. Người trong làng đại đa số không nghe đến danh hiệu Phật, thấy Nhân Hiển tu trì như vậy đều thân cận. Có ai mắc bệnh thì Nhân Hiển bèn vì người ấy tụng kinh, cho thuốc (thuốc do cư sĩ Dư Kính Tây chế tạo gởi đến), liền có công hiệu lạ thường, trong mười trường hợp có tới tám chín người lành bệnh. Một ngày nọ sau khóa tụng buổi sáng, [bà Nhân Hiển] theo lệ thường lên núi đẵn củi. Củi đã bó chặt xong, đặt lên vai gánh đi, dõi mắt thấy ở phía trước chừng một trượng, trong đám lau lách có con vật gì to như con trâu, đúng lúc ấy có hai con lợn trong thôn chạy qua chỗ đất ấy, con vật đó liền chụp lấy một con lợn, ra vẻ sắp ăn thịt. Bà Nhân Hiển thấy vậy, liền lớn tiếng niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Nào ngờ con vật ấy buông con lợn ra, mặc cho nó trốn chạy. Con vật ấy hai mắt sáng quắc, chăm chú nhìn Nhân Hiển, Nhân Hiển nhìn kỹ mới biết là hổ. Lúc ấy, tuy niệm Phật không ngớt nhưng gần như niệm không ra tiếng, kinh hoảng luống cuống, chẳng giở chân lên được. Phía dưới núi mấy chục bước chân có nông dân đang cày ruộng, trong lúc hổ đến - đi những người nông dân ấy đều trông thấy, bà Nhân Hiển niệm Phật những người ấy cũng nghe rõ. Con lợn bỏ chạy về nhà, chạy đúng ngang qua khoảnh ruộng đó, máu tươi đầm đìa, những người nông dân đều kinh dị, đều bảo “con lợn ấy có thể đào thoát khỏi miệng hổ quả là một sự kỳ lạ lớn, nhưng người niệm Phật có thể gặp bất trắc!” Đương trong lúc phân vân suy tính, nghe tiếng niệm Phật đứt nối vẫn thoảng bên tai, ùa nhau lần theo tiếng niệm đi đến, thấy bà Nhân Hiển đứng ngây như con gà gỗ, nhưng vẫn niệm Phật như cũ. Mọi người ùa tới hỏi han, Nhân Hiển mới trở lại dáng vẻ bình thường, kể lể đầu đuôi, bỏ củi quay về. Do câu chuyện lạ gặp hổ niệm Phật giải thoát tai ách cho con lợn này, người dân làng Thạch Pha mới biết Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, người tin tưởng do vậy ngày càng đông đảo, đàn-na tín thí cũng chẳng thiếu người. Người bố thí đầu tiên chính là chủ nhân con lợn thoát miệng hổ. Con lợn ấy nay vẫn mập mạnh như thường. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - VII - thư 5. Lời bạt ghi sau bài ký về chuyện bà Phó Trâu Nhân Hiển niệm Phật cảm được cọp thả con lợn [mà nó đã bắt] Xét ra, ba vị cư sĩ [Tào - Bành - Tra] này đều quy y dưới tòa của Ấn lão nhân, giữ lễ đệ tử, đối với cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh không ai chẳng đồng thanh tán dương, nhưng hết thảy hành vi của hai vị Bành - Tra phần nhiều lấy hai vị lão nhân (tức tổ Ấn Quang và ông Hứa Chỉ Tịnh) làm khuôn mẫu để phỏng theo; nếu có chỗ nào sức không kham nổi thì cũng tự biết hổ thẹn, chẳng dám buông lung, do vậy kết quả cũng chẳng thua kém cho mấy! Tào cư sĩ xưng tụng ngoài miệng, có thực hành, nhưng không có gì tới nơi tới chốn, chỉ tự mình hành động, phần nhiều gần như là làm quấy quá, chứ thật ít khi thực hiện thật sự! Hơn nữa, hoàn toàn chẳng có công khóa nhất định để lễ bái, trì tụng đúng pháp, lại còn thuận theo tâm hạnh của chính mình, nên mang tiếng là niệm Phật nhưng kết quả cũng hoàn toàn chẳng có ảnh hưởng gì! Đủ chứng tỏ Phật pháp quý nơi thật hành, chứ không phải chỉ nói suông là có thể giải quyết xong việc. Công chẳng lãng phí, quả chẳng phí uổng. Sâm viết bài này để tự răn mà cũng để răn nhắc hết thảy những ai cùng bệnh vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - VII - thư 3. Người tu Tịnh nghiệp ăn chay niệm Phật trong xử sự thường nhật chuyện gì cũng phải rất phù hợp với Tịnh hạnh thì mới có thể vãng sanh Cư sĩ Tra Tân Thần, người huyện Cửu Giang tỉnh Giang Tây, năm Dân Quốc 24 (1935), làm nghề buôn bán, gia đạo cũng dư dả đôi chút, nhiệt tâm làm chuyện công ích, ưa làm lành, thích bố thí. Những chuyện từ thiện trong địa phương đều khảng khái giúp cho thành tựu, làm phó xã trưởng của Cửu Giang Liên Xã. Năm Dân Quốc 24 (1935), Sâm qua Cửu Giang vừa gặp mặt lần đầu liền được ông đặc biệt ưu đãi. Năm Dân Quốc 25 (1936), triều bái Phổ Đà, đến đất Tô, càng thêm quen biết đậm đà hơn. Mùa Xuân năm Dân Quốc 28 (1939), do tỵ nạn về sống tại Cám Châu, tuy phải lênh đênh trôi nổi, vẫn cứ nhất tâm thờ Phật, mấy lần gởi thư cho Sâm để bàn bạc chuyện trong pháp môn. Đến tháng Giêng năm Dân Quốc 29 (1940), chẳng may phi cơ oanh tạc Cám Thản, bom rớt xuống gần nơi [cư sĩ] cư ngụ, bị kinh hãi trúng phong, tiếp đó bị chứng bệnh viêm màng não cấp tính, qua đời vào giờ Thân ngày Hai Mươi Mốt tháng Hai. Do bình nhật tin tưởng Tịnh Độ sâu xa, thật sự có tu trì, lại thêm quyến thuộc cũng hơi biết về ý nghĩa quan trọng của sự giúp sức trong lúc lâm chung, nên tuy bị mất vì bệnh ngặt, tâm vẫn giữ được chánh niệm, trọn chẳng có hiện tượng hôn mê, vướng mắc, xưng niệm A Di Đà Phật liên tiếp, nhắm mắt, an nhiên qua đời. Dựa theo kinh giáo, người mất như vậy có khá đầy đủ tướng lành sanh về Tây, cũng là do chuyện gì cũng đều tuân theo quy củ đã định, phần nhiều phù hợp với Tịnh Độ mà cảm vời ra. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - VII - thư 3. Người tu Tịnh nghiệp ăn chay niệm Phật trong xử sự thường nhật chuyện gì cũng phải rất phù hợp với Tịnh hạnh thì mới có thể vãng sanh Cư sĩ Bành Thủ Chuyết người huyện Nam Xương, tỉnh Giang Tây, năm Dân Quốc 18 (1929), đặc biệt sang đất Hỗ chọn đầu bếp chuyên nấu món chay về Nam Xương trông coi tiệm đồ chay. Nhân đó, đến chùa Thái Bình lễ cụ Ấn nên mới bắt đầu quen biết Sâm. Về sau, ông lại trông coi Phật Kinh Lưu Thông Xứ tại chùa Hựu Dân. Do làm việc nghiêm túc, ông được các cư sĩ tín nhiệm, cho nên công việc cả hai nơi đều giao cho ông chăm sóc. Đối với chuyện trong pháp môn, ông luôn ủng hộ các vị Tăng - tục, cũng như dốc cạn tâm lực hộ trì đề xướng. Sâm phải lo chuyện tài sản nhà chùa ở vùng Nam Cám, được ông lập nhiều cách giúp đỡ, hưởng lợi ích cũng sâu đậm lắm. Nhưng vì ông đông con quá, trong nhà chẳng có của cải gì, duy trì sanh kế cho gia đình khá vất vả. Công khóa tự tu tuy chưa thể không gián đoạn, nhưng cũng chẳng chịu bỏ luống. Khi ngoài năm mươi tuổi, do lao lực chất chứa, thân suy nhược, đến nỗi thường đổ bệnh. Đến khoảng tháng Bảy năm Dân Quốc 27 (1938), biết trước lúc mất, đã định sẵn kỳ hạn với người nhà. Khi ấy, người nhà vây quanh trợ niệm Phật hiệu, cư sĩ cũng chánh niệm phân minh, an tường về Tây giữa tiếng niệm Phật của đại chúng. Do ông ta cung kính Tam Bảo, chuyện gì cũng học theo ông Hứa Chỉ Tịnh, nghe nói tướng lành lúc vãng sanh cũng gần giống như vậy (nhưng lúc nghe còn chưa ghi lại, nên vẫn còn nhiều chuyện chưa thể tường tận được). - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - VII - thư 3. Người tu Tịnh nghiệp ăn chay niệm Phật trong xử sự thường nhật chuyện gì cũng phải rất phù hợp với Tịnh hạnh thì mới có thể vãng sanh Thường ngày, [cư sĩ Tào Á Bá] do thân lẫn tâm đều mạnh mẽ, ông tự coi mình là anh hùng, mong có thể sống tới một trăm hai mươi tuổi! Hiềm rằng thuở thiếu niên chơi bời bừa bãi (chuyện này ông ta thường tự lớn tiếng nói cho người khác biết), trác táng quá độ nên đã trở thành bề ngoài mạnh mẽ nhưng bên trong thì khô héo; cho nên đến tuổi xế chiều cũng thường sanh bệnh. Mùa Thu năm Dân Quốc 26 (1937), bị bệnh thổ tả nhẹ, trị gần lành, vẫn gởi thư cho Sâm ước hẹn kỳ hạn đến đất Tô lễ bái, thân cận cụ Ấn, nhân đấy bày tỏ nỗi lòng. Nào ngờ tối hôm trước ngày đã định, cư sĩ mắc chứng dịch tả. Lần này những người bạn thân đã ước hẹn đồng hành đến mời cư sĩ lên đường, thấy ông ta đã sắp mất, chưa đầy một tiếng đồng hồ đã thiêm thiếp qua đời, thọ sáu mươi hai tuổi, chỉ được nửa số tuổi mong muốn, mất đúng vào giữa trưa ngày Hai Mươi Lăm tháng Tám. Hết thảy các sự thế gian lẫn xuất thế gian đã nói trước đây đều trở thành bánh vẽ. Đây chính là bằng chứng chắc như sắt về chuyện đùa bỡn nơi pháp môn, khó được lợi ích thật sự trong đời này! Người tu Tịnh nghiệp đối với hết thảy những chuyện chẳng tuân theo quy củ đã định phải thống thiết răn ngừa vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - VII - thư 3. Người tu Tịnh nghiệp ăn chay niệm Phật trong xử sự thường nhật chuyện gì cũng phải rất phù hợp với Tịnh hạnh thì mới có thể vãng sanh Luận về sự tin tưởng, tu trì thường ngày thì hết thảy mọi mặt [cư sĩ Lý Đinh Đức Hoằng] đều trội hơn Lưu cư sĩ, chỉ hận túc nghiệp ngăn chướng, nhân duyên khiếm khuyết! Mùa Hạ năm Dân Quốc 27 (1938), thấy Vũ Hán sắp lâm vào cảnh vây hãm, nguy ngập, bèn từ Hương Cảng đến tỵ nạn tạm thời tại đất Hỗ (Thượng Hải). Do giá nhà quá cao, thuê mướn chẳng dễ dàng, bèn ở tại khách sạn, vừa quá tốn kém vừa quá bất tiện. Cụ Chân Đạt chùa Thái Bình biết mẹ con bà tin Phật chân thật, thiết tha, trong lúc đại kiếp này lênh đênh không nơi nương tựa, quyến thuộc đìu hiu, thật đáng thương xót, nên trong chùa có lập một tịnh thất cho năm người già trẻ cùng sống. Đến đầu tháng Ba năm Dân Quốc 28 (1939), [Lý cư sĩ] đột nhiên mắc bệnh thương hàn, dây dưa tới tháng Tư thuốc men không công hiệu, bệnh tình ngày càng nặng thêm, trong chùa Phật sự bề bộn, phòng ốc lại ít, nếu chết tại chùa không cách chi xếp đặt ổn thỏa được, bất đắc dĩ phải đưa vào bệnh viện. Quy định của bệnh viện là phải theo quy cách Tây Phương, việc trợ niệm lúc lâm chung muôn phần khó thể thực hiện được. Nhập viện hai ba ngày, những người biết Phật pháp chẳng thể đến thăm được, cư sĩ bèn chết hồ đồ tại bệnh viện vào sáng ngày Mười Tám tháng Tư, thọ năm mươi tuổi. Người có tín tâm tu trì như thế nếu lâm chung được trợ niệm đúng pháp, sẽ hiện tướng lành vãng sanh chẳng kém cư sĩ Lưu [Hiểu Ngu]; nhưng vì cơ duyên bị trở ngại, hoàn toàn chẳng được hưởng lợi ích do trợ niệm, đến nỗi tín tâm hằng ngày chẳng thể thọ dụng được trong đời này, chỉ thành nhân duyên đắc độ trong vị lai, thật đáng tiếc quá! So sánh những chuyện này, biết đích xác trợ niệm lâm chung có quan hệ rất trọng yếu! …Lý cư sĩ chịu cảnh ngang trái như thế chắc là vì đời trước phá hoại chuyện thù thắng của người khác đến nỗi cảm lấy đủ mọi thời tiết nhân duyên chẳng đúng pháp gây nên chướng nạn. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - VII - thư 2+. So sánh sự tổn hại và lợi ích giữa được và không được trợ niệm Đến cuối Thu năm Dân Quốc 27 (1938), do sát nghiệp trong đời trước đời này chiêu cảm, lại bị bệnh nặng (khi chưa quy y Phật, cư sĩ [Lưu Hiểu Ngu] thích bẫy chim lưới cá, sát hại rất nhiều sanh mạng. Năm Dân Quốc mười mấy, từng bị chứng Đối Khẩu Sang , bệnh tình rất nguy hiểm, đau khổ cùng cực, bèn phát nguyện đoạn trừ thói quen xấu ác ấy. Do niệm Quán Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, chợt nghe trên hư không tỏa hương, bệnh tình dần dần được bình phục), dây dưa lâu ngày, đau khổ khó kham, sai con là Phát Trang đem món tiền mấy trăm đồng, cậy Sâm cúng dường cho cụ Ấn và làm công đức thay cho mình. Sâm lo liệu xong, viết thư phúc đáp khuyên cư sĩ nên ăn chay trường; nghe nói đến cuối năm [cư sĩ] mới thực hành chuyện thôi ăn mặn. Cho đến tháng Ba năm Dân Quốc 28 (1939), bệnh tình ngày càng thêm nặng. May nhờ thê thiếp, dâu, con đều là đệ tử quy y với cụ Ấn, đều biết trợ niệm lúc lâm chung là chuyện khẩn yếu, bèn trong ngày Mười Bảy thỉnh hai vị Tăng ở chùa Thọ Lượng đến trợ niệm. Niệm đến sáng ngày Mười Chín, cư sĩ tự biết sắp từ biệt trần thế, sai khiêng ra trước sân để đổi không khí, gọi anh em dặn dò hậu sự, bảo người con cả là Phát Trang quỳ nghe di chúc. Nói xong, mọi người thấy sắc mặt [cư sĩ] rất lạ, bèn khiêng trở vào phòng ngủ. Hai vị Tăng và người nhà đồng thanh niệm Phật hiệu để trợ niệm. Phát Trang kính cẩn nâng tượng A Di Đà Phật tiếp dẫn, thỉnh [cư sĩ] hãy nhìn xem. Do lúc mới phát bệnh ngặt thì vẫn là chứng bệnh ở phía ngoài cổ (tức chứng Đối Khẩu Sang tái phát) khiến cho tay trái rũ xuống mấy tháng không thể giở lên được; chính đang lúc hấp hối vừa thấy tượng Phật, tay trái chợt hoạt động như thường, giơ lên chắp tay, liền tỏ vẻ hoan hỷ hớn hở, niệm gấp A Di Đà Phật. Lúc ấy, chẳng có mảy may đau khổ nào, an tường qua đời giữa tiếng niệm Phật của mọi người, thọ được sáu mươi mốt tuổi, nhằm ngày Mười Chín tháng Ba năm Kỷ Mão (1939) Âm lịch. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - VII - thư 2+. So sánh sự tổn hại và lợi ích giữa được và không được trợ niệm Than ôi Tịnh công! Bậc kim thang cho pháp môn, đủ chánh tri kiến, an phận thủ thường, nghiên cứu khắp kinh tạng, thâm nhập chỗ thẳm sâu của Phật, tổ, thị hiện [thân phận] bạch y, giữ vững biên cương Kỳ Viên, thường than cuối đời Mạt, Tăng - tục phần nhiều thiếu sót bổn phận, tận lực đề xướng liên xã, ắt phải cậy Tăng già nêu kỷ cương, Tông lẫn thuyết đều thông, đáng xưng là bậc ngoại hộ vây cánh, giữ cho tăng sống yên, bảo vệ đạo pháp, thật đáng khen là bậc long tượng vô song. Pháp nào cũng viên dung, nhưng chỉ giữ mỗi giáo pháp Tịnh Độ khế cơ khế lý. Môn nào cũng thấu đạt thông suốt, chỉ thẳng tới cõi Cực Lạc dễ hành, dễ đạt. Nay đã dưa chín, cuống rơi, quả thật được Tây Phương giáo chủ tiếp dẫn, càng mong mau chứng vô sanh, chẳng trái bổn nguyện, liền trở lại Sa Bà, hộ trì Tam Bảo, làm thuyền Từ phổ độ chúng sanh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - VII - thư 2. Bài ký và bài tụng về chuyện cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh vãng sanh (bài tụng của Ngài Đức Sâm cho cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh) Ngày mồng Một tháng Chín (chỉ ngày tháng Âm Lịch của năm 1938), [cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh] gọi em [cư sĩ Diêu Bán Tăng] đến trước giường dặn dò hậu sự, tiếp đó, mỉm cười nói: “Sáng nay mộng thấy Phật đến, khắp thân là chuỗi ngọc, tướng hảo, quang minh, hướng về tôi bảo: ‘Ta đến gặp ông’, tôi liền lễ bái, trong khoảnh khắc liền tỉnh giấc, chẳng phải là đức Thế Tôn từ bi, riêng đến an ủi tôi hay sao? Nếu lại được Ngài thị hiện tiếp dẫn khiến cho tôi được đới nghiệp vãng sanh thì may mắn quá!” Nói xong, liền chắp tay nói: “Hẹn gặp lại ở Tây Phương”, từ đấy, không còn nói năng gì nữa, chỉ chuyên tâm thầm niệm Phật hiệu, đến bảy giờ sáng ngày mồng Ba, an tường về Tây. Toàn thân lạnh hết, chỉ còn mình đảnh đầu vẫn ấm. Lúc nhập khám, toàn thân mềm mại như bông, nghiễm nhiên giống như vị lão Tăng nhập định, sắc mặt tươi nhuận hơn lúc còn sống. Đúng là các căn tươi vui, chánh niệm phân minh, xả báo an tường như nhập Thiền Định. Tăng - tục thấy nghe khởi lòng kính nể sâu xa, khen là hy hữu. Giữ lại chùa niệm Phật bảy ngày theo đúng Luật hỏa thiêu, tro xương vẫn giữ tại chùa Hoàng Long. Sâm nói: “Do nhân như thế mà cảm được quả như thế, được như sở nguyện, mãn Bồ Đề nguyện, nguyện người thấy nghe phát Bồ Đề tâm cùng niệm Phật hiệu, cùng sanh Tây Phương, tương lai trong ao bảy báu sẽ được kề vai với cư sĩ cùng đi, cùng là đệ tử của Phật Di Đà, nghe pháp chứng [Vô Sanh] nhẫn, cùng độ chúng sanh Sa Bà”. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - VII - thư 2. Bài ký và bài tụng về chuyện cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh vãng sanh (thư của Diêu Bán Tăng gửi người anh là Diêu Tiết Khanh, là môn sinh của cư sĩ) Cư sĩ [Hứa Chỉ Tịnh] tuy có học vấn đạo đức người khác khó thể sánh kịp, nhưng tấm lòng rỗng rang, khiêm tốn, gặp Tăng ắt vái chào, thấy Phật ắt lễ, toàn thân buông xuống, nghiêm ngặt giữ thân phận hàng tại gia bạch y làm đệ tử quy y Tam Bảo, chẳng tơ hào kiêu căng, ngạo mạn, thật là chuyện người hiện thời khó thể làm được! Hơn nữa, tuy pháp nào cũng dung thông, nhưng tu trì cẩn trọng lại hoàn toàn giống như ngu phu ngu phụ thật thà niệm Phật, nhất tâm cầu sanh Tây Phương chẳng mảy may đổi dời! May được Tam Bảo gia bị, túc nghiệp lẫn tịnh hạnh đều cảm vời, chuyển quả báo nặng “ắt phải đời đời kiếp kiếp đọa lạc tam đồ” trong đời sau do ác nghiệp “sát sanh ăn thịt, não hại chúng sanh trong thuở trước” thành báo nhẹ trong hiện tại để liễu thoát ngay trong đời này, nhanh chóng về Tây Phương. Vì thế, trong nhiều năm [cuối đời] gần đây, cư sĩ thường bị bệnh khổ. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - VII - thư 2. Bài ký và bài tụng về chuyện cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh vãng sanh Theo Cư Sĩ Truyện, cư sĩ Châu Đình Chương người tỉnh Vân Nam, hiệu là Sở Phong, sống vào khoảng niên hiệu Chánh Đức - Gia Tĩnh đời Minh, tánh tình thuần phác, gia cảnh nghèo hèn. Ai mắng nhiếc, chửi bới gì cũng cười mà thôi. Một lòng tin tưởng Phật pháp, mỗi sáng đều tụng kinh Kim Cang, Di Đà, Quán Âm mỗi thứ một biến. Một hôm vào tiết Thanh Minh, từ biệt cha và vợ nói: “Tôi sắp đi đây, Di Đà đến đón tôi, Quán Âm cũng đã đến”, rồi lại nói: “Đức Quán Âm bảo tôi phải thôi ăn mặn trong năm ngày thì mới về Tây được”, bèn mỗi ngày ăn một bữa cháo, một bữa rau. Đến thời hạn, liền tắm gội đội mũ, bảo con em tụng danh hiệu của bảy đức Như Lai, tụng kinh xong bèn ngồi ngay ngắn qua đời, đến hôm sau thân vẫn còn tỏa mùi thơm, vẻ mặt như lúc sống. Do Đình Chương lúc sắp mất mới ăn chay, nên khi Tổ Ấn Quang thấy ông Hứa Chỉ Tịnh nguyện “ăn khoai Đình Chương[, hẹn ngày về Tây]” liền biết ngay ông ta hãy còn ăn mặn [nên Tổ đã nghiêm mặt quở trách: “Thật là tệ! Bậc đại thông gia như vậy mà vẫn chưa lấy thân làm gương ăn chay thì làm sao cảm hóa được người khác?” Lớn tiếng quát to, cư sĩ vui vẻ ưng chịu, chẳng những không một mảy may nào trái ý, mà thật ra tâm còn vui sướng thành thật khâm phục]. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - VII - thư 2. Bài ký và bài tụng về chuyện cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh vãng sanh (phần chú thích) Ấn Quang được hưởng ân thật lớn, đội ân thật sâu. Thoạt đầu xuất gia tại Nam Ngũ Đài Sơn tại Thiểm Tây, tức là đạo tràng nơi đức Quán Âm hiện thân hàng phục rồng độc. Tiếp đó, sống nhờ ở Phổ Đà trong biển Nam, chính là thánh địa nơi Thiện Tài đi về Nam tham học với đức Quán Âm. Thường nghĩ người đời chẳng biết lòng Từ sâu xa, lòng Bi rộng lớn của Bồ Tát, muốn sưu tập từ Đại Tạng và các sách vở, phàm những hạnh nguyện nơi bổn địa của Bồ Tát và những sự tích Bồ Tát cảm ứng nơi phương này, soạn thành bài văn ca tụng, lại còn chú thích tường tận, để những người cùng hàng trong cõi đời đều biết tấm lòng đại từ bi của ngài Quán Âm, cũng như thật sự thật lý “tùy loại hiện hình, tầm thanh cứu khổ” ngõ hầu [ai nấy] sẽ đều cùng trì thánh hiệu, cùng tiêu nghiệp chướng, cùng tăng phước huệ, khi sống thì làm người thân tâm thanh tịnh, thác sẽ dự vào hội của liên trì hải chúng. Dùng những điều này để uốn nắn lòng người, vãn hồi kiếp vận, ngõ hầu thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui. Tuy đã phát cái tâm ấy, nhưng do học thức thiển cận, kém hèn, bút mực vụng về, chất phác, chưa thể tiến hành ngay được! Khéo sao nhà đại văn học tỉnh Giang Tây là cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh lên núi thăm viếng, vừa gặp nhau đã thành bạn thiết, do vậy bèn đem chuyện này gởi gắm, ông ta liền vui vẻ chấp thuận rồi lắng lòng soạn thuật suốt cả hai năm ròng, viết ra bản Tụng Văn đến hơn hai vạn chữ. Đối với sự tích trong mỗi câu đều chú thích sau mỗi đoạn văn để người đọc vừa xem liền hiểu rõ ngay, tổng cộng gồm ba quyển. Lại sao lục những nghĩa trọng yếu trong kinh, đặt tên là Kinh Chứng (những dẫn chứng trích từ kinh điển) gồm một quyển, ghi kèm vào sau Tụng Văn. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 35. Trình bày về việc quyên mộ in cuốn Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng (1925) Cầu lấy pháp viên mãn nhất, nhanh chóng nhất, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, vừa khế cơ lẫn khế lý, vừa là tánh vừa là tu, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp hoàn toàn lợi căn lẫn độn căn, là chỗ quy túc của các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường tắt để trời, người, phàm, thánh chứng Chân thì không chi bằng một pháp tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Ấy là vì hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, còn pháp môn Niệm Phật cậy thêm Phật lực. Cậy tự lực thì nếu chưa đoạn sạch Phiền Hoặc sẽ chẳng thể vượt thoát tam giới, còn cậy vào Phật lực thì tín nguyện chân thành, thiết tha sẽ có thể cao đăng chín phẩm sen. Người trong thời hiện tại muốn giải quyết xong đại sự sanh tử ngay trong đời này mà bỏ pháp này sẽ trọn chẳng có hy vọng gì! Cần biết rằng: Pháp môn Tịnh Độ pháp nào cũng viên thông, như vầng trăng vằng vặc sáng ngời giữa trời, con sông nào cũng đều hiện bóng. Thủy ngân rớt xuống đất, viên nào cũng tròn xoe. Chẳng riêng gì cách vật, trí tri, cùng lý, tận tánh, giác thế, yên dân, trị quốc, giữ yên cõi bờ đều có lợi ích lớn lao, mà ngay cả sĩ, nông, công, thương, muốn phát triển sự nghiệp, già, trẻ, trai, gái muốn tiêu diệt bệnh tật khổ sở, không gì chẳng tùy theo lòng cảm mà ứng, thỏa lòng mãn nguyện. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 34. Duyên khởi trùng tu Niệm Phật Đường và mở liên xã tại chùa Tư Phước, Phụ Dương (1937) Phàm hết thảy những pháp môn Đại - Tiểu - Quyền - Thật do đức Phật đã nói, không môn nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đích thân chứng được điều [Thỉ-Bổn hợp nhất] này mà thôi! Nhưng căn cơ chúng sanh có lợi, độn, chức phận có thân, sơ, nên khó thể tạo lợi ích rộng khắp được! Vì thế, dùng chuyện tạo dựng tháp miếu, pháp tướng trang nghiêm, gõ chuông, đánh khánh, giơ nắm tay, dựng đứng cây phất trần để tạo duyên phát khởi, giúp cho [người khác] nhập đạo. Ở mỗi chỗ cư dân đông đảo, cổ nhân xây dựng đại tháp miếu cốt sao người thấy nghe sẽ gieo được hạt giống Phật vào trong tám thức điền, sau này ắt sẽ đích thân chứng được giác đạo, chứ không phải chỉ để [tạo cảnh] tráng lệ hòng nhìn ngắm [cho sướng mắt]. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 33. Duyên khởi quyên mộ tu bổ tháp Báo Ân chùa Báo Ân, Tô Châu Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật; đó gọi là Chánh Nhân, thuộc về Tánh đức, cũng còn gọi là Bổn Giác. Tuy có Chánh Nhân, nhưng nếu chẳng nghe Phật pháp sẽ như đồ báu trong kho, như viên châu buộc trong chéo áo, do không biết nên phải oan uổng chịu bần cùng. Đã được nghe Phật pháp, biết “Phật là vị Phật đã thành, ta và hết thảy chúng sanh đều là những vị Phật chưa thành”, từ đấy tu Giới - Định - Huệ, đoạn tham - sân - si, bỏ vọng về với chân, trái trần hiệp giác. Đấy gọi là Duyên Nhân, thuộc về Tu đức, cũng gọi là Thỉ Giác vậy! Công Tu đức sâu thì Tánh đức hiển lộ, mới biết từ xưa đến nay đã nương theo sức của Chánh Nhân Phật tánh ấy để làm đủ mọi chuyện trái nghịch tánh, chịu đủ mọi nỗi khổ huyễn vọng, giống như trong nhà tối đụng phải của báu, đâm ra bị tổn thương! Nay đã đích thân thấy được Phật tánh sẵn có thì cái gốc cũ chẳng mất, mà [Phật tánh mới giác ngộ] hiện thời cũng chẳng được , toàn vọng chính là chân, toàn tu chính là tánh. Đấy gọi là Liễu Nhân, chính là Tánh và Tu dung hợp, Thỉ - Bổn hợp nhất vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 33. Duyên khởi quyên mộ tu bổ tháp Báo Ân chùa Báo Ân, Tô Châu Hết thảy các pháp Đại Thừa, Tiểu Thừa do đức Thế Tôn đã nói trong cả một đời đều cậy vào tự lực, cho nên khó khăn; chỉ có một pháp này hoàn toàn cậy vào sức từ bi thệ nguyện nhiếp thọ của A Di Đà Phật và sức tín nguyện thành khẩn ức niệm của hành nhân nên được cảm ứng đạo giao, giải quyết xong xuôi ngay trong một đời này. Nhưng đã muốn vãng sanh Tây Phương thì phải nghĩ hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai, nghĩ báo ân ấy sẽ càng thêm mến tiếc, che chở, chẳng dám giết ăn, thấy hết thảy những người cùng hàng và các quỷ thần cùng với chim, thú, côn trùng đều tâm niệm miệng nói, dạy bọn họ niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Nếu như ba nghiệp thanh tịnh, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, đem pháp môn Tịnh Độ khuyên lơn thì người ta sẽ nhìn theo bắt chước nhau làm lành, ắt sẽ có hy vọng thay đổi cảm hóa ngấm ngầm, khiến cho phong tục tốt đẹp thuần hậu. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 32. Duyên khởi của Phước Châu Phật Học Đồ Thư Quán (thư viện Phật học Phước Châu) (1938) Nhân Thừa là căn bản của Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa, như đắp nền đất vững vàng, có thể tùy ý xây dựng lầu cao. Thiên Thừa thì ngoài Ngũ Giới Thập Thiện ra, còn tu thêm các thứ Thiền Định để sanh vào các cõi trời Lục Dục, Tứ Thiền, Tứ Không v.v… Nhân Thừa lẫn Thiên Thừa đều chẳng phải là pháp liễu sanh tử. Thanh Văn Thừa thì y theo Giới - Định - Huệ, tu pháp Tứ Đế để liễu sanh tử. Duyên Giác Thừa thì y theo Giới - Định - Huệ, quán sát hai môn Lưu Chuyển và Hoàn Diệt của Thập Nhị Nhân Duyên hòng liễu sanh tử. Bồ Tát Thừa thì y theo Giới - Định - Huệ tu lục độ, vạn hạnh, dưới hóa độ chúng sanh để mong trên là thành Phật đạo. Nhưng pháp ba thừa này đều thuộc vào pháp phổ thông cậy vào tự lực, người tối thượng thượng căn mới có thể liễu sanh tử ngay trong đời này, dẫu khi Phật đang còn tại thế cũng là trăm người mới có được một. Nếu như hiện thời, e rằng cả thế giới cũng không có được một hai người! Nhưng do tâm đại từ bi, đức Phật biết trước chúng sanh đời sau không có kẻ nào cậy vào tự lực để liễu sanh tử ngay trong đời này được, bèn mở riêng một pháp môn đặc biệt là tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, bất luận già, trẻ, trai, gái, sang, hèn, trí, ngu, sĩ, nông, công, thương, công chức, quân nhân, giới giáo dục học thuật, tại gia, xuất gia, thượng thánh, hạ phàm đều trong đời này cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Phàm phu sát đất đới nghiệp vãng sanh. Đã vãng sanh Tây Phương, ba thứ Hoặc - Nghiệp - Khổ thảy đều tiêu diệt. Ví như mảnh tuyết rớt vào lò to, chưa đến nơi đã tan mất. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 32. Duyên khởi của Phước Châu Phật Học Đồ Thư Quán (thư viện Phật học Phước Châu) (1938) Phật là giác; tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn thì mới gọi là Phật, tức là hết sạch Phiền Hoặc, phước huệ trọn đủ, Ngũ Uẩn đều không, chứng triệt để ba đức, là danh hiệu cao đẹp của bậc “thánh trong các thánh, trời trong chư thiên”, là danh hiệu chung của mười phương ba đời hết thảy chư Phật. Thích Ca Mâu Ni chính là tên riêng của đấng giáo chủ cõi Sa Bà. Tiếng Phạn “Thích Ca Mâu Ni” cõi này dịch là Năng Nhân Tịch Mặc. Năng Nhân nghĩa là rộng độ chúng sanh; Tịch Mặc là triệt chứng tự tánh. “Học” là bắt chước theo, tức là tùy phần tùy sức tu hành theo lời dạy. Đã tu hành theo lời dạy, sao lại nói “tùy phần, tùy sức”? Là vì đức Phật thuyết pháp tùy theo căn tánh của chúng sanh. Do căn tánh chẳng chỉ có một nên tùy theo sự hiểu biết, khả năng của họ mà nói pháp thích hợp. Tùy theo căn cơ ban bố giáo pháp, đối bệnh cho thuốc, sao cho giáo pháp phù hợp căn cơ, khiến cho ai nấy đều được lợi ích. Dạy chúng sanh chìm đắm trong biển khổ sanh tử quy y Tam Bảo Phật - Pháp - Tăng để làm chỗ nương tựa, dạy họ giữ năm giới “chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng uống rượu”, dạy họ tu Thập Thiện, đối với ba điều nơi thân, bốn điều nơi miệng, ba điều nơi ý đều dạy dứt ác làm lành. Tức là thân chẳng làm chuyện giết - trộm - dâm, miệng chẳng nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói ác độc, ý chẳng khởi ý niệm tham dục, nóng giận, ngu si. “Ngu si” nghĩa là không tin nhân quả, nói ra những lời tà kiến như “làm lành làm ác chẳng có báo ứng, con người chết đi thần hồn diệt mất, không có đời sau” v.v… Lại còn gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, khuyên bạn bè hướng thiện sửa lỗi, chủ giữ lòng nhân, tớ giữ lòng trung, mỗi mỗi đều giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Đấy chính là pháp Nhân Thừa. Tu theo pháp này sẽ đời đời làm người. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 32. Duyên khởi của Phước Châu Phật Học Đồ Thư Quán (thư viện Phật học Phước Châu) (1938) Thành tựu cho cha mẹ được vãng sanh tức là thành tựu cho cha mẹ thành Phật. Phàm thành Phật sẽ độ vô lượng vô biên chúng sanh. Chuyện tận hiếu trong thế gian há có lớn hơn điều này được chăng? Do vậy, hãy nên cạn kiệt tấm lòng thành của ta mà tận lực giúp đỡ. Nếu cứ khư khư theo tập tục chẳng coi trọng việc thành tựu chánh niệm, hoặc tắm rửa, thay quần áo sẵn, do bị đụng chạm, tâm [người sắp mất] bị nhiễu động có thể bị đau đớn, ắt sanh lòng giận bực. Nếu khóc lóc, người ấy ắt sanh lòng bi luyến. Đã loạn động thì chánh niệm bị mất, không cách gì vãng sanh được! Hễ nóng giận sẽ có thể đọa trong các loài độc trùng; mà mến luyến cũng thuộc về căn bản sanh tử. Con người nếu không bị bệnh cuồng, ai nỡ vì [trọn hết] lòng ngu thành tận hiếu mà phá hoại chánh niệm của cha mẹ khiến cho họ đánh mất lợi ích lớn lao “liễu sanh thoát tử hòng được thành Phật”, đến nỗi chịu sự khổ lớn lao “đọa lạc trong tam đồ ác đạo, thường bị luân hồi nhiều kiếp” ư? Thực hiện lòng hiếu kiểu đó khác gì La Sát nữ yêu người đâu? La Sát nữ bảo người bị nó ăn thịt: “Ta yêu ngươi nên ăn thịt ngươi!” - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 30. Duyên khởi của Trợ Niệm Vãng Sanh Xã tại trấn Cấp Tân, Hải Môn (1931) Phàm là người niệm Phật ắt phải chăm chú giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện kiên quyết cầu sanh Tây Phương. Dùng những điều ấy để tự hành, lại còn đem dạy người khác, trong là gia đình, quyến thuộc, ngoài là xóm giềng, bầu bạn đều cùng tu pháp này, cùng cầu vãng sanh. Công đức ấy há thể diễn tả được ư? Vì thế, ông Thành Huệ Dân và các cư sĩ tổ chức Trợ Niệm Vãng Sanh Xã tại Vũ Thánh Miếu trong trấn của họ, mỗi tháng đúng kỳ đến đấy niệm Phật. Niệm xong, giảng nói lợi ích của pháp môn Niệm Phật và cách thức tu trì, cũng như biện pháp trợ niệm lúc lâm chung. Phàm những ai tham dự Trợ Niệm Xã đều nên hành theo đó. Hễ có xã hữu hoặc không phải xã hữu thỉnh đến nhà trợ niệm đều nên [vận dụng] đại Bồ Đề tâm vốn có, khai thị, hướng dẫn bệnh nhân và quyến thuộc của người ấy để ai nấy đều y theo Phật pháp, đừng thuận theo thói phàm. Khai thị xong, mọi người cùng nhất tâm niệm Phật để mong cho người mất vãng sanh về thẳng Tây Phương mới thôi. Thành tựu người khác vãng sanh thì đến khi chính mình lâm chung ắt sẽ có người khác thành tựu sự vãng sanh cho chính mình, đừng cho chuyện ấy là không quan hệ rồi coi thường! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 30. Duyên khởi của Trợ Niệm Vãng Sanh Xã tại trấn Cấp Tân, Hải Môn (1931) Mỗi một tài, một nghề trong thế gian đều phải do mọi người giúp đỡ thì mới có thành tựu. Vì thế nói: “Bách công cư tứ dĩ thành kỳ sự, quân tử học dĩ trí kỳ đạo” (Trăm thợ sống ở xưởng thợ để nghề nghiệp được thành, quân tử học để thấu hiểu đạo ). Pháp thế gian còn như thế, sao riêng pháp xuất thế gian lại chẳng giống như vậy cho được? Phải biết “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ” chính là pháp môn đặc biệt trong Phật pháp, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn, Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài, mà phàm phu nghịch ác cũng có thể dự vào trong ấy. Hết thảy pháp môn chẳng đạt đến mức “nghiệp tận, tình không” sẽ chẳng thể liễu sanh thoát tử được, vì chỉ cậy vào tự lực, cho nên khó khăn! Pháp môn Niệm Phật nếu đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha sẽ liền có thể siêu phàm nhập thánh, bởi chuyên cậy vào Phật lực, cho nên dễ dàng! Hễ được vãng sanh thì sẽ đạt được lợi ích cao siêu hơn những người “nghiệp tận tình không” nhiều lắm. Pháp môn này bất luận già, trẻ, trai, gái, sang, hèn, trí, ngu, sĩ, nông, công, thương, tại gia, xuất gia đều nên tu trì; chẳng những không trở ngại hết thảy nghề nghiệp mà còn có thể giúp cho hết thảy nghề nghiệp dễ thành tựu. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 30. Duyên khởi của Trợ Niệm Vãng Sanh Xã tại trấn Cấp Tân, Hải Môn (1931) Những người ở xa xôi hoặc thân mang chức vụ bận bịu, hoặc thanh niên, phụ nữ chẳng tiện đến Tịnh Nghiệp Xã thì đều có thể nhiếp tâm tịnh niệm ở nhà. Lập ra Tịnh Nghiệp Xã chẳng qua chỉ nhằm [tạo] một tổ chức để đề xướng diễn thuyết mà thôi. Hằng ngày niệm Phật cố nhiên là chuyện tu trì tại gia, chẳng thể không biết [điều này]. Tịnh Nghiệp Xã được lập tại chùa Tiên Khánh, vào ngày nào đó mỗi tháng [xã hữu] cùng đến niệm Phật. Niệm xong, mời vị nào thông hiểu văn từ lý lẽ giảng diễn chương trình lẫn lợi ích do niệm Phật cũng như quy củ lẫn lợi ích của việc giáo dục con cái trong gia đình. Lại còn sắm sửa những sách giảng về niệm Phật tu thiện đơn giản, gần gũi, ai muốn xem thì cứ trả tiền theo giá vốn để thỉnh về xem, chẳng tốn nhiều tiền lắm. Lại dùng khoản tiền ấy để thỉnh đầy đủ sách đọc. Nếu mọi người có thể đua nhau thực hiện chuyện này mạnh mẽ thì thế đạo nhân tâm sẽ tự nhiên thuần thiện, thiên tai nhân họa không cách chi xảy ra được! Đây quả thật là sách lược tối thượng vì nước, vì dân, vì xã hội, vì gia đình vậy! Nguyện những người thấy nghe đều cùng khởi lòng. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 29. Duyên khởi của Tịnh Nghiệp Xã chùa Tiên Khánh tại Tam Giang Khẩu, Hàm Giang (1931) Hiện nay thế đạo nhân tâm chìm đắm đến cùng cực, nói chung là vì chẳng nói đến đạo “trọn hết tình nghĩa, tận hết bổn phận” và lý “phước thiện, họa dâm”. Đối với chuyện luân hồi lục đạo và pháp Niệm Phật vãng sanh thì càng không có cách gì nghe tới được! Do tâm chẳng chú trọng đạo đức, nhân nghĩa, nhân quả, báo ứng, dẫu có nghe cũng chẳng thể sanh lòng tin. Bởi những lẽ đó, ươm thành đại kiếp, thiên tai nhân họa liên tiếp giáng xuống, cơ duyên giết chóc ngập tràn, dân không lẽ sống. Những người có lòng lo cho cõi đời muốn cứu vãn đều đề xướng Phật học và tu pháp môn Niệm Phật, bởi pháp này thật sự là pháp dễ tu trì, dễ thành tựu nhất trong Phật pháp, như người tập bắn lấy mặt đất làm đích, bắn không phát nào chẳng trúng. Pháp này cậy vào Phật từ lực, nếu chịu tuân theo lời dạy tu trì thì không một ai chẳng thành tựu. Do vậy, ai nấy hãy nên quy y Tam Bảo, thọ trì Ngũ Giới, tuân hành Thập Thiện, dùng ba nghiệp thân - khẩu - ý thanh tịnh, sanh lòng tin phát nguyện niệm thánh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Người như thế sống là bậc thánh bậc hiền, thác lên cõi Cực Lạc. Khuyên dạy lẫn nhau, nhìn nhau [bắt chước] làm lành, khó gì chẳng dứt tai tiêu họa, tu đức sẽ hưởng phước, giữ vẹn cái gốc, trọng luân thường, thay đổi phong tục để đạt đến thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui. Do vậy nói rằng “một pháp Niệm Phật há chẳng là căn bản pháp luân để chấn hưng sức dân, phụ trợ chánh trị, giáo hóa, chẳng nắm giữ địa vị mà dạy dỗ dân, chẳng nhờ đến hình phạt mà dứt được chuyện ác ư?” Nguyện những vị mang lòng vãn hồi kiếp vận đều cùng dự vào Tịnh Nghiệp Xã. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 29. Duyên khởi của Tịnh Nghiệp Xã chùa Tiên Khánh tại Tam Giang Khẩu, Hàm Giang (1931) Một pháp Niệm Phật là pháp môn tổng trì trong Phật pháp, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn, trên từ bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài pháp này, dưới là phàm phu nghịch ác cũng có thể dự vào trong ấy. Nói nông cạn thì đàn bà, trẻ nít đều có thể tu trì, nói sâu xa thì bậc thánh triết cũng chẳng thể hiểu trọn. Đã thế, đối với hàng thiện tín tại gia, pháp này thích hợp căn cơ nhất. Do đức Như Lai gọi “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện nghiệp” là “chánh nhân Tịnh nghiệp của tam thế chư Phật”, nên hễ là người niệm Phật thì đối với gia đình, luân thường đều phải trọn hết bổn phận. Tức là cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành vậy. Lại còn phải ngăn giận, dứt ham muốn, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành; nhưng tu thiện trừ ác thì rất cần phải tích cực phản tỉnh xem xét tại nơi khởi tâm động niệm, dốc lòng thực hiện rộng rãi để trừ khử [những thói hư tật xấu, phiền não, ác niệm]. Dè dặt kiêng sợ, đừng coi thường thì mới là người lành. Người lành niệm Phật mới có thể được hưởng lợi ích chân thật nơi niệm Phật. Ví như nền tảng vững vàng, chắc chắn thì mới có thể tùy ý xây dựng lầu cao muôn trượng được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 29. Duyên khởi của Tịnh Nghiệp Xã chùa Tiên Khánh tại Tam Giang Khẩu, Hàm Giang (1931) Dựa theo lời con ông ta là Tịnh Niệm đã viết thì: “Gia nghiêm từ thuở mười sáu, mười bảy tuổi, liền trúng phải chất độc do bọn Trình - Châu để lại, tự lấy chuyện bài xích Phật - Lão làm trách nhiệm của chính mình, tiếc cho một bề chống trái, thiên kiến, nhưng kinh Phật rất khó được thấy, lại không có bậc cao tăng hoằng pháp hay bậc thông đạt lỗi lạc để thân cận, bèn coi lời lẽ của Trình - Châu là lời bàn quyết định ngàn đời chẳng xê xích được, liền y theo những gì bọn họ nói để bài xích Phật - Lão, chứ thật ra trọn chẳng biết cội nguồn Phật - Lão ra sao! Do lầm lạc bài xích Phật - Lão và chỉ coi những điều mình sùng phụng là tông chỉ chân chánh của Nho giáo nên càng thêm mê muội”. May sao đời trước đã gieo thiện căn, trời xét soi tấm lòng ngu thành, khiến cho cụ bệnh nặng mấy năm hòng tự phản tỉnh. Thoạt đầu cụ vẫn nói “thiên đạo vô tri”, rồi đại ngộ chính mình thấy hiểu lầm lạc, trái nghịch. Từ đấy, thống thiết sửa đổi lỗi trước, tận lực tu tịnh hạnh, bắt chước ông Liễu Phàm lập mạng, học đòi ông Tịnh Ý sửa đổi cái tâm. Tuy được tâm địa quang minh, mắt vẫn lòa như cũ (năm Dân Quốc 16 (1927), mắt phải kéo màng, chẳng thể thấy mọi vật. Đến năm Dân Quốc 20 (1931), mắt trái cũng thế, bèn cùng với con cực lực sám hối. Người con trích máu vẽ hình Phật, dùng chất son [hòa máu] chép kinh. Ông ta tự soạn bài văn thú lỗi, mắt bèn thấy được mọi vật), mới biết chẳng bộc lộ lỗi mình, trọn khó thể tiêu nghiệp được, nếu phơi bày lỗi xưa thì còn làm lợi cho người khác. Do vậy bèn soạn bài văn sám hối in ra gởi cho những người cùng hàng, đem sự mê - ngộ của chính mình để làm khuôn phép răn dè cho kẻ thông sáng mai sau, cậy Quang viết lời Bạt mong được lưu truyền rộng rãi. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 28. Lời tựa cho bài Sám Hối Văn của ông Thành Phục Sơ (1936) Cư sĩ Ngô Nam Phủ ở Cát An, tỉnh Giang Tây túc căn sâu dầy, từ nhỏ buôn bán ở bến Thượng Hải, giữ tấm lòng từ thiện, hiềm rằng hoàn toàn chẳng biết đến Phật pháp, ngược ngạo coi chuyện tin Phật là mê tín, vợ ông ta là Trương Thị, tuy sẵn đủ tín tâm, nhưng lại chẳng biết phân biệt tà - chánh, dẫu có khuyên can cũng khó thể khơi gợi được! Năm Dân Quốc 20 (1931), [ông Ngô Nam Phủ] bị cướp bắt trói dẫn về sào huyệt, sầu khổ chen lẫn, suy nghĩ không ra cách nào, sực nhớ lời Trương Thị khuyên nên tin tưởng Phật pháp. Do vậy bèn mong Phật từ bi cứu giúp hòng thoát sào huyệt bọn cướp. Nào ngờ Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, lòng Từ của Phật như mẹ nhớ con, cảm ứng đạo giao nhanh chóng như dùi [vừa chạm mặt] trống [liền vang ra tiếng], chợt có cảnh sát vì cứu người khác mà chạy lầm đến nơi đó, liền cứu ông ta ra, chẳng tốn một phân tiền mà an nhiên thoát hiểm. Ông ta mới biết Phật pháp linh ứng, hơi dấy lòng tin, bèn đến những nơi như Phổ Đà v.v… dâng hương lễ Phật. Năm Dân Quốc 22 (1933), cùng với vợ là Trương Thị, dẫn theo một đứa con, ngồi xe hơi, chạy đến chỗ đường cong giữa đường, chợt một thiếu nữ Tây phương từ bên đường băng ngang, va ngay vào xe, bị xe chẹt ngang, ngã sóng xoài dưới xe. Ba người cha con bọn họ sợ đến nỗi hồn muốn lìa khỏi xác, mồ hôi đẫm lưng, cho là cô gái ấy đã thành ba đoạn rồi, cấp tốc niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để mong Phật [rủ lòng] Từ gia bị giải cứu. Đến khi ngừng xe lại coi chỉ thấy cô gái Tây phương ấy nằm ngửa dưới gầm xe, lọt thỏm giữa bốn bánh, bị xe lôi đi mấy chục bước. Cùng lúc, tuần cảnh, dân phố xúm lại đông nghẹt, cha cô gái ấy cũng tìm tới, đỡ cô ta lên, chỉ thấy khắp mặt cô ta đỏ bừng, trọn chẳng bị sây sát gì! Trải qua kiểm nghiệm, cô ta trọn chẳng bị tổn thương mảy may gì, cô ta liền theo cha bỏ đi. Cư sĩ trải qua hai trận nguy hiểm, lòng tin rộng mở. Năm Dân Quốc 23 (1934), đặc biệt xin được quy y với Quang, bèn đặt cho pháp danh là Huệ Vân, Trương Thị có pháp danh là Huệ Hiền, tiếp đó lại thọ Ngũ Giới. Từ đấy, tín tâm chân thật, thiết tha, tinh tấn tu trì, lại tạo công đức rộng rãi tại các chỗ như Linh Nham. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 27. Lời bạt ấn tống Tịnh Độ Ngũ Kinh (1937) Cuốn sách Pháp Vũ Quyên Trích Lục (Giọt nước Pháp Vũ) đã trình bày khá rõ ràng về những lẽ lợi - hại do trợ niệm khi lâm chung và phá hoại chánh niệm của việc tắm rửa, thay quần áo, khóc lóc v.v… Mẹ ông Châu Sư Đạo may nhờ sức trợ niệm mà được chánh niệm rỡ ràng, hiện các tướng lành qua đời. Do vậy anh em ông ta đem in [cuốn sách ấy] theo lối thạch bản mấy trăm bản để tặng những người hữu duyên xa gần. Nay lại dùng số tiền do mẹ để lại để in một vạn cuốn Liên Tông Chánh Truyền nhằm kết tịnh duyên mong cho mẹ chưa vãng sanh sẽ được vãng sanh, đã vãng sanh sẽ tăng cao phẩm vị. Do vậy đem cuốn Pháp Vũ Quyên Trích Lục in kèm vào sau cuốn sách này ngõ hầu hết thảy mọi người đều biết lẽ lợi - hại do trợ niệm và phá hoại [chánh niệm] để chẳng đến nỗi vì yêu thương cha mẹ và yêu thương anh em, vợ con, quyến thuộc mà làm chuyện trái đạo, do cái tâm yêu thương làm chuyện tổn hại, mà vẫn tưởng chính mình đã hết lòng vì người chết! Nhưng do phàm phu hiểu biết kém hèn, chưa nghe Phật pháp, nào ai biết được bao nhiêu chuyện tổn hại hay hữu ích. Sách này lưu truyền xa gần để cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc của hết thảy những ai chánh tín niệm Phật khi còn sống gieo thiện căn sâu xa, mất đi thì thần thức siêu thăng Tịnh Độ. Phương pháp này do hòa thượng Thiện Đạo đời Đường đã phát minh ra, cho rằng người thường ngày chẳng niệm Phật mà nương theo trợ niệm cũng có thể vãng sanh. Hòa thượng Thiện Đạo là hóa thân của Phật Di Đà; do vậy biết pháp ấy lợi ích sâu rộng, nguyện khắp những người thấy nghe đều sanh chánh tín, khuyên dạy lẫn nhau công đức vô lượng, đến khi chính mình lâm chung chắc chắc có người trợ niệm. Vì sao vậy? Do nhân như vậy sẽ cảm được quả như vậy, nhân lẫn quả đều phù hợp nhau. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 26. Lời bạt cho cuốn Liên Tông Chánh Truyền (1929) Ngưỡng vọng Quán Âm Đại Sĩ thệ nguyện sâu xa mênh mông, bình đẳng nhiếp thọ pháp giới hữu tình, khiến cho kẻ chưa gieo thiện căn, chưa chín muồi, chưa độ thoát sẽ liền gieo, liền chín muồi, liền độ thoát, nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy thuyết pháp. Ấy là vì Đại Sĩ vô tâm dùng tâm của chúng sanh để làm tâm, Đại Sĩ vô niệm, dùng niệm của chúng sanh làm niệm. Vì thế, khởi lòng Từ vô duyên, vận lòng Bi đồng thể, như vầng trăng vằng vặc in bóng khắp ngàn sông, như ánh nắng Xuân khiến cho khắp muôn loài cỏ cây sanh sôi, khắp các cõi nước nhiều như bụi trần cảm thì Ngài sẽ ứng trong khắp các cõi nước nhiều như bụi trần. Không điều mong cầu nào chẳng được toại ý, có nguyện gì đều được vừa lòng. Đệ tử… và vợ là…. đau xót trước cảnh thế đạo nguy ngập, thương cho lòng người chìm đắm ngày càng thêm xuống dốc, trọn chẳng ngưng dứt. Ngưỡng mong Đại Sĩ ban cho chúng con một đứa con phước đức trí huệ để trong tương lai nếu nó nghèo cùng thì sẽ riêng mình nó thiện hòng xướng suất, hướng dẫn một làng; hễ hiển đạt thì khiến cho người khác cũng được tốt lành, đẩy lùi con sóng cuồng nghiêng ngửa. Riêng lập ra ba điều ước định để làm điều kiện tiên khởi. Thứ nhất là giữ thân tiết dục, thứ hai là giữ vẹn luân thường, tích đức, thứ ba là khéo dạy từ lúc còn nằm trong thai và khi còn thơ ấu. Gắng sức hành ba điều này để mong khỏi phụ tấm lòng Từ mênh mông của Đại Sĩ. Lại mong hết thảy đồng nhân trong ngoài bốn biển đều dứt ác tâm, đều phát thiện niệm, đều sanh con phước đức, trí huệ, đều thấu hiểu lòng nhân che khắp chở đều, coi nước láng giềng như chân tay, xem thiên hạ như một nhà, duy trì lẫn nhau, chẳng xâm lăng, ngược đãi nhau để mong trên là an ủi được ơn lớn mênh mông của cha trời mẹ đất, dưới xứng danh Con Người cùng với trời đất xưng là Tam Tài, chuyển đại loạn thành đại trị, khắp nơi cùng vui sướng, sự giáo hóa của đức Phật được tỏ suốt hai nơi, muôn nước đều yên ổn. Kính nguyện Bồ Tát phổ thí sự không sợ hãi, thương xót tấm lòng ngu thành của con, cho con được mãn nguyện. Ngày… tháng… năm… đệ tử… trăm lạy trình lên. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 25. Sớ lễ niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cầu con (1940) Thêm nữa, hồn người đã khuất không chỗ quay về, lâu ngày biến thành vong linh dữ dằn, nếu chẳng lập cách siêu độ thì làm sao an ủi được những loại cô hồn ấy dưới suối vàng cho được? Vì thế, mỗi năm phải đặc biệt lập đạo tràng để cứu vớt cô hồn, cầu chúc thái bình. Đấy chính là nhiệm vụ cấp bách để ngăn dứt tai ương trong tương lai vậy! Từ trước đến giờ, việc cầu đảo chưa quyết định tại chỗ nào, cứ tùy ý cử hành tế độ cô hồn. Trộm nghĩ Quán Âm Đại Sĩ thệ nguyện rộng sâu, danh sơn Phổ Đà là nơi Ngài ứng hóa. Hòa thượng Minh Giác lại là vị tăng chân thật tiến hành chuyện công ích, do vậy tính giao phó cho Ngài [thực hiện pháp hội này] ngay tại am của Ngài. Vào dịp Thanh Minh trong tháng Ba [Âm lịch] sẽ niệm thánh hiệu Quán Thế Âm bảy ngày, vào ngày viên mãn sẽ đặc biệt làm lễ thí thực. Vào tháng Bảy bèn niệm thánh hiệu đức Địa Tạng bảy ngày, thí thực bảy hội. Tiết Đông Chí sẽ niệm thánh hiệu Phật Di Đà bảy ngày, đến ngày viên mãn sẽ thí thực một hội. Mỗi lần đều thỉnh bốn mươi tám vị Tăng. Dùng công đức ấy để siêu độ hết thảy những cô hồn chết vì đao binh, lũ lụt, hạn hán, đói kém, tật dịch để họ đều được sanh vào đường lành, ngõ hầu chẳng đến nỗi biến thành oán quỷ gây ra chuyện hung ác. Từ đấy nhân dân yên vui, lòng trời hòa thuận vui sướng, mưa - nắng do vậy sẽ đúng thời, sâu rầy do vậy chẳng sanh sôi thì vật mạnh, dân yên, thiên hạ thái bình vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 24. Sớ quyên mộ tổ chức pháp hội cầu đảo hằng năm để lợi lạc rộng khắp (1929) Quán Thế Âm Bồ Tát trong vô lượng kiếp trước đã sớm thành Phật đạo, hiệu là Chánh Pháp Minh, nhưng do tâm từ bi tha thiết, lòng độ sanh ân cần nên lại chẳng lìa cõi Tịch Quang, hiện hình trong chín giới, tùy loại hiện thân tầm thanh cứu khổ, đủ mọi phương tiện độ thoát chúng sanh. Tức là khiến cho kẻ chưa gieo thiện căn, chưa chín muồi, chưa độ thoát sẽ liền gieo, liền chín muồi, liền độ thoát, nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy thuyết pháp. Do vậy, nơi nơi đều lập đạo tràng, nhưng Thiên Trúc là nơi thấy rõ nhất, vì Hàng Châu thường được xưng là Phật Quốc, nhân dân thiện căn sâu dầy, nên Bồ Tát linh cảm dị thường. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 23. Sớ quyên mộ tu bổ đại điện và các điện đường, liêu xá chùa Nam Thiên Trúc Diễn Phước tại Hàng Châu (1929) …Năm ngoái bị gặp trận lụt lớn, điện đường, liêu xá đều bị cuốn ra biển Đông, tường vách đại điện chẳng còn sót gì. Lúc dựng đại điện đã dùng ba cây gỗ lớn để chống đỡ khám thờ Phật, cũng bị trôi đi mất. Khám thờ Phật bị nước lũ xoáy vỡ, cũng bị cuốn đi. Nước ngập đến gối tượng Phật, kim thân của bộ tượng Tây Phương Tam Thánh cao tám thước đều tạc bằng gỗ Hương Chương kể cả tòa sen gặp cơn vùi dập này chẳng bị tổn hoại mảy may. Đủ thấy nước lũ do ác nghiệp của chúng sanh chiêu cảm, tượng Phật gặp phải trận tấn công dữ dội này vẫn nghiễm nhiên như cũ. Ấy là vì muốn thị hiện cho khắp mọi chúng sanh được thấy để họ quy mạng, gieo tấm lòng thành cầu được vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Sau khi nước rút, trước hết sư Trí Định dựng một lều tranh để tượng Phật chẳng bị nắng hun mưa xối, nhưng chuyện tu bổ đại điện thì chỉ biết than vãn suông chẳng biết làm sao hơn! May có huyện trưởng huyện Giang Đô là ông Dương, cục trưởng cục Tài Chánh là ông Diệp, cục trưởng cục Công An là ông Trần, cục trưởng cục Kiến Thiết là ông Lý và những vị thân sĩ, cao niên vùng Giang Đô ai nấy thấy chuyện kỳ lạ như thế đều bỏ tiền ra giúp đỡ hòng khôi phục ngôi cổ đạo tràng làm chỗ cho người địa phương cầu phước; do vậy sư Trí Định xin tôi viết bài sớ giãi bày nguyên ủy để khẩn cầu mười phương đàn-việt - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 22. Sớ quyên mộ xây dựng đại điện của Liên Tu Tịnh Xá tại đập Dương Thiện, huyện Giang Đô, Dương Châu (1934) Mùa Hạ năm nay, [ông Lý] từ Cam Túc trở về làng, ngày mồng Tám tháng Tư đến Quán Âm Tự lễ Phật, thấy điện vũ điêu tàn, thánh tượng long lở, sứt mẻ, muốn tu bổ đôi chút, nhưng tiếc rằng sức chẳng thể kham nổi, đến đất Tô cậy Quang viết sớ để hô hào người khác giúp tay. Quang nói: “Đang trong lúc tai họa liên tiếp xảy ra, nhân dân khốn khổ này, chỉ sợ chẳng có mấy người chịu thí xả, nhưng đem tờ sớ của tôi cho mọi người xem, dẫu người ta chẳng bỏ ra một đồng nào cũng đã gieo được thiện căn liễu thoát ngay trong đời này cho người ấy, huống chi nghĩ đến ân Đại Sĩ ắt sẽ có người tùy phận tùy sức giúp đỡ. Khoản tiền quyên được nếu nhiều sẽ tu bổ lớn, nếu nhỏ sẽ sửa chữa nhỏ. Dẫu chẳng được một đồng nào thì tôi vẫn không uổng công soạn tờ sớ, ông vẫn có công quyên mộ lớn lao! Vì sao vậy? Do [người ta] đọc tờ sớ này sẽ biết hồng ân độ chúng sanh của đức Quán Âm và đại pháp Niệm Phật để liễu sanh tử, sẽ thấy sau này những kẻ nối tiếp nhau khởi lên nhiều không thể kể xiết. Cớ gì cứ phải chấp nhặt một thời, một chỗ, mới là báo ân hoằng pháp hay sao?” - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 21. Sớ quyên mộ tu bổ điện vũ và thánh tượng chùa Quán Âm ở Triệu Gia Thôn thuộc Đông Hương, huyện Cáp Dương (1935) Quán Âm Đại Sĩ thệ nguyện rộng sâu, pháp giới chúng sanh đều được bình đẳng nhiếp thọ, khiến cho kẻ thiện căn chưa gieo, chưa chín muồi, chưa được độ thoát liền gieo, liền chín muồi, liền độ thoát. Đối với kẻ nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy để thuyết pháp. Ấy là vì Đại Sĩ vô tâm, lấy tâm của chúng sanh làm tâm [của chính mình]; Đại Sĩ không có cảnh, lấy cảnh của chúng sanh làm cảnh [của chính mình], nên gặp kẻ mê muội tự tâm bèn nói những lời pháp ngữ mềm mỏng khiến cho kẻ ấy khai ngộ, gặp kẻ mắc phải các hiểm nạn bèn hiện thành cầu bến hay nhân sĩ khiến cho kẻ ấy được thoát lìa. Do Đại Sĩ thành Phật đạo đã lâu, bi nguyện vô tận, nên giống như vầng trăng rạng ngời in bóng ngàn sông, dường như ánh nắng Xuân sanh thành muôn cây cỏ, chẳng mong tưởng mà được như vậy. Do vậy, ai nấy đều cảm mộ hồng ân bảo vệ, phù trợ, cho nên nơi nào cũng lập miếu để thờ phụng Ngài. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 21. Sớ quyên mộ tu bổ điện vũ và thánh tượng chùa Quán Âm ở Triệu Gia Thôn thuộc Đông Hương, huyện Cáp Dương (1935) …Do điện vũ [chùa Phổ Tế ở Phổ Đà] rộng lớn, mà tài sản nhà chùa đạm bạc, hằng năm cần phải chi tiêu rất nhiều, lương thực cho Tăng chúng [tốn kém] rất lớn, chỉ chuyên lo đối phó với chuyện ấy, nên chưa rảnh rang để lo đến ao sen. Ao chính giữa sen còn mọc đầy, nhưng bùn sâu nước cạn, cũng khó thể là kế lâu dài được! Ao ở phía Tây đã từng là vườn rau, rồi lại đào thành ao. Ao ở phía Đông lớn nhất, ước chừng mười mẫu, bùn lầy tràn ngập, khác nào chằm cỏ. Bất Huệ thay mặt vị Trụ Trì, thẹn thiếu tài đức, trộm nghĩ tiền nhân đào ao đâu phải chỉ nhằm mục đích mỹ quan, mà chính là vì muốn biểu thị cảnh tượng Tây Phương ngõ hầu những người tạm đến đây hoặc thường trụ khi đi kinh hành bên bờ ao hoa sen, thần thức sẽ dạo chơi Cực Lạc. Nếu có thể tịnh niệm tiếp nối, chắc chắn lâm chung sẽ vãng sanh. Quả thật là duyên trợ đạo thù thắng, thực sự là nhiệm vụ cấp bách để hoằng pháp, tính cho khơi vét cả hai ao chánh giữa và ao phía Đông, dùng đá be bờ ao phía Đông, phía trên xây lan can bằng xi-măng để bảo vệ và tạo vẻ mỹ quan. Như vậy thì cái ao vuông mười mẫu mênh mông như tấm gương, có được nguồn nước lưu chuyển sẽ soi bóng mây và ánh áng mặt trời khiến cho bậc thượng sĩ Nam tham, bậc cao nhân Đông thỉnh kinh hành trên những tầng cấp ở bốn phía sẽ khế ngộ “nhất niệm tịnh tâm”. Mối quan hệ ấy há nông cạn, nhỏ nhoi ư? Nhưng bát [rỗng tuếch] như chiếc khánh treo cậy tay người đẽo gọt, khẩn cầu các vị đại hộ pháp cùng phát thâm tâm thành tựu sự tốt đẹp, ai nấy quyên ra của báu tốt đẹp vô tận để do tài thí mà thành pháp thí, chỉ làm một chuyện mà được lợi ích đôi bề, công đức ấy há thể diễn tả được ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 19. Sớ quyên mộ nạo vét ao hoa sen chùa Phổ Tế núi Phổ Đà (1931) “Pháp Thân Đức” chính là bản tánh bất sanh bất diệt của chúng ta, “Bát Nhã Đức” chính là chánh trí lìa niệm thường hiểu biết của chúng ta, “Giải Thoát Đức” chính là tịnh hạnh trong sạch không tỳ vết của chúng ta. Ba Đức ấy chẳng tách rời nhau, ước trên mặt nghĩa lý thì chia thành ba, chứ thật ra, một còn chẳng lập, huống là có ba! Vì thế gọi là “ba dư đức rốt ráo”. Nếu không gieo thiện căn trong đời trước, dẫu hết kiếp cũng chẳng nghe được nghĩa này. Dùng ngay những pháp thế gian như luân thường, hiếu, đễ v.v… để tu Phật pháp, dùng ngay pháp xuất thế liễu sanh tử để hướng dẫn những pháp luân thường, hiếu đễ v.v… khác nào dựng tháp trên đỉnh núi và đào giếng nơi đất thấp, tuy cùng đạt được những cái giống nhau, nhưng dụng công có hình tướng khó - dễ khác biệt vô cùng. Nếu có thể y theo đó để tu thì lợi ích lớn lao thay! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 17. Luận về tên gọi của Tam Dư Đức Đường (1931) …Dốc lòng tu “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, mến tiếc sanh mạng loài vật, rộng hành phương tiện, tạo lợi ích cho hết thảy, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, quyết định cầu sanh Cực Lạc thế giới”. Dùng điều này để tự hành, lại còn dùng đó để dạy người. Phàm trong là cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, ngoài là làng nước, xóm giềng, thân thích, bạn bè, đều lấy chuyện giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận và niệm Phật cầu vãng sanh để khuyên lơn sao cho bọn họ đều cùng trong đời này vượt trỗi, dự vào bậc thánh hiền, đến khi lâm chung cao đăng cõi Cực Lạc. Luận về phương diện sự nghiệp, thành tích thì những người kia (tức những người lập đức, lập công, lập ngôn) to lớn hơn những người này nhiều lắm, nhưng luận về lợi ích thì những người này trội hơn những người kia thật sâu. Ấy là vì một đằng thì chuyên chú vào pháp thế gian, một đằng còn chú trọng thêm nơi pháp xuất thế. Một đằng chỉ hữu ích cho sắc thân, một đằng thì kèm thêm lợi ích cho huệ mạng nữa. Đấy chính là ba dư đức cho pháp thế gian lẫn pháp xuất thế gian. Đến khi vãng sanh Tây Phương thấy Phật nghe pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn thì Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát tam đức bí tạng sẽ từ Phần Chứng mà đạt đến chỗ Viên Chứng rốt ráo, thì mới là rốt ráo ba dư đức vậy [Pháp thân, Bát Nhã và Giải thoát đức]! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 17. Luận về tên gọi của Tam Dư Đức Đường (1931) Ông Ninh Đức Tấn xin khai thị về tên gọi Tam Dư Đường của chính mình, mong sao đối với pháp thế gian liền hiểu thông suốt Phật pháp, ngõ hầu con cháu đời sau ai nấy đều vâng giữ đạo “trọn vẹn luân thường, tu tâm” hòng làm chuyện lợi mình, lợi người. Tôi nói: Hai chữ Tam Dư bất quá để khuyên răn siêng năng, tận lực học hành, đừng bỏ phí thời gian, một khắc ngàn vàng, hễ đã mất không cách nào tìm lại được. Hãy nên thêm vào một chữ Đức thì ý nghĩa sẽ sâu xa hơn. Dư là như câu “tích thiện dư khánh, tích bất thiện dư uơng” trong kinh Dịch, mang ý nghĩa dài lâu chẳng ngơi, lưu truyền mãi mãi chẳng hư nát vậy. Không một pháp thế gian nào thường còn mãi, chỉ riêng có người lập đức, lập công, lập ngôn thì mới có thể vĩnh viễn truyền lại cho đời sau và thường còn lâu dài; nhưng tạo lập được đức nghiệp ấy, nói dễ dàng sao? Nay dạy cho ông cách thực hiện dễ mà thành công cao, dùng sức ít mà được hiệu quả nhanh chóng, dẫu chẳng có bản lãnh tạo dựng ấy nhưng lợi ích sẽ lớn lao hơn nhiều. Ấy chính là dốc lòng tu “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, mến tiếc sanh mạng loài vật, rộng hành phương tiện, tạo lợi ích cho hết thảy, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, quyết định cầu sanh Cực Lạc thế giới”. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 17. Luận về tên gọi của Tam Dư Đức Đường (1931) Gần đây, gió Âu dần dần thổi sang phương Đông, chẳng những kẻ bình dân chẳng biết kính tiếc sách vở, giấy có chữ, ngay cả Nho sĩ đọc sách cũng chẳng cung kính sách vở và giấy có chữ, hoặc bỏ sách trên sập ngồi, hoặc dùng sách để gối đầu, hoặc giận dữ bèn quăng sách xuống đất, hoặc đi tiêu tiểu vẫn xem thi thư. Chẳng những đại tiểu tiện xong nhất loạt chẳng rửa tay, mà ngay cả đêm nằm ngủ với vợ, sáng dậy đọc sách cũng chẳng rửa tay. Thường dùng giấy có chữ viết để lau chùi đồ đạc, rồi vẫn [giả vờ] giữ tiếng là kính trọng giấy có chữ bèn đốt [những mảnh giấy đã dùng để lau chùi đồ đạc ấy]. Vì thế, khiến cho những kẻ bình dân không có gì để học theo, nên trong thùng rác, trong nhà tiêu, đầu đường cuối ngõ, không đâu chẳng là giấy có chữ [la liệt] khắp đất. Người đi tàu, ngồi xe thường dùng giấy báo để lót chỗ ngồi, phụ nữ đi ra ngoài đều dùng giấy báo để bọc giày, vớ. Đủ mọi nỗi khinh nhờn chẳng thể nêu trọn. Vì thế, thiên tai nhân họa liên tiếp giáng xuống đều là vì khinh nhờn vật quý báu nhất trong trời đất mà ra. Chẳng biết trong những tờ giấy có chữ ấy đều có những chữ “thiên, địa, nhật, nguyệt”, có những câu văn trích từ kinh sách của thánh hiền. Coi vật trân bảo tôn quý tột bậc ấy như phân, như đất, há lẽ nào chẳng giảm phước tổn thọ, hiện tại gánh lấy tai ương, gây nên quả báo con cháu ngu hèn ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 16. Khuyên khắp mọi người kính tiếc giấy có chữ và tôn kính kinh sách (1935) Chữ là thứ quý báu nhất trong thế gian; vàng, bạc, châu ngọc, tước vị chẳng thể sánh bằng, vì vàng, bạc, châu ngọc, tước vị đều do chữ mà có. Nếu thế gian không có chữ thì vàng, bạc, châu ngọc, tước vị cũng không có cách gì để đạt được cả! Ân đức của chữ nói chẳng thể tận. Kính tiếc chữ viết phước báo rất lớn. Cha của ông Vương Văn Chánh đời Tống hết sức kính tiếc giấy có chữ, về sau mộng thấy Khổng Phu Tử dùng tay xoa lưng bảo: “Ông dốc lòng tiếc chữ của ta như thế nên ta sẽ sai Tăng Sâm sanh vào nhà ông hòng làm rạng rỡ môn hộ”. Do vậy, về sau sanh con bèn đặt tên là Vương Tăng , đỗ đầu liên tiếp ba kỳ thi, được phong làm Tể Tướng, khi mất được đặt thụy hiệu là Văn Chánh Công, tước phong Nghi Quốc Công. Hậu duệ đỗ đạt liên miên, con cháu hiền thiện đều do đời trước kính trọng sách vở và giấy có viết chữ mà ra. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 16. Khuyên khắp mọi người kính tiếc giấy có chữ và tôn kính kinh sách (1935) Con người sống trong thế gian được thành tài đạt đức, dựng công lập nghiệp, cho đến có được một tài một nghề để nuôi bản thân lẫn gia đình đều nhờ vào sức chủ trì của văn tự. Chữ là thứ quý báu nhất trong thế gian, có thể khiến cho kẻ phàm trở thành thánh, kẻ ngu thành trí, kẻ bần tiện trở thành phú quý, kẻ tật bệnh trở thành mạnh khỏe, đạo mạch thánh hiền được lưu truyền muôn đời, lo toan cho bản thân gia đình, truyền lại cho con cháu, không gì chẳng cậy vào sức văn tự. Nếu cõi đời không có chữ thì hết thảy mọi sự lý đều chẳng thành lập được, con người khác gì cầm thú đâu! Đã có công sức như thế, cố nhiên phải nên trân trọng, mến tiếc. Trộm thấy người thời nay mặc tình khinh nhờn, làm nhơ bẩn, đúng là coi vật quý báu nhất hệt như phân đất vậy, há chẳng khỏi đời này tổn phước giảm thọ, đời sau vô tri vô thức ư? Hơn nữa, không chỉ chẳng nên khinh nhờn, làm dơ, vứt bỏ chữ hữu hình mà đối với chữ vô hình lại càng chẳng nên khinh nhờn, làm bẩn, vứt bỏ! Nếu chẳng tận lực thực hiện “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” tức là đã quên mất tám chữ vậy. Đã quên tám chữ ấy thì sống là loài cầm thú đội mũ mặc áo, chết đọa trong tam đồ ác đạo, chẳng đáng buồn ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 16. Khuyên khắp mọi người kính tiếc giấy có chữ và tôn kính kinh sách (1935) Các trò trong [Cô Nhi] viện được ăn no mặc ấm, sống yên nơi đây, ắt phải chú trọng dấy lòng cảm kích, nỗ lực học chữ học nghề, ngõ hầu khỏi phụ một phen hết lòng của viện trưởng, giáo viên, quản trị và những vị thiện sĩ đã giúp đỡ tiền bạc. Nếu có được cái tâm ấy thì gốc đã lập, đạo sẽ sanh, sau này thành gia lập nghiệp, phẩm cao hạnh trỗi, được xã hội khâm phục ngưỡng mộ sẽ là điều có thể đoán trước được! Nhưng muốn mai sau được thành tựu thì phải lập chí hành sự từ ngay bây giờ, cần phải trung hậu, siêng năng, cẩn thận, khiêm cung, hòa thuận, tâm và miệng như một, những gì biểu lộ ra ngoài và những gì ẩn kín trong lòng chẳng hai, thường giữ lòng hổ thẹn, đừng tự kiêu căng, sáng - tối chí thành niệm Phật để mong tiêu trừ túc nghiệp, tăng trưởng thiện căn, chuyện gì cũng lấy lòng thành làm gốc, niệm niệm thường tự soi xét tự tâm thì sự thành tựu của các trò đều chẳng thể lường được! Vì sao vậy? Do có căn bản vậy! Nếu hiện tại chẳng dấy lòng Thành cảm kích, hổ thẹn, sốt sắng, dũng mãnh siêng học, chỉ mong cho xong việc sao cho qua ngày đoạn tháng thì hóa ra đã cô phụ tấm lòng thiết tha của viện trưởng và các vị [ân nhân]. Do không có lòng Thành nên dẫu chẳng bị tổn phước giảm thọ, chết yểu, thì cũng là thây đi thịt chạy, là hạng người cả cõi đời đều chán ghét, vứt bỏ! Các trò phải biết tốt - xấu, ai nấy gắng sức lên thì may mắn lắm thay! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 15. Lời răn dạy khích lệ các học trò ghi sau cuốn Quy Ước của Cô Nhi Viện Phật giáo chùa Pháp Vân (1932) Các pháp thế gian và xuất thế gian không gì chẳng lấy lòng Thành làm gốc. Những người tu hành càng phải nên chí thành. Hễ có lòng Thành thì nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng. Phàm lúc tụng kinh ắt phải dứt bặt lo nghĩ, vọng duyên, nhất tâm tịnh niệm như đối trước thánh dung, đích thân nghe viên âm, chẳng dám manh nha chút niệm lười nhác, coi thường! Lâu ngày chầy tháng sẽ tự ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu. Ví như ánh nắng Xuân vừa chiếu đến, băng cứng tự tiêu tan. Lòng Thành đến mức cùng cực sẽ hoát nhiên thông suốt. Đấy chính là cách hay nhất để xem kinh, niệm Phật. Bà có thể suốt đời hành theo cách này thì lợi ích sẽ chẳng thể nào diễn tả được! Tông Ý hãy ghi nhớ nhé! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 14. Đôi lời đề tựa cho cuốn A Di Đà Kinh của nữ sĩ Vương Tông Ý (1935) Gần đây chánh phủ thường ra lệnh rõ ràng cho Tổng Hội Phật Giáo Trung Quốc, buộc Hội phải nhắc nhở răn đe Tăng Già ai nấy tận lực giữ Thanh Quy. Phải biết rằng: Tăng Già là bậc thầy khuôn mẫu cho trời người, chánh phủ ban lệnh đốc thúc tức là [Tăng Già] đã mất thể thống. Nếu vẫn cứ như đang nằm mộng thì sợ rằng sau này khó tránh được nạn Tăng sĩ bị xua đuổi, tài sản bị chiếm đoạt! Hiện thời hội Phật giáo của huyện nhà đã được thành lập, mọi người đều nên nhất trí tiến hành duy trì đại cuộc cho Phật giáo, chớ nên chỉ mong tu tập cho riêng mình. Nếu hội Phật giáo không có cách gì để duy trì thì muốn tự tu tập cũng chẳng thể tu tập được đâu! Vì thế, ai nấy đều phải nghiêm túc tu trì, tự tôn trọng lấy mình. Hiện thời cư sĩ tại gia ai nấy đều chuyên chú tu tập tinh ròng và nghiên cứu, nỡ nào đường đường là một bậc tỳ-kheo lại đâm ra thua kém hàng cư sĩ ư? Người có hào khí hãy nên phát khởi mạnh mẽ, cũng như ai nấy đều nên góp phần tài lực để hỗ trợ cho công việc của hội. Công việc của hội có liên quan đến sự an - nguy của chính mình, ví như hai tay hai chân sử dụng lẫn cho nhau. Thứ này chẳng giúp đỡ thứ kia sẽ khó thể sống được. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 13. Lời thông cáo nhún nhường của hội Phật giáo Ngô huyện tỉnh Giang Tô dành cho Tăng chúng các tự viện (1934) Hiện thời có ông Đặng Trịnh Khôn ở Tứ Xuyên là sinh viên tốt nghiệp trường Pháp Luật Chánh Trị hết sức cuồng ngạo, chống đối. Đầu thời Dân Quốc, ông ta chuyên môn hủy hoại Phật giáo, bất luận miếu thờ thần hay chùa thờ Phật đều suất lãnh đồ đảng phá hủy. Sau đấy, chợt biết là sai, tận lực cải hối, đến Phổ Đà xin quy y, ở Thượng Hải Cư Sĩ Lâm tám năm, tinh tấn tu trì. Năm trước, chiến tranh nổ ra tại đất Hỗ (Thượng Hải), ông ta ở trong Cư Sĩ Lâm chẳng kinh sợ, chẳng dời động, trước - sau - trái - phải Cư Sĩ Lâm đều biến thành vùng đất tan hoang, bom đạn lớn nhỏ rớt vào trong Lâm nhưng chẳng nổ một trái nào. Đủ thấy con người sửa lỗi hướng thiện, Phật, Bồ Tát liền ban thưởng trọng hậu, che chở cho. Dẫu chúng ta chẳng được như ngài Ngẫu Ích, há cũng chẳng bằng được ông Trịnh Khôn ư? Trịnh Khôn là người mang tội ác cực lớn lao còn được cảm ứng như thế, chúng ta há nên lần khân cho qua ngày, chẳng thêm gắng sức, giống như lên núi báu mà trở về tay không ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 13. Lời thông cáo nhún nhường của hội Phật giáo Ngô huyện tỉnh Giang Tô dành cho Tăng chúng các tự viện (1934) Cuối đời Minh, Ngẫu Ích đại sư là con nhà họ Chung ở Mộc Độc, thiên tư thông minh, mẫn tiệp, lúc nhỏ theo mẹ ăn chay lễ tụng, lên bảy tuổi đi học, coi thánh học (Nho học) là trách nhiệm của chính mình, thề diệt Thích - Lão, bắt đầu ăn mặn, uống rượu, viết mấy chục bài luận báng Phật. Năm mười bảy tuổi, đọc bài tựa cho cuốn Tự Tri Lục của Liên Trì đại sư và Trúc Song Tùy Bút bèn chẳng báng Phật. Sau đấy bèn cực lực nghiên cứu, năm hai mươi bốn tuổi bèn xuất gia, triệt ngộ tự tâm, thâm nhập kinh tạng, một đời trước thuật mấy chục tác phẩm đều là những thứ xưa nay hiếm thấy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 13. Lời thông cáo nhún nhường của hội Phật giáo Ngô huyện tỉnh Giang Tô dành cho Tăng chúng các tự viện (1934) Những người cùng sắc áo với tôi hãy thường nghĩ “ta là đệ tử Phật phải nên hoằng dương sự giáo hóa của đức Phật, giáo hóa chúng sanh để làm cầu bến cho cõi đời, báo ân đức của Phật”. Nếu chính mình vẫn chẳng tự gắng sức thì hóa ra đã tạo căn cứ cho những kẻ đuổi Tăng chiếm đoạt tài sản [biện minh cho hành động của chúng], bị kẻ tại gia chuyên ròng tu hành coi thường, há chẳng phải là tự mình chuốc lấy nỗi lo hay sao? Con người ai mà không mong được người khác tung hô, nếu chẳng gắng sức tu trì thì chính là tự chuốc lấy sự chán ghét. Phật pháp chẳng thể bị bại hoại bởi thiên ma, ngoại đạo mà chỉ bị bại hoại bởi tăng sĩ chẳng tuân phụng giáo pháp, giới luật của đức Phật! Ví như trùng trên thân sư tử tự ăn thịt sư tử. Chỉ vì thánh mất niệm thành cuồng, cuồng khắc chế được ý niệm bèn thành thánh, con người ai cũng có thể là Nghiêu - Thuấn, ai cũng có thể thành Phật, điều đáng quý là tự gắng sức vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 13. Lời thông cáo nhún nhường của hội Phật giáo Ngô huyện tỉnh Giang Tô dành cho Tăng chúng các tự viện (1934) Bệnh ông đã nặng, chỉ nên nhất tâm niệm Phật cầu Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Nếu tâm ấy chân thành, ắt sẽ được mãn nguyện. Còn đối với tất cả tội nghiệp, chớ nên lấy đó làm điều lo lắng. Vì nếu có thể cực lực chí tâm cầu sanh Tây Phương thì sẽ có thể cậy vào Từ lực của đức Phật để đới nghiệp vãng sanh. Ví như tảng đá to bỏ lên thuyền liền có thể từ bờ biển này sang được bờ kia. Cần biết rằng: Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, tự tánh công đức lực chẳng thể nghĩ bàn. Ba thứ chẳng thể nghĩ bàn ấy nếu không có cái tâm chí thành tín nguyện niệm Phật sẽ không có cách gì hiển hiện được. Có lòng chí thành cầu sanh Tây Phương thì ba thứ thần lực oai đức lớn lao chẳng thể nghĩ bàn ấy sẽ liền được hiển hiện. Như ngồi trên chiếc tàu thủy lớn lại được xuôi gió, chẳng lìa ý niệm trong hiện tại đây mà liền sanh về Tây Phương. Ông chỉ nên tin tưởng sâu xa lời tôi, tự nhiên ông sẽ được mãn nguyện. Nay tôi đặt pháp danh cho ông là Huệ Thoát, nghĩa là dùng trí huệ, tín nguyện niệm Phật liền được vãng sanh Tây Phương, thoát ly sanh tử vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 12. Pháp ngữ khai thị cho cư sĩ Phùng Hữu Thư lúc lâm chung Bà làm theo đúng như lời tôi nói, hết thảy mọi sự đều buông xuống hết, đến lúc lâm chung tự nhiên cảm được Phật đích thân rủ lòng tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Nếu vẫn cứ tham luyến hết thảy những vật tốt đẹp, tiền bạc, ruộng đất, nhà cửa, đồ cài đầu, quần áo và con cái, cháu chắt v.v… y như cũ thì vàn muôn phần chẳng thể vãng sanh Tây Phương được! Đã không sanh về Tây Phương được thì đời sau chắc chắn có si phước để hưởng, do hưởng phước sẽ tạo nghiệp, chắc chắn khi một hơi thở ra không hít vào được nữa sẽ đọa lạc trong tam đồ vì ác nghiệp ngăn lấp vậy! Tâm thức chẳng rõ, dẫu có một vị Phật sống đến cứu bà cũng chẳng cứu được, há chẳng đáng thương đáng xót lắm ư? Xin bà hãy tin lời tôi nói thì thật là may mắn không chi hơn được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 11. Pháp ngữ dạy nữ cư sĩ Châu Dư Chí Liên (1931) Hiện thời tuy bà rất mạnh khỏe nhưng phải nghĩ mình sắp chết. Bây giờ cần mặc những thứ quần áo nào thì giữ lại để mặc, phàm những thứ y phục quý trọng như lượt, là, áo da v.v… đều chia cho cháu, cho dâu. Những thứ cài đầu, xuyến đeo tay, hoa tai, vàng, bạc, phỉ thúy v.v… đều dùng để cứu giúp dân chúng bị tai nạn. Dùng công đức ấy để hồi hướng vãng sanh. Nếu trong tâm thấy biết nhỏ nhoi, chẳng thể đem cứu vớt tai nạn thì cũng nên chia cho con gái, cháu dâu, cháu gái v.v… Bên thân mình quyết chẳng được giữ lại những thứ khiến cho con người dấy lòng tham luyến ấy. Tất cả những khoản tiền dành dụm để phòng khi dưỡng già cũng nên giao hết cho con cháu, dù là khế ước, sổ sách ruộng đất v.v… đi nữa cũng nên giao hết sạch [cho người khác]. Trong tâm bà trừ chuyện niệm Phật, chẳng để cho có một chút ý niệm nào khác! Ngay cả cái thân của bà cũng chẳng tính toán sẵn sau khi chết đi sẽ nên an bài ra sao. Ngay cả với cháu, chắt cũng đều nên coi như người không quen biết, mặc kệ chúng nó hay dở ra sao, ta chỉ quan tâm niệm đức Phật của ta, nhất tâm mong chờ đức Phật đến tiếp dẫn ta vãng sanh Tây Phương. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 11. Pháp ngữ dạy nữ cư sĩ Châu Dư Chí Liên (1931) Bà đã ngoài bảy mươi tuổi rồi, chẳng bao lâu nữa sẽ phải chết. Hiện thời phải nhanh chóng thu xếp hết thảy mọi việc cho tốt đẹp, trong tâm ngoại trừ niệm Phật ra, không để vướng mắc bất cứ chuyện gì khác thì khi lâm chung mới có thể không vướng mắc, không ngăn ngại. Nếu bây giờ cứ vẫn chuyện gì cũng không buông xuống được như thế, vẫn nhìn không thông suốt, khi lâm chung tất cả những tâm tham luyến y phục, đồ trang sức trên đầu, nhà cửa, con cháu sẽ đều hiện ra hết, như thế thì làm sao có thể vãng sanh Tây Phương cho được? Đã không thể vãng sanh được thì bà một đời thủ tiết niệm Phật và làm đủ mọi chuyện hữu ích sẽ hoàn toàn trở thành phước báo! Hiện thời bà vẫn chưa có trí huệ, tuy thường tinh tấn niệm Phật, trong tâm vẫn chưa quyết định cầu sanh Tây Phương, đến đời sau trong lúc hưởng phước chắc chắn bị phước mê hoặc, sẽ tạo các ác nghiệp. Đã tạo ác nghiệp, chắc chắn phải đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ! Nỗi khổ lớn lao ấy đều là do đời này niệm Phật chẳng biết quyết định cầu sanh Tây Phương chiêu cảm. Quang thương xót bà, sợ bà mai sau có thể lâm vào tình huống ấy cho nên lập sẵn cách cho bà. Nếu bà chịu nghe theo lời tôi, sẽ chẳng do phước mà mắc họa. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 11. Pháp ngữ dạy nữ cư sĩ Châu Dư Chí Liên (1931) Hỏi: Nhớ số niệm Phật: Hít vào niệm sáu câu, thở ra niệm bốn câu là như thế nào? Tâm đã nhớ số lại niệm Phật, rồi lại phải tưởng Phật nữa ư? Đáp: Niệm Phật nhớ số là từ một đến ba, từ bốn đến sáu, từ bảy đến mười, sao lại hạn định trong hơi thở? Ông là kẻ học luyện đan vận khí nên mới thấy một hai chữ hơi tương tự, liền nói đó là công phu của họ. Cách niệm Phật nhớ số là vì kẻ vọng tâm khó chế ngự mà đặt ra. Niệm được như thế, ghi nhớ như thế, lắng nghe như thế, chắc chắn tâm sẽ dần dần điều phục. Ở đây có ai dạy ông thêm vào hai chữ “tưởng Phật” đâu? Ở đây là tùy tiện niệm, nào phải bận tâm thở ra hay hít vào? Nếu hít thở như thế lâu ngày sẽ bị tổn khí mắc bệnh, chẳng thể không biết [điều này]! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 27 (1931) Hỏi: Những người vãng sanh trên đây dường như chẳng phải là những vị do tu Quán mà vãng sanh, chẳng biết nên tưởng sự vãng sanh của người tu Quán như thế nào? Đáp: Phẩm vị của người vãng sanh muôn sai ngàn khác, trong kinh chỉ dùng chín phẩm để nói tóm gọn, sao ông biết những người vãng sanh trên đây chẳng do tu Quán mà được vãng sanh? Phải biết: Căn tánh con người bất đồng, dẫu chỉ [cùng là] một pháp mà vẫn có cao - thấp rất khác nhau, há nên câu nệ nơi pháp được tu ư? Ấy là do khả năng trong tâm địa của mỗi người, ông cho rằng các vị như Văn Thù, Phổ Hiền… chẳng tu Quán ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 26 (1931) Hỏi: Quán đến khi thấy Phật nghe pháp rồi, mỗi ngày lại quán có cần phải bắt đầu quán từ phép Quán đầu tiên hay không? Đáp: Quán tưởng thì chỉ cần quán sao cho đắc lực, cần gì phải từ đầu đến đuôi, hằng ngày tập đi tập lại! Phật nói ra mười sáu phép Quán thì những phép Quán đầu nhằm khiến cho con người biết đến sự trang nghiêm của Cực Lạc, [các phép Quán] về chín phẩm vãng sanh ở phần sau nhằm làm cho con người biết nhân quả của phép được tu. Mỗi phép Quán đã biết thì qua một phép quán Phật sẽ có thể quán trọn vẹn các phép Quán kia. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 24 (1931) Hỏi: Còn như khi tu phép Quán thứ mười ba, lúc ấy có thể tùy ý vãng sanh hay không? Hay phải đợi đến khi lâm chung mới có thể vãng sanh? Đáp: Nghiệp báo chưa tận, làm sao vãng sanh ngay được? Xưa kia cũng có người [làm được như vậy], nhưng không thể áp dụng cho hết thảy mọi người được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 23 (1931) Hỏi: Có người nói thấy Phật chính là [thấy] vị Phật ở trong tâm chứ không phải là [thấy] vị Phật ở Tây Phương. Nếu đúng như vậy thì khi vãng sanh, vị Phật trong tâm có hiện ra hay không? Hay là A Di Đà Phật đến tiếp dẫn? Đáp: Lâm chung thấy Phật chính là đức Phật do tự tâm cảm thành, chớ nên quy hết về tự tâm rồi nói rằng “không có chuyện Phật đến đón!” - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 22 (1931) Hỏi: Quán thấy cõi Cực Lạc và được nghe pháp thì có phải là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông hay không? Đáp: Đấy chính là do sức Quán tạo nên. Nếu là Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ thì không cần quán cũng vẫn thấy nghe được. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 21 (1931) Hỏi: Quán thấy cõi nước Cực Lạc thì đấy có phải là Tịnh Độ thật sự hay là tướng giả hiện? Đáp: Quán thấy Cực Lạc chính là do duy tâm biến hiện, bảo đó là giả thì trở thành gã đứng ngoài cửa mất rồi! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 20 (1931) Hỏi: Khi ngồi thì tu Quán, những lúc khác thì trì danh, so với chuyên trì một thứ thì là hơn hay kém? Đáp: Có cái tâm trầm tĩnh, kín đáo, thuần túy thì tu Quán cũng tốt mà trì danh cũng hay. Nếu không, so ra trì danh ổn thỏa hơn, bởi tâm chí sôi động, hời hợt, vọng động mà tu Quán thì sẽ bị nhiều ma sự. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 19 (1931) Hỏi: Phép Quán đầu tiên là nhất tâm tưởng mặt trời, hay là phải ngầm trì danh hiệu? Đáp: Quán và Trì Danh vốn là một chuyện, ông cho rằng khi quán thì chẳng thể trì danh, chẳng được trì danh hay sao? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 18 (1931) Hỏi: Mỗi phép Quán phải cần [tu tập] tối thiểu bao nhiêu ngày? Đáp: Ông cho rằng tu một phép Quán này mấy ngày, rồi sẽ tu pháp Quán khác đó ư? Chẳng biết đức Phật tuy nói mười sáu phép Quán nhưng thoạt đầu hãy nên thực hành phép Quán thứ mười ba thì mới là tu khế lý khế cơ. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 16 (1931) Hỏi: Tu Quán là tưởng hay là quán, hay dùng cả quán lẫn tưởng? Lấy gần hay lấy xa? Đáp: Hai chữ “quán tưởng” há nên chia ra làm đôi! Nhiếp tâm để tưởng chính là quán. Ông nghĩ là hai tức là trở thành chỉ biết [mười bằng] một nhân với mười, chẳng biết [con số mười ấy] nó cũng là hai lần năm. Hơn nữa, quán tưởng sao có thể chia ra thành gần hay xa cho được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 15 (1931) Hỏi: Tu Quán có phải là cậy vào Phật lực hay không? Trong phép Quán thứ mười ba [của Quán Kinh] có nói: “Vô Lượng Thọ Phật thân lượng vô biên, tâm lực của phàm phu chẳng thể thấu hiểu được, nhưng do sức túc nguyện của đức Như Lai ấy nên có kẻ ức tưởng ắt được thành tựu”. Điểm khác biệt giữa phép Quán này và tham Thiền là gì? So với tham Thiền có dễ hơn hay không? Đáp: Tham Thiền chỉ cốt suy cứu tự tâm, niệm Phật kiêm cậy vào Phật lực. Hai pháp đạt đến rốt ráo viên thành thì hoàn toàn giống như nhau, nhưng dụng công trong lúc tu trì thì rất khác biệt. Ví như đi đường ngồi thuyền hay ngồi xe khác nhau, nhưng về đến nhà thì giống như nhau. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 14 (1931) Hỏi: Phật dạy tu Quán chính là vì chúng sanh đời sau ác trược chẳng lành bị năm thứ khổ bức bách mà lập giáo. Nếu dùng Thôi Miên để bộc lộ Thiên Nhãn Thông ngõ hầu nói ra để chứng minh thì hiển hiện cõi nước Cực Lạc cũng chẳng phải là chuyện khó. Huống chi rất cần chứng minh cho việc niệm Phật, sao không khuyên người tu Quán mà lại bảo đó là chuyện khó khăn? Đáp: Thôi Miên là do sức [huyễn] thuật, há phải là thật sự có Thiên Nhãn Thông ư? Người thật sự có Thiên Nhãn Thông há chịu để cho người khác thôi miên! Ông nay đã học Phật, hãy nên chuyên chí học Phật. [Muốn] hiện cõi Cực Lạc, chỉ dùng tịnh tâm mà niệm cho chuyên nhất thì sẽ làm được. Ví như mài gương, mài đến cùng cực thì [gương] tự nhiên tỏa sáng. Dùng thuật Thôi Miên để hiện thì trước hết tâm đã chẳng tịnh, niệm cũng chẳng chuyên nhất, ví như dùng bột trắng xoa lên gương mà cứ mong gương tỏa sáng, chẳng biết là đã phủ lấp tấm gương càng dầy vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 13 (1931) Hỏi: Cái tánh còn lại sau khi chết, [cái tánh đi] vãng sanh, và Phật tánh có những điểm giống nhau, khác nhau như thế nào? Đáp: Cái tánh của hết thảy chúng sanh trước khi sanh ra sau khi chết đi, cái tánh vãng sanh và Phật tánh [ba tánh ấy] đồng nhưng bất đồng, bất đồng nhưng đồng. Gọi là đồng vì bản thể của tâm tánh không hai. Nói là bất đồng vì do mê hay ngộ nên sai khác vời vợi một trời, một vực! Do có nghĩa này nên dạy người đoạn Hoặc chứng Chân để mong đích thân chứng được tâm tánh vốn đồng ấy. Chỉ có Thể là đồng, nhưng do mê chưa chứng nên bày ra đủ mọi pháp khiến cho họ bỏ vọng về với chân, trái trần hiệp giác hòng đích thân chứng được. Cách tu rất nhiều, chỉ có niệm Phật cầu sanh Tây Phương là dễ thực hiện nhất, dễ thành tựu nhất! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 12 (1931) Hỏi: Hiểu Đệ Nhất Nghĩa là như thế nào? Đáp: Hiểu Đệ Nhất Nghĩa tức là triệt ngộ diệu lý Thật Tướng, duy tâm tự tánh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 11 (1931) Hỏi: Tụng kinh có phải là để làm cho chính mình sanh tâm hoan hỷ, chán lìa, hay là còn có tác dụng chi khác? Đáp: Ông tụng kinh chỉ biết cầu hoan hỷ cho chính mình, đáng tiếc là vô biên diệu nghĩa bị ông xem chẳng đáng một đồng! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 10 (1931) Hỏi: Người tên X… nọ khi mạng chung chợt nói: “Tịnh Độ ngay trong góc sân”, vậy cõi đất này là Tịnh Độ ư? Đáp: Đấy chính là nghĩa lý “duy tâm Tịnh Độ” phát hiện. “Duy tâm Tịnh Độ” chính là cảnh của một mình người đó, ngoài ra đều là duy tâm uế độ. Há có nên dựa theo cái thấy của người ấy để phán đoán ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 9 (1931) Hỏi: “Sanh thì quyết định sanh, đi thì chẳng thật sự đi”, sanh và đi đều chỉ cho điều gì? Đáp: “Sanh thì quyết định sanh” là nói theo mặt Sự. “Đi chẳng thật sự đi” là nói theo mặt Lý. Chẳng biết cội nguồn của Sự - Lý thì tốt hơn là hãy chất phác niệm Phật theo sự tướng. Nếu không, ắt sẽ trở thành bọn tà ma, ngoại đạo chấp lý phế sự. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 8 (1931) Hỏi: “Duy tâm Tịnh Độ tự tánh Di Đà” với “Tịnh Độ và đức Phật ở Tây Phương” là một nhưng mà hai, là hai nhưng mà một phải không? Đáp: Có duy tâm Tịnh Độ thì mới sanh về Tây Phương Tịnh Độ. Nếu tự tâm chẳng tịnh, làm sao vãng sanh được? Dẫu là kẻ tội nhân nghịch ác nhưng do niệm Phật mười tiếng bèn được vãng sanh là vì tịnh tâm niệm Phật mà cảm được [quả báo] vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Trong đời lắm kẻ tưởng “duy tâm là không có cõi nước”, trở thành tri kiến của tà ma, ngoại đạo! Loại tà kiến tựa hồ là đúng nhưng thật ra là sai ấy, chiếm hơn quá nửa đến nỗi người niệm Phật chẳng được lợi ích thật sự, mà vẫn tưởng mình là cao minh, chẳng biết đấy là tà kiến “chấp lý phế sự, tự lầm, lầm người!” Do tự tánh Di Đà nên phải niệm đức Di Đà ở Tây Phương để cầu vãng sanh hòng tấn tu dần dần để có đích thân chứng được Di Đà nơi tự tánh. Nếu chỉ chấp vào tự tánh Di Đà, chẳng niệm đức Di Đà ở Tây Phương, dẫu có ngộ thật sự vẫn không thể liễu sanh tử được! Huống chi những kẻ nói lời ấy toàn là bọn chấp chặt một bề, toàn là phường nói suông! “Là một nhưng hai” là chuyện trước khi thành Phật, “tuy hai nhưng một” là chuyện sau khi đã thành Phật. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 7 (1931) Hỏi: Nếu chuyên tụng Phật hiệu, hiệu lực so với thần chú như thế nào? Đáp: Phật hiệu và thần chú có công đức giống hệt như nhau, chỉ do lòng chí thành thì mới có cảm ứng. Nếu trong tâm trước hết đã khởi lên ý niệm coi thường Phật hiệu thì sẽ chẳng có lợi ích gì, vì đã không chí thành lại còn ngờ vực nên chẳng được lợi ích chân thật. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 6 (1931) Hỏi: Như khi gặp nguy hiểm, lâm vào tình thế chẳng thể cùng một lúc kiêm tụng các chú thì hãy nên ứng dụng như thế nào? Đáp: Gặp phải tai nạn cực nguy hiểm, chỉ nên niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát là đỡ tốn tâm lực nhất, [lại] có cảm ứng nhiều nhất. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 5 (1931) Hỏi: Miệng niệm Phật, tâm tưởng Phật, [vậy thì] đức Phật được tưởng ấy có giống như [đức Phật được tưởng trong] phép Quán thứ tám của Quán Kinh hay không? Đáp: Quán tưởng phải bắt đầu tu tập từ phép Quán thứ mười ba . Nếu không, cảnh tế tâm thô, khó thể thành tựu, hoặc nếu như dụng tâm không thích đáng sẽ dấy lên ma sự. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 4 (1931) Hỏi: Con tin tưởng nhờ cậy vào Phật lực, như trong thuật Thôi Miên tự thôi miên chính mình sẽ khó hơn bị người khác thôi miên. Vì thế biết là Tự Lực chẳng bằng Tha Lực. Đáp: Hết thảy pháp môn đều phải cậy vào Tự Lực để đoạn Hoặc chứng Chân hầu liễu sanh thoát tử, như người thọt chân tự đi, một ngày khó đi được trăm dặm. Pháp môn Tịnh Độ nương vào sức Từ của Phật sẽ có thể đới nghiệp vãng sanh, giống như kẻ thọt chân ngồi trên bánh xe báu của Chuyển Luân Thánh Vương, trong một ngày đến khắp bốn châu, làm sao có thể lấy chuyện Thôi Miên để chứng minh cho được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 3 (1931) Hỏi: Con tin tưởng tịnh tâm sẽ thành Phật, giống như trong thuật Thôi Miên ắt phải trầm tĩnh rồi sau đấy mới có hiện tượng chẳng thể nghĩ bàn. Đáp: Tịnh tâm niệm Phật quán Phật sẽ dễ tương ứng với Phật. Nếu có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, chắc chắn được vãng sanh, rồi sẽ dần dần tấn tu, ắt sẽ thành Phật. Đừng nên nói “hiện tại tịnh tâm sẽ được thành Phật!” - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 2 (1931) Hỏi: Nguyên nhân khiến đệ tử tin Phật bắt nguồn từ việc nghiên cứu thuật Thôi Miên. Xưa kia con đã nghe tục ngữ có câu: “Chín lần tu làm thiên tử, mười lần tu làm Phật”, nghĩ rằng tu mười đời mới thành tựu được, thường sợ bỏ dở giữa đường, phí sạch hết công lao [tu tập] từ trước. Nếu sớm biết sẽ thành tựu ngay trong đời này thì đã sớm niệm Phật rồi. Tuổi con đã hai mươi bảy, rất hối hận đã phát tâm trễ tràng. Đáp: “Chín lần tu làm thiên tử, mười lần tu làm Phật” chính là lời nói nhảm của kẻ chẳng biết gì về Phật pháp. Người biết Phật sẽ trọn chẳng nói câu đó. Pháp môn Tịnh Độ chính là cậy vào Phật lực để liễu sanh tử, đều phải có đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, quyết định mong cầu đến lúc lâm chung vãng sanh Tây Phương. Nếu chẳng cậy vào Phật lực mà muốn liễu sanh tử thì ngàn đời vạn kiếp chẳng thể liễu thoát rất nhiều! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường, câu 1 (1931) …Hết thảy những chuyện kỳ kỳ quái quái, thiện thiện ác ác được biên chép trong bộ Xuân Thu Tả Truyện đều là những ghi chép thật sự về nhân quả. Nếu người đời sau đọc bộ sách ấy, xét nghĩ những chuyện ấy sẽ thấy rành rành họa phước vô thường, báo ứng chẳng sai vậy! Do có quỷ thần, dè dặt kinh sợ, bậc thượng trí sẽ mạnh mẽ dấy lên chí hướng ưu thời mẫn thế, gắng tu đức của chính mình; kẻ hạ ngu cũng biết nể sợ, chẳng dám làm ác. Vì thế, nhân quả thật sự là sự phòng ngừa lớn lao để ràng buộc lòng người, đáng để phụ trợ cho những chỗ mà sự cai trị của nhà vua chưa được thấu tới, mà cũng là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh, và cũng là mấu chốt khiến cho đất nước yên ổn hay loạn lạc, hưng thịnh hay suy vi từ xưa đến nay vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 10. Pháp ngữ dạy mẹ con ông Ân Đức Tăng (1936) Nếu gặp lúc trong tâm dấy lên phiền não, phải hiểu rằng đấy chính là do ác nghiệp trong đời trước xui khiến, muốn phá hoại đạo vãng sanh Tây Phương của ta, muốn khiến cho ta vĩnh viễn bị khổ vì sanh tử luân hồi, ta nay hiểu được nó muốn hại ta, ta chẳng để cho nó xoay chuyển, trừ chuyện niệm Phật ra, chẳng nghĩ đến chuyện gì khác. Như vậy thì tâm tâm tương ứng với Phật, được Phật tiếp dẫn, sẽ liền vãng sanh. Hãy nhớ kỹ lời tôi thì sẽ tự mau được lợi ích không chi lớn hơn được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 9. Pháp ngữ dạy thầy Hoa Quyền đang bị bệnh (1932) Ông đừng có si tâm vọng tưởng sợ chết. Có cái tâm sợ chết sẽ chẳng thể vãng sanh được! Chúng ta sống trong thế gian giống như loài giòi trong hầm phân, tù nhân trong lao ngục, khổ chẳng chịu đựng được! Vãng sanh Tây Phương như thoát khỏi hầm phân, lao ngục, đến quê nhà thanh tịnh an lạc tiêu dao tự tại, há nên sợ chết? Nếu có tâm niệm sợ chết, sẽ vĩnh viễn chịu khổ trong sanh tử luân hồi, vĩnh viễn chẳng có thuở thoát khổ. Nếu ông niệm ra tiếng được thì cũng nên niệm nhỏ tiếng, chẳng thể niệm ra tiếng nổi thì niệm thầm trong tâm, tai nghe người khác niệm, trong tâm cũng niệm như thế. Mắt lại dõi nhìn A Di Đà Phật (tức đức Phật được thờ trong thất), trong tâm tưởng đến A Di Đà Phật. Hễ có những niệm khác khởi lên, hãy nên tự trách: “Ta muốn cậy vào Phật lực vãng sanh Tây Phương, sao lại khởi lên những thứ ý niệm này làm hỏng đại sự của ta?” Nếu ông chịu niệm theo như lời tôi nói, chắc chắn được vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, bao kiếp vĩnh viễn thường hưởng khoái lạc, trọn chẳng phải thấy nghe mảy may sự khổ gì, há còn có những thứ khổ não tật bệnh như thế này hay sao? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 9. Pháp ngữ dạy thầy Hoa Quyền đang bị bệnh (1932) Con người sống trong thế gian ai cũng chẳng thể nào tránh khỏi nỗi khổ tật bệnh, chết chóc! Trong khi những sự khổ như vậy xảy ra, chỉ nên buông xuống muôn duyên, nhất tâm niệm “Nam-mô A Di Đà Phật”. Nếu hơi thở ngắn thì chỉ niệm bốn chữ A Di Đà Phật, nhất tâm cầu Phật từ bi tiếp dẫn ông vãng sanh Tây Phương. Trừ một niệm ấy ra, trong tâm chẳng được khởi lên mảy may tưởng niệm khác biệt nào, cũng đừng mong bệnh chóng lành, cũng chớ có tưởng niệm cầu thần cầu trời giáng phước. Hễ có những thứ tưởng niệm ấy, tâm ông sẽ bị cách ngăn với tâm đức A Di Đà Phật; do vậy sẽ chẳng hưởng được sức gia bị do lòng từ của Phật. Ông phải hiểu rằng: Trời đất cha mẹ đều chẳng thể làm cho ông thoát luân hồi sanh tử được, chỉ có đức A Di Đà Phật là có thể làm cho ông thoát luân hồi sanh tử! Giả sử ông chịu buông xuống hết thảy, nhất tâm niệm Phật thì nếu tuổi thọ chưa hết sẽ được chóng lành. Nếu tuổi thọ đã hết, liền vãng sanh Tây Phương; nhưng chớ nên cầu bệnh chóng lành, chỉ nên cầu mau được vãng sanh. Nếu tuổi thọ đã hết mà cầu lành bệnh sẽ chẳng được vãng sanh. Cầu vãng sanh thì nếu tuổi thọ chưa hết sẽ mau được lành bệnh. Vãng sanh Tây Phương có những điều hay chẳng thể nói trọn, so với những kẻ sanh lên cõi trời làm thiên đế, thiên vương vẫn cao cả hơn vô số vô lượng vạn vạn vạn vạn lần. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 9. Pháp ngữ dạy thầy Hoa Quyền đang bị bệnh (1932) Ông muốn học Y, tuy chú trọng nơi châm cứu, dược phẩm, nhưng cần phải phát đại Bồ Đề tâm, thường dùng thánh hiệu của Phật, Bồ Tát và chú Đại Bi khắp vì ta - người trì tụng, để mong đôi bên cùng được thân tâm an lạc trong đời này, lâm chung quyết định vãng sanh Tây Phương thì chẳng uổng là đệ tử Phật, tùy phần tùy sức thực hiện đạo lợi khắp ta - người. Nếu giống như những gã thầy thuốc tầm thường trong cõi đời chỉ cầu lợi, chẳng coi trọng chuyện cứu chữa người bệnh, dẫu cho giàu nứt đố đổ vách cũng chỉ được kết quả là chính mình vĩnh viễn đọa trong ác đạo, con cháu hoặc thành phường bại hoại, hoặc rốt cuộc bị tuyệt diệt! Uổng có cơ hội tự lợi lợi tha mà lại ngược ngạo biến thành cái quả tự hại, hại người, chẳng đáng thương sao? Chẳng đáng sợ sao? Sách Cảm Ứng Thiên có câu: “Họa phước không cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy”, người thông minh trong cõi đời phần nhiều đều muốn hưởng phước lạc, đâm ra chuốc lấy họa ương. Nếu ông chẳng thuận theo thói đó, ắt sẽ được “danh xứng với thật”, là bậc đại quốc thủ. Nếu không, chỉ trở thành kẻ giặc cho dân mà thôi! Lấy - bỏ thế nào, mong ông hãy tự chọn lựa! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 8. Nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của việc học nghề Y (1938) Tôi hoàn toàn chẳng biết gì về thuốc men, nhưng rất mong cho người đời đều không bệnh tật, hằng ngày trì chú Đại Bi gia trì vào nước sạch, có người mắc bệnh ngặt lâu ngày, thầy thuốc Bắc, thuốc Tây đều chẳng chữa được, [tôi cho người ấy uống nước đã được trì chú Đại Bi], dạy người ấy kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật và niệm Quán Âm, nếu thật sự chí thành sẽ lập tức xoay chuyển được tình thế, không lâu sau tự lành bệnh. Dẫu chẳng thể lành ngay, quyết cũng chẳng lẽ nào bị bệnh nặng thêm, lại còn có thể tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện căn, lại chẳng tốn kém chi! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 8. Nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của việc học nghề Y (1938) Thân bệnh có ba thứ: một là túc nghiệp, hai là nội thương, ba là ngoại cảm. Trong ba thứ bệnh này chỉ có túc nghiệp là khó trị! Nếu có thể dốc lòng thành, cạn lòng kính, phát đại Bồ Đề tâm tự lợi, lợi tha niệm thánh hiệu “Nam-mô A Di Đà Phật” và “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” để siêu độ những oan gia đối đầu đã bị [người bệnh] hãm hại trong những đời trước. Nếu họ (tức những oan gia đối đầu ấy) lìa khổ được vui thì người bệnh sẽ tiêu nghiệp, lành bệnh; họ chẳng những không còn quấy phá mà trái lại còn cảm cái ơn siêu độ nên sẽ âm thầm phù hộ. Phàm những ai mắc bệnh này và những người chữa trị bệnh ấy đều không thể không biết đến nghĩa này. Hai là nội thương, hoặc do dụng tâm quá độ, hoặc do rượu chè, sắc dục, tiền bạc, hút sách, đối với mỗi thứ đều tham ưa. Nếu có thể giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành và dùng thuốc chữa trị ắt sẽ dễ lành bệnh. Nếu chẳng chú ý nơi căn bản, chỉ cậy vào thuốc men, cũng khó thấy được hiệu quả. Dù có hiệu quả, vẫn khó giữ cho vĩnh viễn không bị tái phát. Ba là ngoại cảm, chỉ cần làm theo như cách đã nói trong phần nội thương trên đây. Dẫu có bị trúng phải gió, lạnh, nắng, mưa bên ngoài cũng hết sức dễ chữa. Nếu chẳng chú ý ngăn ngừa giận dữ, gạt bỏ ham muốn, dứt lòng tà, giữ lòng thành thì tuy là bệnh ngoại cảm vẫn chẳng dễ gì chữa trị vì bị tổn thương từ căn bản mà chỉ trị nơi cành nhánh, thật khó được lợi ích! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 8. Nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của việc học nghề Y (1938) Nguyện hết thảy những người cùng hàng ai nấy gánh vác bốn nghĩa của chữ Nhân thì nào phải chỉ mình nước ta may mắn, mà thật ra muôn nước trong thiên hạ đều hưởng may mắn sâu xa. Nếu nói: “Ông nói như thế, ông có thực hiện được mỗi một điều ấy không thiếu sót hay chăng?” Thưa rằng: “Con chim sắp chết tiếng kêu cũng bi thương, con người sắp chết cũng nói lời phải. Tôi xót cho tôi mỗi điều đều thiếu sót, chỉ mong sao hết thảy những người cùng hàng điều nào cũng chẳng thiếu sót, để mỗi một người cùng hàng lúc tuổi thọ đã hết sẽ khỏi phải xót xa sâu đậm giống như tôi vậy! Ông chẳng thấy trong kinh Vị Tằng Hữu Nhân Duyên con dã can thuyết pháp, trời Đế Thích vái lạy mà nghe đó ư? Nếu người trong khắp cõi đất đều là trời Đế Thích thì cũng chẳng đến nỗi con dã can phải mở miệng, sao ông lại cố chấp tướng nhân ngã để rồi trách móc tôi vậy? Tôi biết lỗi rồi, từ rày chẳng dám nói nữa!” - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 7. Trình bày ý nghĩa ẩn kín của chữ Nhân (人) (1938) Đức năng của con người nói tổng quát có bốn điều: 1) Nhân (人 - con người) tức là Nhân (仁), tức lòng nhân từ trắc ẩn, tự lợi, lợi tha, vì thế gọi là Nhân. 2) Nhân là Nhẫn (忍), chịu thương chịu khó, đảm đương nhiệm vụ chống trời đỡ đất, vì thế gọi là Nhân. 3) Nhân là Nhiệm (任), tận lực đảm nhiệm tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” sao cho không bị khiếm khuyết. Vì thế gọi là Nhân (Tám sự này thất phu thất phụ cũng đều làm được. Đấy chính là đại sự “giúp đỡ quyền sanh thành, trưởng dưỡng của trời đất, kế tiếp bậc thánh đời trước, khơi lối cho người học đời sau, chống đỡ trời đất” vậy. Nếu coi thường hoặc quên mất một hai sự, hoặc cả tám sự đều quên, sẽ trở thành kẻ giả dối mạo danh con người, chứ không phải là con người thật sự sánh cùng trời đất xưng là Tam Tài. Nếu suy gẫm như thế thì mong thành thánh, thành hiền, học làm Phật, làm Tổ ắt sẽ dư dùng). 4) Nhân là Tận (盡), tận hết đạo luân thường của Nho giáo để giữ vẹn luân thường, tận hết đạo tâm tánh của Phật giáo để chứng tâm, vì thế gọi là Nhân. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 7. Trình bày ý nghĩa ẩn kín của chữ Nhân (人) (1938) Gần đây, phong hóa trong cõi đời ngày một đi xuống, những người hữu tâm ai nấy đều đề xướng học Phật. Tại Vụ Nguyên, kể từ khi được cư sĩ Giang Dịch Viên đề xướng đến nay, nhân sĩ cả một vùng đua nhau phụ họa, đã có nhiều nơi lập phân xã. Ấy là vì mong được nhờ Từ quang của đức Phật để từ đó bỏ ác tu thiện, tiêu tai, lành bệnh, giặc cướp nhiều phen chẳng kéo đến, tật dịch nhiều phen không xảy ra, hễ mưa nắng trái thời thì niệm Phật cầu đảo bèn được ứng nghiệm. Người cả một vùng khâm phục lời lẽ của Dịch Viên giống như bảy mươi người khâm phục Khổng Tử vậy. Nay tại huyện thành cũng lập phân xã, trước khi mở cửa, cư sĩ Tề Dụng Tu xin Bất Huệ lược thuật những nét chánh yếu dù ẩn hoặc hiển về Phật quang, cho nên tôi trình bày những chuyện trong hơn tám chín trăm năm qua để bậc thông sáng mai sau có cái để soi xét. Còn đối với những người ắt dốc sức thực hành thì [hãy nên] giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, vâng giữ tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, thực hiện tám sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, lại còn phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật, tự hành dạy người cùng sanh về Tây Phương, cùng chứng vô lượng thọ, vô lượng quang để tâm quang của mỗi người cùng với Phật quang thường tịch và tâm quang từ Hạnh Đàn Tứ Thủy chiếu rọi lẫn nhau thì quốc gia may mắn lắm mà pháp đạo cũng may mắn lắm. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 6. Nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của việc thành lập Phật Quang phân xã tại nội thành Vụ Nguyên (1933) Còn những gì được đề xướng trong liên xã [Phật Quang Xã do cư sĩ Giang Dịch Viên lập ra] thì trọn chẳng lập ra cách thức sai khác, tức là ai nấy đều dốc tâm thực hiện ngay trong những cư xử thường ngày của chúng ta, có nghĩa là “cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành”, mỗi mỗi đều nghiêm túc trọn hết bổn phận. Như thế thì chính là người lành “chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Hơn nữa, trong khi đi lại, nói năng, làm lụng, đi, đứng, nằm, ngồi, [luôn luôn] chấp trì một câu thánh hiệu A Di Đà Phật, dùng vạn đức hồng danh của Phật để hun đúc nghiệp thức vô minh của chính mình, hun đúc lâu ngày thì vô minh nghiệp thức ấy sẽ biến thành trí huệ đức tướng. Thanh Lương quốc sư nói: “Phàm phu cắm cúi niệm Phật, niệm đến cùng cực sẽ có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu”, chính là nói về điều này vậy. Huống chi dùng lòng tin sâu đậm, nguyện thiết tha để cảm Phật, Phật sẽ dùng thệ nguyện từ bi nhiếp thọ; do đó được cảm ứng đạo giao, vạn người tu vạn người về. Lòng từ của đức Như Lai, sự nhiệm mầu của pháp môn không chi hơn được! Nếu không có túc căn sẽ chẳng thể gặp gỡ! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 5. Nêu tỏ ý nghĩa ẩn tàng của Phật Quang Phân Xã tại Xung Điền, Vụ Nguyên (1931) Sự dạy dỗ của người mẹ trong gia đình chính là căn bản khiến cho hiền tài được dấy lên đông đảo, thiên hạ thái bình. Chẳng chú trọng nơi ấy, làm sao đạt được bình trị? Mẹ dạy dỗ thì thứ nhất là thai giáo. Thai giáo chính là dạy dỗ về bẩm tánh, phẩm chất từ thuở đầu. Phàm nữ nhân sau khi có thai, hãy chú trọng suy nghĩ, tưởng niệm, xử sự sao cho chỉ một bề chân thành, cẩn trọng. Nhất cử nhất động chẳng trái lẽ chánh. Nhất là phải nên vĩnh viễn dứt trừ những món tanh tưởi, hằng ngày thường niệm Phật khiến cho thai nhi được bẩm thụ chánh khí của mẹ, thì lúc sanh nở ắt được yên vui không khổ sở, sanh được đứa con tướng mạo đoan nghiêm, tánh tình từ thiện, thiên tư thông minh. Đến lúc con bắt đầu hiểu biết, liền nói cho nó nghe về đạo lý làm người, như hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ v.v… và tội phước nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo chuyển biến, khiến cho trong tâm nó thường luôn có những điều kiêng sợ, có những điều mong mỏi, hâm mộ. Lại dạy nó niệm Phật, niệm Quán Thế Âm để mong tăng phước, tăng thọ, tránh tai, tránh nạn. Chẳng cho phép nó nói lời dối trá, nói lời thị phi, đánh người, chửi người, chẳng cho nó giẫm đạp giấy có viết chữ, giẫm đạp ngũ cốc, giẫm đạp hết thảy các món đồ vật. Chẳng cho nó ăn uống bừa bãi, chẳng cho nó tụ tập chơi giỡn cùng bọn trẻ cùng xóm. Hơi lớn lên, bèn dạy nó đọc thuộc sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, Văn Xương Âm Chất Văn, Quan Đế Giác Thế Kinh, để cho nó biết có khuôn pháp để noi theo, có những điều ngăn cấm. Đối với mỗi điều đều nói sơ lược đại ý để làm phương tiện hướng dẫn hòng mai sau nó học hành sẽ được lợi ích. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 4. Nêu tỏ ý nghĩa giáo dục trong gia đình là căn bản khiến cho thiên hạ thái bình (1938) Văn Trung Công Lâm Tắc Từ học vấn, trí thức, chí khí, tiết tháo, trung nghĩa đều ít thấy trong đời Thanh trước kia. Tuy bận bịu việc nước, ông chẳng hề gián đoạn việc tu trì Tịnh nghiệp chút nào vì học Phật chính là căn bản của học vấn, chí khí, tiết tháo, trung nghĩa vậy. Đã có được căn bản này thì ứng xử đều thích đáng, xử sự đều hợp lẽ. Đấy chính là nguyên do vì sao bậc đại nhân đời xưa vượt trỗi những hạng tầm thường. Một bữa nọ, chắt của Văn Trung Công là ông Tường, tự là Bích Dư, đưa cho tôi xem cuốn kinh gồm các bài kinh chú Di Đà, Kim Cang, Tâm Kinh, Đại Bi do Văn Trung Công đã đích thân viết, trang bìa ghi “Tịnh Độ Tư Lương”. Trên mặt cái hộp đựng sách đề Hành Dư Nhật Khóa (Khóa tụng hằng ngày trong lúc ngồi xe). Đủ biết Văn Trung Công ngầm tu pháp môn Tịnh Độ, tuy ra vào, đi lại, vẫn chẳng chịu bỏ phế. Do dùng để trì tụng lúc đi xe, cuốn kinh ấy chỉ dài khoảng bốn tấc, rộng ba tấc. Chữ viết cung kính, mực thước, không một nét bút nào cẩu thả, đủ thấy lòng cung kính, chí thành của ông, chẳng dám coi thường, chểnh mảng chút nào! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 3. Trình bày ý nghĩa ẩn kín nơi cuốn Hành Dư Nhật Khóa của Lâm Văn Trung Công (1934) Đối với pháp tắc tu trì, hãy nên thường như con nhớ mẹ, đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, im lặng, qua lại, một câu Phật hiệu miên miên mật mật! [Dẫu gặp] bất cứ sự duyên nào cũng chẳng để cho gián đoạn, nhiếp trọn sáu căn tịnh niệm tiếp nối. Người làm được như thế chắc chắn vãng sanh! Lại phải nên tâm niệm nhân từ, rộng lượng, tánh khí khiêm nhường, thuận thảo, nhẫn được những điều người khác chẳng thể nhẫn, hành được những điều người khác chẳng thể hành, chịu cực nhọc thế cho người khác, thành tựu điều tốt đẹp cho người ta. Thường nghĩ mình sai quấy, đừng bàn lỗi của kẻ khác! Bậc Đẳng Giác Bồ Tát trong mười hai thời lễ mười phương Phật để sám trừ túc nghiệp, huống là kẻ còn đang trong địa vị phàm phu! Hãy nên thường hổ thẹn, nào dám ỷ y! Nếu ỷ y, dẫu có tu trì thảy đều thuộc về ma nghiệp. Con người như thế chớ nên thân cận, để khỏi đến nỗi lâu ngày đều bị biến đổi giống như họ. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 2. Tịnh Độ Chỉ Yếu (Chỉ bày những điều trọng yếu trong pháp môn Tịnh Độ) (1931) Nếu chẳng chú trọng tín nguyện, chỉ mong trì danh cho đạt được nhất tâm, dẫu đạt được nhất tâm sâu xa, cũng khó thể liễu sanh thoát tử! Vì sao vậy? Do Phiền Hoặc chưa hết sạch, chẳng thể cậy vào tự lực để liễu sanh tử được. Tín nguyện đã không có, chẳng thể cậy vào Phật lực để liễu sanh tử! Đời có kẻ ham cao chuộng xa, thường phô phang tự lực, miệt thị Phật lực; chẳng biết từ sống đến chết không chuyện gì chẳng cậy vào sức người khác nhưng chẳng lấy đó làm thẹn, sao riêng đối với đại sự liễu sanh tử và Phật lực lại chẳng muốn tiếp nhận, [chắc là] mất trí điên khùng nên mới đến nỗi như vậy! Hành giả Tịnh tông hãy nên thống thiết răn dè! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 2. Tịnh Độ Chỉ Yếu (Chỉ bày những điều trọng yếu trong pháp môn Tịnh Độ) (1931) Phàm những ai tu Tịnh nghiệp thì điều thứ nhất là phải giữ tịnh giới nghiêm ngặt; điều thứ hai là phải phát Bồ Đề tâm; điều thứ ba là phải đầy đủ lòng tín nguyện chân thật. Giới là cơ sở, nền tảng của mọi pháp, Bồ Đề tâm là chủ soái của tu đạo, tín nguyện nhằm dẫn đường cho việc vãng sanh. Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông: Không tin sao có thể phát nguyện cho được? Không có nguyện làm sao khởi hạnh? Không có diệu hạnh trì danh, làm sao chứng điều đã tin, mãn điều đã nguyện cho được? Được vãng sanh hay không hoàn toàn là do có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn do trì danh sâu hay cạn! Tín - Nguyện - Hạnh như ba chân của cái đỉnh, thiếu một sẽ đổ nhào. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 2. Tịnh Độ Chỉ Yếu (Chỉ bày những điều trọng yếu trong pháp môn Tịnh Độ) (1931) Lúc ấy [người bệnh đang chết], có lợi nhất thì không gì bằng nhất tâm niệm Phật; điều gây hại nhất không chi bằng vọng động, khóc than. Nếu như vọng động, khóc than đến nỗi [người chết] sanh lòng sân hận hay mến luyến thì dẫu có muốn sanh Tây phương, cả vạn trường hợp cũng chẳng được một!..Thêm nữa, người sắp chết hơi nóng rút từ dưới rút lên trên là tướng siêu thăng, còn [hơi nóng] từ trên rút xuống dưới là tướng đọa lạc…Nhưng nếu mọi người chí thành trợ niệm thì [người chết] ắt tự có thể sanh thẳng về Tây phương; chẳng nên thăm dò nhiều lượt khiến cho khi thần thức [người chết] chưa rời [khỏi xác], có thể sẽ do bị kích thích như vậy mà tâm sanh phiền đau nên chẳng được vãng sanh. Lỗi lầm ấy thật là vô lượng vô biên. Xin các thân hữu ai nấy đều khẩn thiết niệm Phật, chẳng cần thăm dò hơi nóng cuối cùng bị lạnh đi ở chỗ nào…Thuyết: Ðảnh thánh, nhãn sanh thiên... là nói về khi người đã tắt hơi, toàn thân đã lạnh, chỉ còn đảnh đầu ấm thì ắt là siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nhãn sanh thiên là nếu mắt và trán còn nóng thì sanh trong thiên đạo. Riêng chỗ ngực còn ấm thì sanh vào nhân đạo. Riêng bụng còn nóng thì sanh trong ngạ quỷ đạo. Riêng đầu gối còn nóng thì sanh trong súc sanh đạo. Riêng bàn chân còn nóng thì sanh địa ngục đạo. Ðấy là do hai nghiệp thiện, ác đã tạo của người ấy lúc còn sống đến giờ đây cảm hiện như thế, chứ chẳng thể dựa vào thế lực nào để làm giả ra như vậy được. Khi đó, nếu bệnh nhân có thể chí thành niệm Phật, lại thêm sức của quyến thuộc và bạn lành trợ niệm chắc chắn có thể đới nghiệp vãng sanh, siêu phàm nhập thánh vậy. Chẳng cần phải để ý thử sờ xét nghiệm, đến nỗi làm hỏng việc! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 1. Lâm chung tam đại yếu (Ba điều quan trọng nhất lúc lâm chung) (1930) Ba ban liên tục [trợ niệm người sắp lâm chung], tiếng niệm Phật chẳng ngớt. Nếu sức bệnh nhân niệm được thì nương theo đó niệm nho nhỏ theo. Chẳng thể niệm nổi thì lắng tai nghe kỹ, tâm không có niệm gì khác thì tự có thể tương ứng với Phật vậy. Tiếng niệm Phật chẳng nên quá to; niệm to sẽ hao hơi, khó niệm lâu được; cũng chẳng thể quá nhỏ khiến cho bệnh nhân nghe chẳng rõ. Chẳng nên niệm quá mau, cũng chẳng nên quá chậm. Quá mau bệnh nhân niệm theo chẳng nổi, dẫu có lắng nghe [tiếng niệm] cũng khó nghe rõ. Quá chậm thì chẳng tiếp hơi nổi nên cũng khó có ích. Nên niệm chẳng lớn tiếng, chẳng nhỏ tiếng, chẳng rề rà, chẳng gấp gáp; từng chữ phân minh, từng câu rành mạch khiến cho từng chữ, từng câu lọt tai thấu dạ bịnh nhân; như vậy thì dễ có sức [niệm theo]. Đối với pháp khí dùng để niệm Phật, chỉ nên dùng dẫn khánh, hết thảy các thứ khác nhất loạt chẳng nên dùng. Tiếng dẫn khánh trong trẻo khiến tấm lòng người nghe thanh tịnh. Tiếng mõ trầm đục chẳng thích hợp cho việc trợ niệm khi lâm chung. Lại nữa, nên niệm Phật hiệu gồm bốn chữ. Lúc bắt đầu thì niệm vài câu sáu chữ; rồi sau đó chuyên niệm bốn chữ A Di Ðà Phật, chẳng niệm Nam Mô. Do ít chữ dễ niệm nên bệnh nhân sẽ niệm theo được hoặc nhiếp tâm lắng nghe, đều đỡ tốn tâm lực. Quyến thuộc trong nhà niệm như vậy mà thỉnh thiện hữu bên ngoài đến thì cũng niệm như vậy. Dù nhiều người hay ít người đều phải niệm như thế, chẳng nên niệm một chốc lại ngưng nghỉ, rồi lại niệm khiến cho bịnh nhân niệm Phật gián đoạn. Nếu gặp lúc ăn cơm thì nên ăn vào lúc thay phiên, đừng ngớt tiếng niệm Phật. Nếu như lúc bịnh nhân sắp tắt hơi thì cả ba ban nên cùng niệm cho đến tận sau khi đã tắt hơi hẳn rồi mới lại chia ba ban niệm suốt ba tiếng đồng hồ nữa. Sau đấy, mới ngưng niệm để lo liệu, sắp đặt mọi việc. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 1. Lâm chung tam đại yếu (Ba điều quan trọng nhất lúc lâm chung) (1930) Trước đó, đã chỉ dạy người bệnh khiến cho kẻ ấy sanh chánh tín; nhưng vì người bịnh tâm lực yếu ớt, đừng nói chi hạng người lúc còn khỏe mạnh chưa bao giờ niệm Phật, chẳng dễ gì niệm liên tục lâu dài được, ngay cả người chuyên trọng niệm Phật đến lúc ấy cũng hoàn toàn nhờ vào người khác trợ niệm thì mới có thể hữu hiệu. Vì vậy, quyến thuộc trong nhà hãy nên cùng nhau phát tâm hiếu thuận, từ bi, vì người ấy trợ niệm Phật hiệu. Nếu bệnh tình còn chưa đến nỗi sắp chết vào bất cứ lúc nào thì nên chia ban niệm Phật. Nên chia thành ba ban, mỗi ban hạn định mấy người. Ban đầu tiên niệm Phật ra tiếng, ban thứ hai và thứ ba niệm thầm. Niệm một tiếng đồng hồ thì ban thứ hai niệm tiếp; ban thứ nhất, ban thứ ba niệm thầm. Nếu có chuyện nhỏ thì nên lo liệu trong lúc niệm thầm; còn trong lúc trực ban trọn chẳng nên bỏ đi. Ban thứ hai niệm xong, ban thứ ba niệm tiếp. Xong rồi liền trở lại từ đầu. Niệm một tiếng, nghỉ hai tiếng; [như vậy thì niệm] suốt cả ngày đêm thì cũng không mệt nhọc lắm. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 1. Lâm chung tam đại yếu (Ba điều quan trọng nhất lúc lâm chung) (1930) Phải biết: Chân tánh vốn sẵn có của chúng ta và chân tánh của Phật chẳng hai; chỉ vì ta Hoặc nghiệp sâu nặng nên chẳng thọ dụng được! Nay đã quy mạng nơi Phật như con nương về với cha, chính là trở về với quê nhà ta vốn sẵn có, chứ nào có phải là điều gì ra ngoài khả năng của ta đâu! Hơn nữa, xưa kia, đức Phật đã phát nguyện: “Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu của ta mà chí tâm tin ưa, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng được vãng sanh thì chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Vì thế, hết thảy chúng sanh lúc lâm chung phát tâm chí thành niệm Phật cầu sanh về Tây phương thì không một ai là chẳng được Ngài rủ lòng Từ tiếp dẫn. Ngàn vạn phần chẳng được hoài nghi nữa! Hoài nghi tức là tự mình lầm lạc, họa ấy chẳng nhỏ đâu! Huống hồ, lìa khỏi thế giới khổ não này sanh về thế giới vui vẻ kia là chuyện hết sức sung sướng, hãy nên sanh tâm hoan hỷ, ngàn vạn phần chẳng được sợ chết! Dẫu sợ chết vẫn chẳng thể không chết, lại còn đâm ra mất phần vãng sanh Tây phương nữa, vì tâm mình trái với tâm Phật rồi! Dẫu Phật sẵn lòng đại từ bi cũng không làm thế nào được đối với chúng sanh chẳng nương theo lời dạy của Phật! Vạn đức hồng danh của Phật A Di Ðà giống như lò luyện lớn lao; tội nghiệp trong nhiều kiếp của chúng ta như một mảnh tuyết trong hư không. Nghiệp lực phàm phu do bởi niệm Phật nên nghiệp liền tiêu diệt, giống như mảnh tuyết ở gần bên lò lửa lớn liền bị tiêu hết chẳng còn gì nữa. Vả lại, huống chi nghiệp lực đã tiêu thì bao nhiêu thiện căn sẽ tự nhiên tăng trưởng thù thắng; sao lại còn ngờ chẳng được vãng sanh và Phật chẳng đến tiếp dẫn nữa ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 1. Lâm chung tam đại yếu (Ba điều quan trọng nhất lúc lâm chung) (1930) Nếu ai có cha, mẹ, anh, em và các quyến thuộc mắc phải bệnh nặng, bệnh tình khó bề thuyên giảm thì hãy nên phát tâm hiếu thuận, từ bi, khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tây phương và trợ niệm cho họ để mong người bệnh nhờ đó sau khi chết liền được sanh về Tịnh Ðộ. Sự lợi ích như thế làm sao diễn tả được? Nay tôi nêu lên ba điều trọng yếu để làm căn cứ hòng thành tựu sự vãng sanh cho người lâm chung; lời lẽ tuy thô vụng, quê kệch, nhưng ý vốn lấy từ kinh Phật. Gặp được nhân duyên này đều nên làm theo. Ba điều trọng yếu vừa nói đó chính là: * Một là khéo chỉ dạy, an ủi, khiến [người sắp mất] sanh chánh tín. * Hai là mọi người thay phiên niệm Phật để giúp tịnh niệm [cho người sắp mất]. * Ba là hết sức tránh dời động, khóc lóc, kẻo làm hỏng việc. Nếu có thể tuân theo ba pháp này để hành thì chắc chắn sẽ tiêu trừ được túc nghiệp, tăng trưởng Tịnh nhân (cái nhân để vãng sanh Tịnh Độ), được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây phương. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 1. Lâm chung tam đại yếu (Ba điều quan trọng nhất lúc lâm chung) (1930) Ðiều bi thảm nhất trong thế gian không chi bằng cái chết, nhưng người trong khắp cả cõi đời, không một ai may mắn thoát được! Vì vậy, người có tâm muốn lợi mình lợi người chẳng thể không sớm lo liệu. Thật ra, một chữ CHẾT vốn chỉ là giả danh, do kỳ hạn của quả báo chiêu cảm từ [các nhân] đời trước đã hết nên bỏ tấm thân này rồi lại thọ cái thân khác vậy. Kẻ chẳng biết Phật pháp thì đúng là không tìm được cách gì, chỉ đành mặc cho nghiệp xoay chuyển. Nay đã được nghe pháp môn Tịnh Ðộ phổ độ chúng sanh của đức Như Lai thì phải nên tín nguyện niệm Phật, sắp đặt sẵn tư lương vãng sanh, hầu mong thoát được nỗi khổ luân hồi sanh tử giả huyễn, chứng sự vui Niết Bàn thường trụ chân thật. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - V - thư 1. Lâm chung tam đại yếu (Ba điều quan trọng nhất lúc lâm chung) (1930) Pháp môn Tịnh Độ là pháp giới tạng, khế cơ và khế lý, thật là vô thượng. Bậc Đẳng Giác đại thánh, kẻ nghịch ác tiểu phàm, Luật - Giáo - Thiền - Mật, đều khắp bao hàm. Mười phương chư Phật hết kiếp tuyên dương vẫn khó nói trọn diệu nghĩa, công huân lạ lùng. Huống chi tôi là kẻ tầm thường phàm tục, ngẫu nhiên nêu tỏ được một hạt bụi trong cõi đất, một giọt nước trong biển cả, thật quá nhỏ nhoi! Tự lượng kém hèn, nếu chẳng phải đức Phật sẽ không thể độ được, cũng có những người cùng chí hướng chỉ chuyên chú nơi chuyện này; do vậy mới có đủ mọi thứ lời lẽ hủ bại. Giãi bày lòng ngu thành, chứ nào phải hoằng dương Tịnh Độ! Do các cư sĩ nghĩ những lời lẽ ấy có lợi cho hàng sơ cơ, ấn hành nhiều lượt để mong [hàng sơ cơ] có chỗ nương tựa…Nguyện những người bỏ tiền và những ai đọc tụng đều tiêu trừ nghiệp chướng, tăng cao nền phước, cửa nhà yên vui, thân tâm bình yên, mạnh khỏe, sống dự vào bậc thánh, thác về Tây Phương. Tổ tiên đã khuất, oán thân bao đời, đều nhờ lòng Từ của Phật mà chứng được diệu tâm vốn có. Can qua vĩnh viễn chấm dứt, lễ nghĩa nhân nhượng thịnh hành, nhân dân yên vui, thiên hạ thái bình, trọn báo tứ ân, giúp đều ba cõi, pháp giới chúng sanh cùng chứng Bồ Đề. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - IV - Tán - thư 43 - Bài tụng hồi hướng cho khắp mọi người trong hiện tại ấn tống và vĩnh viễn lưu truyền Văn Sao (1927) Phật tâm và chúng sanh tâm, về bản thể vốn chẳng hai. Do nhân duyên mê - ngộ nên [tâm] chẳng khác mà [tướng] thành sai khác. Nếu chịu trái nghịch trần lao, kiêm trì thánh hiệu Phật, hễ được vãng sanh Tây Phương thì sẽ đích thân đến được bờ giác. Cao đẹp thay ông Tử Kiến! Túc căn thật sâu, thác sanh vào gia đình đời đời thiện lương, giữ tấm lòng trung hậu, khoan dung. Chuộng nghĩa, khinh tài, thân - sơ đều bình đẳng quan tâm. Có tư cách lỗi lạc, nhưng chuyên trọng niệm Phật. Tịnh nghiệp đã chín muồi, biết trước lúc nào sẽ đi, quyến thuộc đều nhất tâm niệm Phật tương trợ. Vì thế, được nương nhờ Phật lực vãng sanh cõi Cực Lạc. Di tướng càng thêm rạng rỡ, ai nấy đều khen là lạ lùng, đặc biệt. Các hành nhân đời Mạt muốn thoát khỏi bẫy sanh tử, chỉ có một pháp Niệm Phật là có thể dự vào bậc thánh trong đời này. Nêu toát yếu đại lược hòng lưu lại vĩnh viễn cho con cháu, mong ai nấy đều noi theo đức của người xưa thân cận Di Đà Thế Tôn. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - IV - Tán - thư 37 - Ca tụng chuyện quy Tây của cư sĩ Khuất Tử Kiến (1931) Cao cả thay cụ Sa, túc căn rất sâu, hiếu hữu nhân từ, cả làng cùng khâm phục, tuổi đã tám mươi mới tu Tịnh Độ, phát trọn ba tâm, mong sanh Thượng Phẩm, tâm sẵn có, tâm tạo tác, tâm làm, tâm là. Giải lẫn hạnh đều viên dung, Lý - Sự nhất trí. Vì thế, khi lâm chung được an nhiên qua đời, đỉnh đầu ấm, vẻ mặt rạng rỡ, để biểu thị đã thật sự đến được [Cực Lạc]. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - IV - Tán - thư 36 - Ca tụng đức cao đẹp của ông Sa Tuyết Phảng (1933) Cao cả thay ông Từ! Xưa đã trọn đủ huệ căn, hiếu hữu, nhân từ, tận hết bổn phận, trọn vẹn luân thường, nghiêm cẩn tuân theo lời tổ tiên giáo huấn, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tu hạnh niệm Phật, mong sanh cõi Tịnh. Tuổi trung niên tận lực đảm nhiệm việc khắc in kinh điển để nối tiếp huệ mạng của Phật hòng giúp cho cả Mật lẫn Hiển. Thời cuộc chẳng yên, càng ưa - chán thiết tha, nương nguyện về Tây, đại sự giải quyết xong, được Phật thọ ký, liền trở lại Sa Bà, tiếp dẫn khắp hàm thức cùng thân cận Di Đà. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - IV - Tán - thư 35 - Ca tụng chuyện sanh Tây của cư sĩ Từ Úy Như Pháp môn Tịnh Độ dạy dỗ không phân biệt, phàm - thánh, trí - ngu đều được bình đẳng nhiếp thọ. Hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, chỉ có mỗi pháp này hoàn toàn cậy vào Phật lực, Phật lực khác biệt tự lực một trời một vực. Tín nguyện ức niệm quyết định sanh về nước Phật. Bao nhiêu người tín niệm, bấy nhiêu người vãng sanh. Phật có lời thệ nguyện, nay đã tỏ lộ dấu hình: Nữ sĩ Trí Nghi tâm niệm Phật tha thiết, niệm chưa được mấy năm đã được Phật đón tiếp. Nguyện người thấy nghe ai nấy chăm chú tu trì, để dự vào hội Liên Trì, vui sướng nào hơn! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - IV - Tán - thư 34 - Ca tụng pháp môn Tịnh Độ thù thắng (nhờ đó nữ cư sĩ Trí Nghi vãng sanh) Đời gần đây, các nơi không nơi nào chẳng thờ tượng Di Lặc nơi tiền điện, chẳng gọi là Di Lặc Điện mà lại gọi là Thiên Vương Điện, đúng là coi ngài Di Lặc như khách ăn nhờ ở đậu các Thiên Vương, quá mất ý nghĩa tôn kính! Linh Nham tu bổ tiền điện, nhân đấy tôi bèn nói nguyên cớ với giám viện là đại sư Diệu Chân, lại trích lục chương Thiện Tài tham học với ngài Di Lặc từ kinh Hoa Nghiêm để chứng tỏ ngài Di Lặc đức vượt trỗi Thập Địa, đạo đã chứng Đẳng Giác, từ bi cứu vớt chúng sanh, nếu không phải là Phật sẽ chẳng thể biết được! Do vậy, bèn đặt tên [cho tiền điện] là Di Lặc Lâu Các để mong sau này ai bước vào đó sẽ đều giống như Thiện Tài hoặc trong đời này hoặc trong đời mai sau, ai nấy đích thân chứng được đạo trong lâu các, để an ủi tấm lòng đại từ bi “luôn dạy cho người đương thời” của ngài Di Lặc. Hơn nữa, các nơi thờ tượng Di Lặc chính là tượng Bố Đại hòa thượng do ngài Di Lặc thị hiện vào cuối đời Đường. Nay đã biết là do Di Lặc thị hiện thì cố nhiên hãy nên thờ bổn tượng vi diệu trang nghiêm. Nhằm tỏ rõ ngài đang sống trên Đâu Suất Thiên nên tạc tượng ngài đội mũ Ngũ Phật để làm tiêu thức. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 17 - Bi ký thuật công đức trùng tu Di Lặc Lâu Các của Linh Nham Sơn Tự (cuối Hè 1940) Thiện Tài đảnh lễ, Di Lặc đối trước đại chúng cùng đi với Ngài, tán thán Thiện Tài là chân Phật tử, là chân pháp khí. Lại vì Thiện Tài nói đủ mọi công đức của tâm Bồ Đề hòng bồi đắp nền tảng thành Phật, dạy vào trong Đại Lâu Các quan sát trọn khắp sẽ biết rõ cách học Bồ Tát hạnh. Học xong sẽ thành tựu vô lượng công đức. Thiện Tài bạch rằng: “Kính xin Đại Thánh mở cửa lâu các cho con được vào!” Ngài Di Lặc khảy ngón tay ra tiếng, cửa liền mở ra, bảo Thiện Tài vào. Vào xong cửa đóng lại. Thấy lâu các ấy rộng rãi vô lượng giống như hư không. Mặt đất và cung điện, hết thảy vật cúng đều dùng vô lượng các thứ báu để hợp thành…Khi đó, Thiện Tài rạp mình lễ kính, vừa mới mọp đầu đã tự thấy thân mình trọn khắp trong hết thảy các lâu các, lễ khắp hết thảy Phật - Pháp - Tăng, thấy đủ các thứ cảnh giới tự tại chẳng thể nghĩ bàn…Thiện Tài ở trong lâu các thượng cầu hạ hóa, trải số kiếp nhiều như số vi trần trong cõi Phật siêng năng, chuyên ròng tu trì đủ mọi diệu hạnh mà chẳng mỏi mệt, nhất tâm tiến thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề. Khi ấy, Di Lặc Bồ Tát liền thâu hồi thần lực, vào trong lâu các, khảy ngón tay ra tiếng, bảo Thiện Tài: “Thiện nam tử! Hãy dậy đi, pháp tánh như vậy đó. Đây chính là trí biết các pháp của Bồ Tát, [biết các pháp] là tướng được hiện bởi nhân duyên tụ tập. Tự tánh như thế giống như huyễn, như mộng!” Do vậy, Đại Lâu Các ấy chính là pháp giới tạng. Phàm tất cả những sự vi diệu trong pháp giới không gì chẳng thấy trọn vẹn trong lâu các này. Đó gọi là “mười pháp giới xưa - nay, từ đầu đến cuối chẳng lìa một niệm hiện tại, vô biên cõi nước, ta - người chẳng cách biệt chừng bằng mảy lông!” Nếu không có thần thông đạo lực của Di Lặc, Thiện Tài cạn lòng thành tận lòng kính, làm sao đạt được như vậy? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 17 - Bi ký thuật công đức trùng tu Di Lặc Lâu Các của Linh Nham Sơn Tự (cuối Hè 1940) Di Lặc là đấng giáo chủ của thế giới Sa Bà sẽ giáng sanh trong tương lai, Lâu Các là phòng ốc nơi đức Di Lặc ở khi Thiện Tài đi về phương Nam tham học. Nhà nhiều tầng là Lâu, lầu cao là Các. Lâu các này thắng diệu khôn sánh, phàm phu, Nhị Thừa, Quyền Vị Bồ Tát đều chẳng thể thấy được! Đấy chính là báo cảnh do công đức thắng diệu thượng cầu hạ hóa của đức Di Lặc từ vô lượng kiếp đến nay cảm thành. Thiện Tài đã tham học với hai vị thiện tri thức là Đức Sanh và Hữu Đức xong, họ lại dạy Thiện Tài đi qua Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng Đại Lâu Các trong vườn Đại Trang Nghiêm ở nước Hải Ngạn tại phương Nam thỉnh giáo Di Lặc Bồ Tát: “Vị Bồ Tát ấy ắt sẽ có thể vì ngươi nói diệu pháp khế lý khế cơ rốt ráo, khiến cho ngươi được đại lợi ích”. Do vậy, Thiện Tài cực lực đối trị tập khí phiền não, cực lực tu trì đạo Giới - Định - Huệ, đến trước Tỳ Lô Giá Na Đại Lâu Các ở nước Hải Ngạn, năm vóc mọp sát đất, nguyện thấy đức Di Lặc, nói kệ tán thán, bèn thấy Di Lặc Bồ Tát từ chỗ khác đi tới. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 17 - Bi ký thuật công đức trùng tu Di Lặc Lâu Các của Linh Nham Sơn Tự (cuối Hè 1940) Liên Hoa Am bốn mặt đều là nước, chính giữa nổi lên một bãi bồi, cất am trên ấy, thờ Tây Phương Tam Thánh, chuyên thỉnh vị Tăng có giới đức làm Trụ Trì. Cảnh sắc thanh u, chẳng bén hồng trần, tu trì nghiêm mật, giới đức lan xa, dùng cừ chặn khúc sông trước mặt am làm ao phóng sanh. Từ đời Minh đến nay, thời gian đã lâu xa. Hiện tại có những vị thân sĩ trong ấp như Cù Lương Sĩ, Bàng Đức Siêu v.v… hết sức muốn chỉnh đốn, và muốn làm sáng tỏ ý nghĩa trọng yếu và lợi ích của việc phóng sanh, cậy tôi soạn bài văn để thưa cùng bậc sáng suốt trong mai sau. Trộm nghĩ: Phóng sanh vốn nhằm để đề xướng kiêng giết ăn chay. Nếu con người ăn chay trọn đời sẽ trở thành không phóng mà hóa ra là phóng sanh lớn lao vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 16 - Bi ký về ao phóng sanh của Liên Hoa Am tại Thường Thục (1934) Năm Dân Quốc 21 (1932), tức năm Nhâm Thân, nhằm độ tuổi tri mạng (50), ngày mồng Tám tháng Tư gặp đúng hôm thánh đản đức Thích Ca Văn Phật , vào lúc bảy giờ sáng, ông [Châu Tử San] thị hiện chút bệnh nhẹ, cảm thấy hông lưng đau nhức, bảo người xoa nắn nhè nhẹ cho dễ chịu. Tự mình ngồi xếp bằng ngay ngắn hướng về Tây, chuyên tâm xưng niệm A Di Đà Phật. Thanh âm rõ ràng, rồi cúi đầu qua đời. Người nắn lưng thấy [cư sĩ] im lặng hồi lâu chẳng ừ hử gì liền thăm dò hơi thở nơi mũi mới biết cư sĩ đã bỏ báo thân này vãng sanh Tây Phương rồi! Lúc ấy mùi hương lạ ngập nhà, năm ngày sau mới tan. Tướng lành như vậy có thể nói là chánh niệm phân minh, xả báo an tường như nhập Thiền Định, tức là được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương chẳng còn mảy may nghi ngờ, bàn tán chi nữa! Ôi! Đang trong lúc kiếp trược khổ chẳng kham nổi này, cư sĩ đến lúc lâm chung mới thị hiện chút bệnh, chỉ trong khoảnh khắc liền ngồi mà mất, đã nêu tấm gương lớn cho những kẻ chịu đựng khổ sở chẳng kham nổi! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 15 - Bài ký về chuyện cư sĩ Châu Tử San sanh Tây Cư sĩ húy Dục Anh, hiệu Tử San, là cháu đích tôn của vị đại thương gia đất Cát An tỉnh Giang Tây tức tiên sinh Châu Phù Cửu. Mất cha mẹ từ bé, do bà nội là Đàm Thái Phu Nhân chăm bẵm thành người, bẩm tánh thông minh, sáng suốt, hiếu học, ưa tìm tòi, nhân từ, hòa nhã, lòng dạ rỗng rang tựa hang trống, sanh trưởng trong nhà phú quý nhưng chẳng có mảy may thói quen kiêu căng, xa hoa. Ra làm quan, hoàn toàn chú trọng trung thực, giữ lòng từ ái…Đến khi cáo quan về ở ẩn, đóng cửa ngầm tu dưỡng, ngẫu nhiên đọc nội điển (kinh Phật) liền biết Phật pháp là căn bản của hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian, tạo phước lợi cho xã hội, phổ độ chúng sanh đều toàn nhờ vào Phật pháp cả! Vì thế, liền quy y với lão pháp sư Đế Nhàn chùa Quán Tông, được đặt pháp danh là Trí Tạng. Từ đấy, ăn chay trường, niệm Phật, kiêng giết, bảo vệ sanh vật, đối xử người khác bằng lòng khoan dung, trung hậu, tự sống đạm bạc, bạn bè thường vay mượn nhưng chẳng nề hà, hết thảy chuyện lành đều khảng khái giúp cho thành tựu. Nêu gương giúp kẻ đói rét là chuyện thường làm, thực hiện những điều lành thế gian đều dùng tâm Bồ Đề để hồi hướng hòng tạo duyên tăng thượng thù thắng nhất hòng vãng sanh Tây Phương. Lại thấy lòng người hiểm ác, thời sự mỗi ngày một sai trái nên càng dốc sức làm lành, lòng ưa - chán càng sâu. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 15 - Bài ký về chuyện cư sĩ Châu Tử San sanh Tây Mùa Xuân năm ngoái, chùa Linh Nham dựng tháp này, phỏng theo cách ấy nhưng sửa đổi thành hai loại Phổ Thông và Đặc Biệt. Phổ Thông là phía dưới đào bốn cái huyệt, phía trên dựng bốn cái tháp, xương của chúng nào thì đặt túi đựng cốt vào trong lỗ huyệt thuộc tháp của chúng đó. [Tháp] Đặc Biệt là phía trên dựng khám thờ Phật để thờ Tây Phương Tam Thánh, phía sau làm một cái khám nhỏ đề thờ bài vị của người nhập tháp. Phía dưới dùng xi-măng (cement) xây thành tầng ngầm, chia ra hai gian Đông và Tây. Mỗi gian chia thành bốn khu, mỗi khu nhìn ra hai hướng, mỗi hướng gồm sáu nhóm, mỗi nhóm là bao nhiêu đó ô đựng cốt, tổng cộng là một ngàn ba trăm chín mươi chín ô. Gian phòng thờ được chia thành bốn bộ phận: một là tỳ-kheo, hai là tỳ-kheo-ni, ba là ưu-bà-tắc, bốn là ưu-bà-di. Hỏa thiêu xong, đựng tro trong hũ sứ, đem từ khám thờ Phật xuống đặt trong tầng ngầm. Nếu đã nạp lệ phí, ghi danh sẵn, ước định sẽ đặt vào nhóm nào, ô nào thì bất luận nhập tháp lúc nào vẫn xếp theo đúng ước định. Nếu không, người nhập tháp trước sẽ được xếp đằng trước, người nhập sau xếp đằng sau. Phía trên [tầng ngầm] xây năm gian nhà lớn, ba gian chính giữa là khám thờ Phật, phía dưới là tháp đặc biệt. Bốn tháp ở phía Đông và phía Tây sau khám thờ chính là tháp Phổ Thông. Hai gian hai bên dùng làm chỗ ở cho vị trông coi nhang đèn, nước nôi và những vị già cả không thể ở chung với chúng được. Chuyên nhất niệm Phật suốt năm để người mất thường được nghe Phật hiệu, phẩm sen tăng cao, người còn sống đau đáu nghĩ tới vô thường, gấp cầu vãng sanh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 14 - Bi ký về việc Linh Nham Sơn Tự xây dựng tháp Phổ Đồng cho tứ chúng (1938) Từ khi Phật pháp truyền sang phương Đông, Tăng chúng đều [an táng theo cách] hỏa thiêu. Những bậc cao nhân thông đạt, sùng tín Phật pháp đời Đường đời Tống cũng thường dùng cách này vì Phật pháp trọng thần thức, chỉ sợ đắm chấp thân xác, chẳng thể giải thoát được! Thiêu đi thì sẽ biết đấy chẳng phải là ta, không còn đắm chấp nữa. Lại vì [người đã khuất] tụng kinh niệm Phật, mong họ chứng được Pháp Thân. Nho giáo trọng hình tích, còn thần thức thăng hay giáng trọn chẳng để ý tới, nên làm quan quách cho bền chắc để mong xác thân thường còn, chẳng bị biến hoại. Hiện nay, cả nước mở mang đường tàu hỏa, đường xe hơi, đào lên những hài cốt vô chủ nhiều không thể kể xiết, thảm thương chẳng nỡ nhìn! Những bậc cao nhân hiểu biết đều muốn sửa đổi cách an táng. Chùa Thiên Ninh ở Thường Châu có tháp Tứ Chúng Phổ Đồng: Đào một cái huyệt lớn, trong chia thành bốn ngăn, phía trên xây tháp bốn mặt, mỗi mặt đều trổ cửa. Phàm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, hay ưu-bà-di đều đem các túi đựng cốt đặt vào trong những lỗ huyệt. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 14 - Bi ký về việc Linh Nham Sơn Tự xây dựng tháp Phổ Đồng cho tứ chúng (1938) Phật, Bồ Tát hiện thân trong dị loại để dứt sát kiếp cho cõi đời, thấy trong khắp các sách vở. Đọc phần Hiện Tướng Trong Loài Vật của sách Quán Âm Bổn Tích Tụng sẽ biết được đại khái. Do đức Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật nên chẳng nỡ tàn sát lẫn nhau, [kẻo bị] vĩnh viễn chìm đắm trong ác đạo. Đây chính là những thứ biến hiện khiến cho con người thấy nghe mà kinh sợ, chẳng thể không suy nghĩ cặn kẽ sâu xa ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 13 - Bi ký thuật duyên khởi hạ viện Linh Nham Sơn Tự lập thêm hội phóng sanh bên ao phóng sanh (1936) Chư Phật, Bồ Tát vì cứu sát kiếp mà hiện thân trong dị loại, cũng bị con người giết. Đã giết rồi, thấy các tướng lạ mới biết là do Phật hiện, nhân đấy ai nấy đều kiêng giết. Trong năm Dân Quốc 20 (1931), Quang từng vì ông Lưu Công Lỗ ở Quý Trì (thuộc tỉnh An Huy) viết bài tán làm lời bạt cho bài ký [về chuyện] tượng Phật hiện trên răng hàm lợn như sau: “Hết thảy chúng sanh, đều có Phật tánh. Do mê trái nên đánh mất lẽ chánh, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, ăn thịt kẻ khác để bồi bổ cái thân mình. Sát nghiệp đã kết, trải nhiều kiếp giết lẫn nhau. Đức Như Lai thương xót, bèn làm thuyền từ, khơi mở giáo huấn lớn lao về lòng Từ. Người ta vẫn không tin nên Phật bèn đặc biệt hiện hình dáng để mong chúng sanh tùy thuận [lời Phật dạy]. Vỏ nghêu sò, hông bò, móng dê, răng lợn, yếm rùa, đều có hình Phật ngự [trong ấy]. Có người họ Chức vào đời Tống giết lợn quăng đầu, chó giữ bốn ngày chẳng dám táp. Đuổi chó chẻ xương, trên răng hàm lợn hiện hình Phật. Mắt biếc, búi tóc xoắn ốc, nghiễm nhiên là bậc Đại Giác. Trước khi chưa giết, [mọi người] đều nói là “súc sanh”, đã giết xong mới biết là Phật. Do vậy, biết sát sanh chẳng khác gì giết Phật, dẫu chẳng phải do Phật hiện cũng là vị lai Phật. Giết để ăn thịt, tội quá non biển! Hãy gấp đau đáu ngăn dè, hòng được giải thoát! Anh em họ Triều làm văn tán dương, nghĩa lý uyên thâm, văn từ sáng đẹp, ông Thiên Trì biên chép, các vị đề tựa, viết lời bạt, để làm bài cảnh sách vĩnh viễn nhằm khơi gợi hậu giác. Đã hiểu nghĩa này, ai dám giết chóc? Tranh thành, giành đất sẽ chấm dứt ngay. Ông Lưu ở Quý Trì, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, bảo tồn sách của ông Từ, lời đề tựa, lời bạt đều phù hợp, sai con là Công Lỗ đem đưa cho xem, kính viết mấy lời tỏ bày chí hướng của tôi. Nguyện kẻ thấy nghe sẽ ăn chay kiêng giết, chắc chắn trong đời này sẽ về Cực Lạc” - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 13 - Bi ký thuật duyên khởi hạ viện Linh Nham Sơn Tự lập thêm hội phóng sanh bên ao phóng sanh (1936) …Những vị thuộc hội Cứu Giúp Loài Vật trước kia như các ông Dương Đạt Toàn, Viên Hiếu Cốc, Tào Tung Kiều v.v… và vị phát khởi lần này là hòa thượng Chân Đạt, cư sĩ Huệ Thường, các vị Tăng - tục tổ chức một hội phóng sanh. Phàm những người gia nhập hội đều nên kiêng giết, ăn chay, lấy thân làm gương thì những người ưa điều lành ai mà chẳng giống như ta, nhìn nhau bắt chước làm lành, hiệu quả rất lớn! Nếu chẳng thể đoạn ngay được thì cũng nên giảm dần dần, giảm đến cùng cực thì sát nghiệp vĩnh viễn chấm dứt. Nếu một người suốt đời chẳng giết thì những sanh mạng được sống sót đã chẳng thể tính được, huống chi là từ một người cho tới mười, một trăm, một ngàn, một vạn người, sẽ trở thành không phóng sanh mà thường hành phóng sanh rộng khắp vậy! Gần đây sát kiếp ngập tràn, hễ giặc cướp kéo đến, dân chúng đều gặp cảnh lầm than, đôi bên chẳng hề biết nhau, vừa thấy nhau liền giết phăng, hoặc đánh đập, tra khảo, nung đốt để lòi ra tiền của. Luận theo cuộc sống hiện thời, quả thật là mắc họa ngang xương! Nhưng hễ có quả ắt phải có nhân, có nhân ắt phải chuốc lấy quả! Thử nghĩ xem, người đời vì bụng miệng mà giết hại sanh mạng đủ mọi nỗi thảm khốc, ai có thể chịu đựng được? Nhưng do quen thói, chẳng những không sanh lòng thương xót, lại ngược ngạo nẩy lòng vui sướng, đến nỗi tuần hoàn báo đền, trở thành kiếp vận lớn lao này! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 13 - Bi ký thuật duyên khởi hạ viện Linh Nham Sơn Tự lập thêm hội phóng sanh bên ao phóng sanh (1936) Đức lớn của trời đất là Sanh, gốc lớn của nhân dân là Thiện. Sanh thì thực vật, động vật đều sanh thành, Thiện thì yêu người thương vật đều cùng thực hành. Càn là đại phụ, Khôn là đại mẫu, dân là người ruột thịt của ta, loài vật giống như ta. Nếu chẳng khiến cho dân lẫn loài vật được sống yên vui, làm sao hợp lòng trời? Muốn cho quyến thuộc cõi trời thường rủ lòng thương xót, hãy nên gấp rút chú trọng nơi lòng nhân ái. Được như thế, mưa gió sẽ đúng thời, thóc lúa trúng mùa, nhân dân yên vui, thiên hạ thái bình. Dù chỉ luận về phương diện cá nhân thì cũng được nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận, phước tăng, sống dự vào bậc thánh hiền, mất sẽ lên cõi Cực Lạc. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 13 - Bi ký thuật duyên khởi hạ viện Linh Nham Sơn Tự lập thêm hội phóng sanh bên ao phóng sanh (1936) Trộm nghĩ phàm phu đầy dẫy triền phược lấy mê nhiễm làm căn bản để thọ sanh, bậc Pháp Thân đại sĩ dùng bi trí làm nguồn ứng hóa. Vì thế, đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ta đạo chứng Lưỡng Túc , đức trỗi Thập Địa, thành Chánh Giác đã lâu, an trụ Tịch Quang, do Bi nguyện rộng sâu nên chẳng động Chân Tế mà hiện thân trong các cõi nhiều như vi trần. Trong thế giới này, ngài thị hiện làm Bồ Tát, dùng sức đại trí phù tá Thích Ca, thị hiện ứng hóa tại núi Thanh Lương như trong kinh Hoa Nghiêm đã báo trước. Vì thế, khi đại pháp được truyền sang phương Đông, [Ngũ Đài] liền được khai sơn, từ đấy trở đi, đời nào cũng có cao nhân hoằng dương pháp hóa, lợi ích quần manh. Từ đời Hán đến nay, tiếp nối chẳng dứt. Đến khoảng niên hiệu Thành Hóa đời Minh, có thiền sư Cô Nguyệt Tịnh Trừng Thiền lẫn Tịnh đều đạt đến tột bậc, tiếng tăm đạo hạnh nhân đấy vang dội. Vua đất Đại là Thành Luyện thờ Sư làm thầy, dựng chùa ở Hoa Nghiêm Cốc để cung phụng, xin được vua xuống chiếu ban biển tên Bích Sơn Phổ Tế Thiền Tự, pháp đạo hưng thịnh lớn lao, tông phong rạng rỡ. Đầu đời Thanh, thiền sư Uẩn Chứng Như Bích trụ trì chùa này, lâu dần được vua quan tôn kính. Đầu thời Khang Hy, đổi tên chùa thành Hộ Quốc. Đến cuối đời Thanh, bậc triết nhân đã khuất, chùa khá điêu linh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 12 - Bi ký về việc chùa Bích Sơn núi Ngũ Đài được thảo am Quảng Tế tiếp pháp thành tựu , vĩnh viễn trở thành thập phương thường trụ (1929) Hơn nữa, khi Quang mới xuất gia, thấy các vị thiền tăng khắp Nam Bắc lên núi triều bái, tụ tập bàn đến chuyện Ngọc Lâm Quốc Sư tâm liền khinh thường họ, cho là những hạng tăng nhân này không những chẳng biết tâm tướng của Phật, Bồ Tát mà cũng chẳng biết tâm tướng của thánh hiền thế gian, chỉ dùng tri kiến của bọn vô lại đầu đường xó chợ bịa đặt đồn đãi để vu báng, miệt thị cổ đức, tội cùng cực đến đâu! Về sau, đọc Niên Phổ của Quốc Sư thì những gì bọn họ đã nói ngay cả một câu cũng không có, mà những điều chép trong Niên Phổ bọn họ cũng chưa hề nghe thấy một câu nào! Do vậy, biết những lời nói lưu truyền trong cõi tục chẳng đáng tin tưởng! Kính mong bậc quân tử hiểu lý đừng coi những lời lẽ đó là chuyện thật, rồi vì đó mà coi thường cổ đức, khinh miệt Phật pháp thì sẽ tự gieo được thiện căn sâu dầy, được gội pháp trạch lớn lao vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 11 - Bài ký về việc trùng tu tháp viện của Đại Từ Lão Nhân (1930) Nay vị Trụ Trì đã về hưu là Giới Công, thấu hiểu sâu xa tấm lòng hiếu thảo của Quốc Sư [Ngọc Lâm], đặc biệt trùng tu, dựng lại đình, bia, xây tường vây quanh, cũng dựng lại bia mộ mới, lát con đường đá hơn mười trượng, vun trồng cây cối để lấy bóng mát ngõ hầu những ai sau này đến đây đều biết tới tháp viện của bậc cao ni đắc đạo là Đại Từ Lão Nhân mẹ của quốc sư Ngọc Lâm, do đó sẽ khởi lòng kính ngưỡng, ai nấy giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, lợi lạc cứu giúp người lẫn vật, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tự hành, dạy người, để mong sanh được đứa con phước đức trí huệ, hễ nghèo túng thì riêng bản thân kẻ ấy tốt lành, làm gương cho cả một làng, một ấp, hễ hiển đạt thì sẽ làm cho người khác cùng thiện, để lợi lạc, cứu giúp khắp bốn biển chín châu! Do vậy, soạn bài ký. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 11 - Bài ký về việc trùng tu tháp viện của Đại Từ Lão Nhân (1930) Đến năm Thuận Trị 15 (1658), đạo phong thấu đến bề trên, tháng Chạp sứ giả cầm chiếu đến triệu Sư [Ngọc Lâm] về kinh lập tức. Sư lấy cớ sắp dựng tháp chôn mẹ để từ tạ, [vua xuống] chiếu rằng: “Đợi khi gặp Sư hỏi đạo xong liền đưa Sư về núi chôn mẹ, quyết chẳng giữ lâu”. Tháng Ba năm sau, Sư lên kinh đô chầu vua, vua dùng lễ đãi Sư như thầy, phong hiệu là Đại Giác Phổ Tế Năng Nhân Quốc Sư. Đến tháng Tư, Sư từ tạ chốn cung khuyết trở về Nam, tìm được miếng đất phía sau chùa Tạng Hải ở Ngu Sơn bèn dựng tháp cho Đại Từ Lão Nhân, nhân đó lập ra chùa Tạng Hải, sai đệ tử là Đức Nham Thiệu làm Trụ Trì. Như vậy, nguồn pháp Tạng Hải do Đại Từ Lão Nhân khởi đầu; kẻ làm pháp tự phải quan tâm. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 11 - Bài ký về việc trùng tu tháp viện của Đại Từ Lão Nhân (1930) Tháng Tư năm ấy, tức năm Giáp Dần thuộc niên hiệu Vạn Lịch 42 (1614) đời Minh, liền sanh ra Sư [Ngọc Lâm]. Lúc sanh, bà mẹ là Mậu Thị mộng thấy Quán Âm ẵm một đứa bé trao cho, liền sanh ra Sư. Thêm nữa, cha mẹ Sư thường giảm bớt sự chi tiêu của chính mình để mua những con vật đem phóng sanh. Cha mẹ Sư hiếu hữu nhân từ như vậy đó! Năm sau, cha Sư quy y với đại sư Liên Trì, có pháp danh là Quảng Phức, cũng xin quy y cho Sư, được pháp danh là Đại Tiềm. Đến năm mười hai tuổi, lúc cha Sư sắp mất, bèn đối trước tượng ngài Liên Trì, cầu cao tăng thay mặt [cho đại sư Liên Trì] xuống tóc, thuyết giới [cho cụ]; nửa tháng sau cụ mất. Năm mười chín tuổi, Sư lễ ngài Khánh Sơn xin xuất gia. Chưa đầy hai năm đã đại triệt, ngài Khánh Sơn rất coi trọng, dặn dò Sư hãy xuống tóc, thuyết giới cho mẹ, đặt pháp danh là Thông Quang. Năm Sư hai mươi hai tuổi, ngài Khánh Sơn thị tịch tại chùa Báo Ân, Sư giữ tâm tang hầu hạ bên khám thờ đồng thời lo liệu việc trong chùa. Năm sau, Tăng - tục thỉnh Sư kế nhiệm, trăm điều đã bỏ phế đều được tiến hành, tông phong chấn hưng lớn lao. Năm hai mươi chín tuổi, tuân theo di mạng của ngài Khánh Sơn, Sư thay ngài Khánh Sơn xuống tóc, thuyết giới cho mẹ, lại đón về chùa Báo Ân, dựng nhà tranh để phụng dưỡng suốt đời, gọi là Đại Từ Lão Nhân. Bà cụ chuyên tu Tịnh nghiệp, kiêm tu tham cứu, liền được đại ngộ. Mười một năm sau, tức năm Sư bốn mươi tuổi, nhằm năm Thuận Trị thứ mười (1653) đời Thanh, Đại Từ Lão Nhân thị tịch, thọ bảy mươi mốt tuổi. Sư ở trước khám thờ ngồi xếp bằng trên mặt đất suốt bảy ngày đêm, chẳng đụng đến một hạt gạo! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 11 - Bài ký về việc trùng tu tháp viện của Đại Từ Lão Nhân (1930) Xem rộng khắp những bậc anh hiền lỗi lạc xưa nay, tài năng tót vời, tại gia thì lập đại công, dựng đại nghiệp, thờ vua giúp dân, nêu gương cho hậu thế, xuất gia thì triệt ngộ tự tâm, thâm nhập kinh tạng, dạy dỗ lợi lạc trời - người, nối tiếp huệ mạng của Phật thì đều là do đức hạnh cao đẹp của ông bà cha mẹ cảm thành. Nếu không, làm sao sanh được con cháu hiền tài siêu quần bạt tụy, giúp đỡ hết thảy như vậy được ư? Người ta chỉ thấy quốc sư Ngọc Lâm đạo đức cao vời, ngộ chứng sâu thẳm, trên cảm động cửu trùng , dưới hóa độ tứ chúng, Phật tổ, tâm ấn, đại pháp chiếu khắp nhân quần, sống tươi chết héo , khuôn mẫu tốt đẹp lưu lại đời sau, chẳng biết đấy đều là do ông nội và cha mẹ Ngài đã giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, lợi người giúp vật, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tự hành, dạy người mà ra! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 11 - Bài ký về việc trùng tu tháp viện của Đại Từ Lão Nhân (1930) Trụ Trì chùa Lăng Vân là hòa thượng Quả Tĩnh đã muốn cung thỉnh Đại Tạng từ lâu, để những người có đại chí trong hàng Tăng - tục đều được nghiên cứu, xem đọc, nhưng lầu chứa kinh chưa xây, thỉnh về sẽ không có chỗ để. May sao năm Dân Quốc 18 (1929), pháp sư Vinh Nham cùng cư sĩ Vương Húc Đông đến chùa vãn cảnh, nhân đó nói chuyện thỉnh kinh cần phải dựng lầu, hai vị liền khẳng khái mỗi người giúp năm trăm đồng. Do vậy, bèn dốc hết sức lo toan, nung ngói, mua gỗ, khởi công từ tháng Giêng năm Dân Quốc 23 (1934) đến tháng Tư năm nay mới hoàn thành. Lầu ấy gồm bảy gian, cao năm trượng sáu thước, hai bên lầu dựng năm gian nhà mỗi bên để làm chỗ nghỉ ngơi cho người đọc kinh. Đã lên Bắc Bình thỉnh kinh, trước khi kinh về tới, đã sai Quang soạn bi ký về việc xây dựng lầu tàng kinh; do vậy bèn viết đại lược về nguyên do lập chùa và những nghĩa trọng yếu của Đại Tạng cùng số hòm, số quyển để những bậc thông sáng đời mai sau đều thấu hiểu cặn kẽ. Kính mong nền tảng đất nước vững bền, đạo bình trị hưng thịnh, Phật nhật thêm sáng, pháp luân thường chuyển, đàn-việt tín chủ hưởng phước, tăng chúng an hòa, binh đao vĩnh viễn chấm dứt, mưa gió thuận thời! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 10 - Bi ký ghi công đức xây dựng lầu Tàng Kinh chùa Đại Phật Lăng Vân (1935) Bậc thượng căn lợi trí đối với mỗi chữ một câu trong những kinh [trong Đại Tạng] này, nếu tâm hồn thông hiểu liền có thể tự lợi, lợi tha, tự lập, lập người. Tiếp đó lại chí thành, khẩn thiết thọ trì, đọc tụng, y giáo phụng hành, hiểu nhân quả, rõ tội phước, dùng thân xướng suất người khác, ngõ hầu hết thảy mọi người nhìn vào bắt chước làm lành thì đối với pháp môn, đối với xã hội đều có lợi ích. Nếu hoàn toàn chẳng có ý niệm cung kính, chỉ cầu đa văn, hoặc lầm lạc dùng ý kiến ức đoán để luận định nghĩa lý sâu xa trong kinh thì tuy là nhân lành lại chắc chắn chuốc lấy quả ác! Nguyện những người đọc ai nấy hãy gắng công! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 10 - Bi ký ghi công đức xây dựng lầu Tàng Kinh chùa Đại Phật Lăng Vân (1935) Còn như kinh văn trong giáo pháp của cả Đại Tạng được chia thành ba phần là Kinh, Luật, Luận, nên có tên là Tam Tạng. Tạng có nghĩa là “sâu chắc, u viễn, lấy để sử dụng chẳng bị cạn kiệt!” Nếu đối với mỗi một chữ, một câu mà có thể thâm nhập thì sẽ thông suốt hết thảy pháp, hiểu hết thảy nghĩa. Vì thế, Lục Tổ của Thiền Tông nghe một câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (hãy không trụ vào đâu để sanh tâm) bèn nối tiếp ngôi vị Tổ; hành nhân Liên Tông thường trì sáu chữ “nam-mô A Di Đà Phật” liền có thể ngay trong đời này sanh về nước Cực Lạc, dự vào hội Liên Trì. Ba tạng Kinh, Luật, Luận ấy từ Thiên Trúc truyền sang, trong bộ Khai Nguyên Thích Giáo Lục đời Đường đã chép [kinh điển nhà Phật] có đến năm ngàn bốn mươi tám (5.048) quyển. Từ đấy, liên tục dịch thêm cũng chẳng ít, nhưng cũng có những quyển bị thất lạc! Hiện thời, Đại Tạng Kinh đời Thanh (Càn Long Đại Tạng Kinh) từ chữ “Thiên, Địa, Huyền, Hoàng” đến chữ Tất trong câu “Tất Thư Bích Kinh” gồm có bốn trăm tám mươi lăm (485) hòm , tức bốn ngàn tám trăm năm mươi quyển. Trước thuật thuộc phương này (Trung Hoa) gồm thích kinh, tông kinh, các sớ luận và truyện ký, ngữ lục v.v… từ chữ “Thư, Bích, Kinh” đến câu “Lưỡng Sớ Kiến Cơ” mới hết, gồm hai trăm ba mươi chín (239) hòm, tức hai ngàn ba trăm chín mươi quyển, tổng cộng là bảy ngàn hai trăm bốn mươi quyển. Bộ này được khởi công khắc từ tháng Hai năm Ung Chánh mười ba (1735) đến ngày Rằm tháng Chạp năm Càn Long thứ ba (1738) mới hoàn thành. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 10 - Bi ký ghi công đức xây dựng lầu Tàng Kinh chùa Đại Phật Lăng Vân (1935) …Pháp môn [Tịnh Độ] này chính là nhằm tiếp độ thượng căn, tiếp độ kèm thêm hàng trung - hạ; vì thế, Thiện Tài đã chứng Đẳng Giác, Phổ Hiền Bồ Tát bèn dạy dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên mãn Phật quả, cũng như khuyên khắp các vị Bồ Tát thuộc Hoa Tạng hải chúng nhất trí tiến hành, bởi đây là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Đời có những kẻ bẩm tánh thông minh đôi chút thường coi rẻ pháp môn Tịnh Độ, chẳng chịu tu trì, chẳng những tự lầm, lầm người, mà đúng là còn hủy báng Phật pháp nữa! Như Hoa Tạng hải chúng là các vị Đại Sĩ đã chứng Pháp Thân thuộc bốn mươi mốt địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, dùng công đức của mười đại nguyện vương để hồi hướng vãng sanh Tây Phương hầu mong mau chứng viên mãn Bồ Đề, trở về Phật quả “không có gì để đạt được”. Những vị ấy là hạng người như thế nào, chuyện ấy là chuyện như thế nào, ta là hạng người nào mà dám chống đối các vị ấy? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 10 - Bi ký ghi công đức xây dựng lầu Tàng Kinh chùa Đại Phật Lăng Vân (1935) …Đức Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật chưa thành, tùy thuận cơ nghi của họ mà trước hết nói Ngũ Giới Thập Thiện thuộc Nhân Thiên Thừa, rồi nói Tứ Đế của Thanh Văn Thừa, rồi nói Thập Nhị Nhân Duyên của Duyên Giác Thừa, rồi nói đến Lục Độ Vạn Hạnh của Bồ Tát Thừa, rồi nói đến phước lẫn huệ cùng trọn vẹn, tịch chiếu cùng dung thông, hết sạch Tam Hoặc, vĩnh viễn mất hai thứ chết, viên mãn Bồ Đề, trở về chỗ “không có gì để đạt được” của Phật Thừa. Lại nghĩ chúng sanh kém hèn, không cậy vào sức thệ nguyện rộng sâu của Phật Di Đà chắc chắn khó lòng liễu sanh thoát tử ngay trong đời này được, nên đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ngõ hầu bọn phàm phu đầy dẫy Hoặc nghiệp nương vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Đã được vãng sanh thì Hoặc nghiệp đã hết, đã chứng địa vị thánh, so với những kẻ chỉ cậy vào tự lực thì sự khó - dễ dù hết cả năm cũng chẳng thể nói trọn! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 10 - Bi ký ghi công đức xây dựng lầu Tàng Kinh chùa Đại Phật Lăng Vân (1935) Đối với những đế lý được nói trong kinh Phật, cố nhiên chẳng dễ gì tỏ rõ, nêu được những điều quan trọng là Luận. Tứ thánh, lục phàm, nhân quả của mười pháp giới vốn trong một tâm. Đối với bản thể của tâm, phàm - thánh chẳng hai, chúng sanh và Phật hệt như một, nơi phàm chẳng giảm, tại thánh không tăng, thường hằng khắp xưa - nay, chẳng đổi dời, chẳng biến chuyển, Thể tuy bất biến, Dụng thường tùy duyên. Thuận theo tịnh duyên, do công đức có sâu hay cạn mà có chứng quả Thanh Văn, chứng quả Duyên Giác, chứng quả Bồ Tát, chứng quả Phật sai khác. Tuy Thanh Văn là nhỏ nhất, nhưng đã đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, thường hưởng pháp lạc, chẳng thọ thân sau nữa. Theo nhiễm duyên, do Hoặc nghiệp nặng hay nhẹ mà có sanh lên đường trời, sanh trong đường người, sanh trong đường A Tu La, sanh trong đường súc sanh, sanh trong đường ngạ quỷ, sanh trong đường địa ngục khác biệt. Dẫu trời - người là cao nhất, vẫn là đầy dẫy Hoặc nghiệp, sanh tử luân hồi, thường ở trong tam giới, lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra. Mười pháp giới ấy do một tâm của chính đương nhân tạo ra, thăng - trầm, khổ - vui khác biệt vời vợi một trời một vực; nhưng thể tánh của cái tâm ấy vẫn thường tự như như, nơi phàm chẳng nhiễm, tại thánh chẳng tịnh. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm nói: “Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (nếu ai muốn hiểu rõ hết thảy Phật ba đời, hãy quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ tâm tạo). - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 10 - Bi ký ghi công đức xây dựng lầu Tàng Kinh chùa Đại Phật Lăng Vân (1935) Năm Dân Quốc thứ 9 (1920), ông Trang Tư Giam ở Thường Châu triều bái Phổ Đà, đem theo ba bức “mễ Phật” (tượng Phật hiện trên hạt gạo) đưa cho xem. Những tượng ấy trang nghiêm vi diệu, cả cõi đời không thể sánh bằng, ấy chính là tượng đứng do thiên nhiên tạo thành, dưới hạt gạo vẫn còn vòng cám. Hễ ai thấy nghe đều cảm kích ân Phật. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 10 - Bi ký ghi công đức xây dựng lầu Tàng Kinh chùa Đại Phật Lăng Vân thuộc huyện Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên (1935) Ở chùa Lăng Vân xưa kia, thế nước chảy xiết[1], thuyền đi ngang bị đụng vỡ gây hại rất lớn. Đầu đời Đường, thiền sư Hải Thông thấy vậy thương xót, muốn tìm cách cứu vớt, che chở, bèn tạc một bức tượng Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật ngồi trên núi, cao đến ba mươi sáu trượng, [kích thước của] tòa sen Ngài ngồi chẳng tính vào trong [con số ba mươi sáu trượng ấy]. Do nguyện lực của Sư nên cảm được đức Phật rủ lòng Từ gia hộ, nước đổi dòng, chạy sát vào chân núi, nổi lên một bãi cát bồi để người ta có thể sống được [ở đó]. Ý Sư cho rằng ngài Di Lặc là đức Đương Lai Thế Tôn lòng Từ không ai hơn được, tạo bức tượng lớn này chẳng những chỉ muốn cậy vào Phật từ lực để cứu giúp, che chở thuyền bè qua lại mà còn vì mong mỏi sâu xa những kẻ thấy nghe sẽ nạp vào tám thức điền tạo thành một đại nhân duyên hòng trong đời này phát tâm tu trì, vãng sanh Tây Phương, tương lai trở vào Sa Bà phù tá [Di Lặc Phật] trong hội Long Hoa. Sư đến hết đời vẫn chưa hoàn thành được công trình, đến niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường Đức Tông [công trình] mới hoàn thành. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 10 - Bi ký ghi công đức xây dựng lầu Tàng Kinh chùa Đại Phật Lăng Vân thuộc huyện Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên (1935) Phật - Pháp - Tăng Tam Bảo là đèn đuốc cho đêm dài vô minh, là thuyền bè trong biển khổ sanh tử, không riêng gì người có chí mong đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử phải nên nương tựa, mà ngay cả những ai chuyên tâm nơi “minh đức, thân dân, trị quốc, an bang” cũng phải lấy việc “sáng tỏ diệu lý tâm tánh, nêu rõ sự thực nhân quả” làm một trợ duyên lớn lao cho việc xoay chuyển lòng người, phụ trợ nền bình trị của nước nhà vậy. Vì thế, xưa kia, những bậc lập đại công, dựng đại nghiệp, lòng trung lòa nhật nguyệt, hạo khí lấp trời đất, phần nhiều do học Phật đắc lực mà ra, không ai chẳng dốc sức nơi trang nghiêm tượng Phật, lưu thông kinh Phật, hộ trì Tăng chúng tu hành, mong cho hết thảy nhân dân đều cùng do Trụ Trì Tam Bảo mà ngộ nhập Nhất Thể Tam Bảo , đích thân chứng được Chân Như Phật Tánh sẵn có nơi tâm này. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 10 - Bi ký ghi công đức xây dựng lầu Tàng Kinh chùa Đại Phật Lăng Vân thuộc huyện Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên (1935) Hiện thời do khoản quyên góp hữu hạn, lại thêm thời cuộc khó khăn chẳng dễ gì quyên mộ, chỉ có cách tốt nhất là thu nhỏ phạm vi để khỏi bị bó tay. Đại điện dựng năm gian lầu cao, phía trên thờ Đại Tạng Kinh bản đời Tống mới được ấn hành và làm chỗ xem kinh. Phía dưới là đại điện, niệm Phật cũng ở chỗ đó. Hai bên đều dựng mười mấy gian để làm nhà khách, nhà kho, nhà bếp, phòng để bế quan. Cửa Tam Quan chính là điện Di Lặc, Vi Đà . Phạm vi tuy nhỏ, nhưng nói chung hình thức đầy đủ. Trước đó, đã sắp xếp mười mấy vị tăng thật lòng tu đạo, tích cực tu trì để cầu vận nước tốt đẹp, hưng thịnh, tai họa tiêu diệt, mưa - nắng đúng thời, thiên hạ thái bình. Tất cả việc đả thất hoặc cầu siêu cho vong linh, hoặc cầu thọ, do bài vị được thờ sau khám thờ Phật sẽ được nghe tiếng Phật hiệu suốt năm, giúp ích cho thần thức cũng lớn lắm. Phương danh công đức cho lần xây dựng này được khắc trong một tấm bia khác. Nếu có vị đại công đức chủ [phát tâm hộ trì] thì số người thường trụ nơi đây sẽ được tăng thêm. Kính mong những vị sống trong chùa này đều cùng phát tâm “tự lợi, lợi tha, cùng sanh Tây Phương”, ngõ hầu khỏi phụ bạc sự giáo hóa của Phật, chẳng phụ rẫy tánh linh của chính mình, báo trọn bốn ân, giúp khắp ba cõi vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 9 - Bi ký ghi duyên khởi sáng lập chùa Pháp Vân bên sông Tam Xoa tại Nam Kinh (1933) Hơn nữa, việc này [quyên mộ xây dựng chùa Pháp Vân] do Quang phát khởi nên [thầy Tâm Tịnh] bảo Quang soạn bi ký nhằm thưa với những người thông sáng mai sau. Trong năm Dân Quốc 11 (1922), lúc mua đất, đã bàn bạc quyết định chương trình là đạo tràng chuyên tu Tịnh nghiệp, quanh năm niệm Phật, công khóa mỗi ngày giống như phổ thông Phật thất. Nhất loạt chẳng giảng kinh, truyền giới, truyền pháp, thâu nhận đồ đệ, làm chuyện kinh sám thù tạc. Trụ Trì bất luận Thiên Thai, Hiền Thủ, Lâm Tế, Tào Động, nếu giới hạnh tinh nghiêm, thông hiểu giáo lý, tin tưởng Tịnh Độ sâu xa, chí mong lợi người thì đều có thể mời đảm nhiệm [chức Trụ Trì]. Nếu những mặt khác đều xuất sắc, chỉ có với Tịnh Độ chẳng hề chú ý thì quyết chẳng thể thỉnh được! Trụ Trì luận theo tuổi hạ, đức hạnh, chẳng luận trên thế hệ truyền thừa, do [theo lệ] truyền hiền chứ không theo lệ thầy truyền cho trò. Trong Niệm Phật Đường, mỗi ngày vị Trụ Trì hoặc người trưởng ban nói về Tịnh Độ và giới luật, khai thị một lần để các sư phát tâm tăng thượng thù thắng. Có vị tín sĩ nào hâm mộ đạo phong nơi này xin mở Niệm Phật Thất để cầu cho cha mẹ được tăng tuổi thọ, cầu siêu linh hồn của tổ tông, tiêu trừ tội khiên do chính bản thân, hoặc vun đắp nền phước cho con cháu thì vẫn cứ niệm Phật như thường lệ, chỉ thêm vào ba lượt hồi hướng mà thôi! Lễ Diệm Khẩu cũng nhất quyết không thực hiện, nhằm ngăn ngừa hạng Tăng ứng phó thừa cơ ẩn nấp phá hoại đạo tràng . Phàm những ai xin mở Phật thất chỉ được đến một hai người để tỏ lòng kính trọng, lễ bái, nhưng phải ra về ngay trong ngày hôm ấy. Nếu tụ họp bạn bè đông đảo và đem theo quyến thuộc nữ giới trẻ tuổi ở lại cho đến khi viên mãn mới về thì quyết chẳng chấp thuận. [Nhưng 1926, Linh Nham Sơn Tự đã thực hiện điều này trước hết] - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 9 - Bi ký ghi duyên khởi sáng lập chùa Pháp Vân bên sông Tam Xoa tại Nam Kinh (1933) Năm Dân Quốc 19 (1930), ông Phác Quân quy Tây, hai cuốn sổ ấy [sổ vàng Bốn Mươi Tám Nguyện nhằm quyên mộ khoản tiền xây dựng Pháp Vân] con ông ta là Hàn Phân giao lại cuốn đầu, cuốn sau bị thất lạc, nên không biết được tên những người quyên mộ, cũng như do có người đã qua đời hay chuyển chỗ ở nên tuy có tên trong sổ cũng khó lòng thâu hết được. Mấy năm qua, khi kinh phí cho Cô Nhi Viện chẳng đủ đã tự tiện dùng tiền lời của khoản tiền ấy [để bù đắp]; vì thế, trọn chẳng tăng thêm được. Năm ngoái, ông Mai Tôn quy Tây, ông Ấu Nông do thấy Quang và ông ta đều là khách chẳng còn ở lâu trong cõi đời này, nếu chẳng gấp rút lo toan, sau này chắc sẽ bị mất tích, bèn quy định biện pháp cho khởi công động thổ, sắm sửa vật liệu, mùa Xuân năm nay sẽ đứng ra đốc thúc xây cất. Gặp đúng lúc chánh phủ cử ông ta làm ủy viên chánh phủ tỉnh Thiểm Tây kiêm nhiệm chức vụ trưởng ty dân sự vụ tỉnh Thiểm Tây, giữ nhiệm vụ trông nom xây dựng, nên mọi việc giao lại hết cho thầy Trụ Trì Tâm Tịnh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 9 - Bi ký ghi duyên khởi sáng lập chùa Pháp Vân bên sông Tam Xoa tại Nam Kinh (1933) Chùa Pháp Vân phỏng theo đạo tràng niệm Phật phóng sanh do chùa Vân Thê đã lập. Nguyên do là vì trong tháng Tám năm Dân Quốc thứ mười (1921), Quang sang Dương Châu để khắc in sách, ông Vương Ấu Nông đi cứu trợ ở Nam Kinh, theo lời ước hẹn đến thăm viếng. Ngày hôm sau đến thăm ông Lưu Viên Chiếu, ông Ngụy Mai Tôn cũng đến gặp, cho biết chính ông ta “khá tin tưởng Phật pháp, đã từng đọc Văn Sao của thầy, gần đây cũng niệm Phật, nhưng hận rằng nghiệp chướng, tập khí sâu dầy, chẳng thể ăn chay được!” Quang bảo: “Bệnh ấy dễ trị, xin hãy đem bài sớ [kêu gọi tu bổ] ao phóng sanh [chùa Cực Lạc] ở Nam Tầm đọc kỹ, đảm bảo ông sẽ ăn chay được!” Vào tháng Mười, ông ta liền ăn chay trường, lòng đau đáu nghĩ tưởng sát kiếp tràn lan đều do sát sanh ăn thịt cảm thành, nhân đấy bèn miệt mài đề xướng niệm Phật, phóng sanh, mong sao người và vật đều được sống yên vui, đều được vãng sanh Tây Phương. Năm sau, [ông Mai Tôn] cùng với Ấu Nông, Bàng Tánh Tồn, Diệu Liên, Tâm Tịnh v.v… thương lượng mua chừng đó mẫu đất của ông Phương Tuấn Sanh bên sông Tam Xoa để thực hành chuyện ấy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 9 - Bi ký ghi duyên khởi sáng lập chùa Pháp Vân bên sông Tam Xoa tại Nam Kinh (1933) Như Lai vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện trong cõi đời. Gọi là “đại sự” là vì muốn cho hết thảy chúng sanh đều khai - thị - ngộ - nhập tri kiến Phật, ai nấy đều được thành Phật mới thôi. Do chúng sanh căn tánh lớn - nhỏ khác biệt, nên pháp môn của đức Như Lai có Quyền - Thật bất đồng. Vì vậy, tâm phổ độ chúng sanh của Như Lai chưa được thỏa mãn lớn lao. Bởi thế, đặc biệt mở ra một pháp “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương” để dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này thoát khỏi cõi khổ này, sanh sang nước vui sướng kia. Bậc thượng căn sẽ mau chứng Pháp Thân, kẻ [căn cơ] trung - hạ cũng đều cùng lên Bất Thoái, khiến cho chúng sanh cùng thoát sanh tử, thỏa thích bản hoài xuất thế của Như Lai. Lợi ích ấy chẳng thể diễn tả được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 9 - Bi ký ghi duyên khởi sáng lập chùa Pháp Vân bên sông Tam Xoa tại Nam Kinh (1933) Hiển Trung do chủ trì đã lâu, bị già - chết bức bách, ý muốn thoái ẩn, hòng chuyên tu Tịnh nghiệp. Do vậy trình bày với Quang về duyên khởi, lai lịch của điện này, cậy tôi viết bài ký. Do vậy, tôi bèn trình bày đại lược sự rộng lớn cao sâu của pháp môn Tịnh Độ, [cũng như] do sự tu trì tinh tấn của mọi người trong điện này nên được thiện tín khâm phục, ngưỡng mộ, hộ trì, nhằm thành tựu đạo tràng thù thắng nhiệm mầu “tu chân ngay trong cõi tục, tự lợi, lợi tha” này, ngõ hầu hết thảy mọi người đều biết “ở ngoài thế giới [giống như] nhà cháy này, vốn có quê hương thanh tịnh yên vui tột bậc”, cùng chuẩn bị tư lương Tín - Hạnh - Nguyện để trở về nhà, mong sao đích thân thấy được bậc cha mẹ đại từ bi là A Di Đà Phật, liền được cùng với Phật chứng vô lượng quang thọ. Nguyện ai nấy gắng sức, nguyện mỗi người hãy gắng công lên! (Tam môn chính là ba môn giải thoát Không, Vô Tướng, Vô Tác, nhưng một môn có đủ cả ba nghĩa giải thoát này vậy) - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 8 - Bi ký thuật duyên khởi của Tây Phương Điện tại Vô Tích (1933) Thuở đầu, bà Siêu Tắc lòng nhàm chán sanh tử mong mau được liễu thoát, được hai người chú là các tiên sinh Ngưng Phong và Đạo Nam chỉ dạy pháp môn Tịnh Độ, bèn phát tâm kết xã đồng tu Tịnh nghiệp. Lúc ban đầu, lập hội trong Thạch Sư Am; tiếp đó, sáng lập điện này để tự có thể chủ trì được việc này. Tới năm Tuyên Thống thứ hai (1910), bà sắp về Tây, bèn mời khắp các vị hương thân, cao niên, thiện tín hộ pháp đến, giao cho bà Học Tây kế tục đảm nhiệm mọi việc. Nối tiếp bà Học Tây chủ trì đến nay là bà Hiển Trung. Bà Hiển Trung xưa đã gieo huệ căn, hiếu học, chuyên tu, thường nương theo bà Siêu Tắc tu trì tại đây. Gần đây bà lãnh đạo tịnh hữu rất được tiếng khen. Trong điện từ trước đến nay khóa tụng sáng tối, ba thời niệm Phật quy củ nghiêm túc, tu trì tinh tấn, khiến cho kẻ thấy nghe đều sanh lòng chánh tín. Do vậy, [những người] bỏ mê về với ngộ, chuyển tà thành chánh mà chẳng hề hay biết không thể đếm xuể được! Gần đây, liên xã thành lập như rừng, tiếng niệm Phật chở đạo chưa hề [có nơi nào] chẳng phải do điện này phát khởi vậy! Lại ở trước cửa dành ra hai phân năm ly đất, dự tính mai sau sẽ dần dần mở rộng cuộc đất ra. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 8 - Bi ký thuật duyên khởi của Tây Phương Điện tại Vô Tích (1933) Phàm những ai tham dự liên xã đều phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện, giữ gìn tám đức “hiếu, đễ, lễ, nghĩa, trung, tín, liêm, sỉ”, dốc chí nơi tám sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, ắt sẽ khiến cho Nho tông nhờ Phật pháp mà được phục hưng, sự giáo hóa của Phật do hàng Nho sĩ mà được truyền rộng rãi, bù đắp thiên kiến “trong lòng sùng phụng, ngoài mặt chống trái”, tự lầm, lầm người của tiền nhân, dạy đời sau quy củ rộng lớn “sống trong cõi trần học đạo, tự lập, lập người”. Ba người cùng đi ắt có [người] là thầy ta; một ấp mười nhà, ắt có [nhà] trung tín. Ai cũng đều có thể là Nghiêu - Thuấn, ai cũng đều có thể thành Phật. Người ta là trượng phu, mình cũng là trượng phu, chớ nên tự khinh rồi cam phận lui sụt, ngõ hầu chẳng cô phụ Phật tánh sẵn có nơi tâm mình và đại pháp liễu thoát ngay trong đời này! Nguyện khắp những người đến [với liên xã này] đều ghi nhớ chớ quên thì may mắn lắm thay! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 7 - Bi ký về chuyện Hương Quang Liên Xã thuộc Hương Sơn Thảo Am ở Ngô Huyện xây dựng Tam Thánh Điện (1934) Trụ Trì Hương Sơn Thảo Am ở Ngô Huyện là đại sư Thanh Thiền và các cư sĩ tại địa phương đã sáng lập Hương Quang Liên Xã từ lâu, nay đặc biệt xây cất năm gian Tây Phương Tam Thánh Điện ở phía Đông thảo am. Những tăng nhân sống trong am suốt năm tu tập, Tăng - tục tham dự liên xã định kỳ cử hành, sắm sửa đầy đủ kinh sách Tịnh tông để mọi người đọc tụng. Ngày Rằm mỗi tháng mọi người đều tụ lại, niệm Phật một ngày, hễ thuận tiện bèn giảng diễn tông chỉ của pháp môn Tịnh Độ ngõ hầu những người tu trì hiểu thấu triệt tự tâm, chẳng đến nỗi miệng nói cầu sanh Tây Phương mà lòng vẫn nhớ tưởng cõi này đến nỗi công phu sắp thành nhưng vì mắc lỗi hiểu lầm [đến nỗi] mong thoát sanh tử mà vẫn đọa luân hồi! Lại còn chỉ dạy cặn kẽ nhân quả, thuật đủ tội phước. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 7 - Bi ký về chuyện Hương Quang Liên Xã thuộc Hương Sơn Thảo Am ở Ngô Huyện xây dựng Tam Thánh Điện (1934) Đức Như Lai thương xót, tùy theo từng căn bệnh của chúng sanh mà ban thuốc, bảo họ: “Tâm tham - sân - si chẳng phải là cái tâm vốn có của các ngươi, tâm các ngươi vốn viên minh tịnh diệu như tấm gương sáng sạch, trọn chẳng có một vật nào! Hễ có vật ở trước gương thì không vật nào chẳng được soi trọn vẹn. Vật đến chẳng cự tuyệt, vật đi chẳng lưu giữ. Giữ được tánh thiên chân của ta, chẳng bị chuyển theo vật. Mê tâm đuổi theo cảnh thì gọi là ngu phu. Trái trần hợp giác liền dự vào dòng thánh”. Nếu con người biết được điều này, tâm bệnh sẽ lành. Tâm bệnh đã lành, thân bệnh chẳng có cội gốc nữa, dẫu cảm xúc lạnh - nóng cũng chẳng bị nguy hiểm. Tâm đã chánh thì thân sẽ chánh theo. Do đã không có tình niệm tham - sân - si, sẽ do đâu mà có những hạnh hèn tệ giết - trộm - dâm cho được? Ai nấy đều như thế thì dân là đồng bào, loài vật giống như ta, đối đãi bình đẳng, nào còn có chuyện tranh đất, giành thành, tàn sát lẫn nhau nữa ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 7 - Bi ký về chuyện Hương Quang Liên Xã thuộc Hương Sơn Thảo Am ở Ngô Huyện xây dựng Tam Thánh Điện (1934) Đức Đại Giác Thế Tôn khéo trị những căn bệnh nơi thân nơi tâm chúng sanh, khéo làm cho thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui. Tâm bệnh có những thứ nào? Chính là tham - sân - si. Đã có những bệnh ấy, tâm chẳng thể chánh được, những ý niệm thuận theo tình kiến, trái nghịch lý sẽ ồ ạt dấy lên. Những niệm ấy đã khởi, ắt sẽ muốn thỏa lòng ham muốn của chính mình, cái tâm hèn tệ giết - trộm - dâm sẽ ngay lập tức biến thành sự thực. Đấy gọi là “do Hoặc tạo nghiệp, do nghiệp chuốc khổ trải trần điểm kiếp chẳng thuở nào xong!” Đức Như Lai thương xót, tùy theo từng căn bệnh của chúng sanh mà ban thuốc, bảo họ: “Tâm tham - sân - si chẳng phải là cái tâm vốn có của các ngươi, tâm các ngươi vốn viên minh tịnh diệu như tấm gương sáng sạch, trọn chẳng có một vật nào! Hễ có vật ở trước gương thì không vật nào chẳng được soi trọn vẹn. Vật đến chẳng cự tuyệt, vật đi chẳng lưu giữ. Giữ được tánh thiên chân của ta, chẳng bị chuyển theo vật. Mê tâm đuổi theo cảnh thì gọi là ngu phu. Trái trần hợp giác liền dự vào dòng thánh”. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 7 - Bi ký về chuyện Hương Quang Liên Xã thuộc Hương Sơn Thảo Am ở Ngô Huyện xây dựng Tam Thánh Điện (1934) …Chuyện trợ niệm quan hệ rất lớn. Đang trong lúc tánh mạng sắp chấm dứt ấy, nhằm lúc phán định thăng - trầm, mà đã có người khai thị, hướng dẫn, trợ niệm, ví như kẻ khiếp nhược tránh giặc tính ngồi thuyền trốn xa, được mọi người nâng đỡ, liền có thể vọt lên thuyền, liền được ngồi yên ổn đến tận bờ kia. Nếu là người không được khai thị, hướng dẫn, trợ niệm, ắt sẽ mắc cái họa phá hoại chánh niệm, đừng nói người công phu chưa sâu chẳng thể liễu thoát, dẫu là người Phật niệm đã thuần vẫn khó vãng sanh! Ví như dũng sĩ phá vòng vây lọt ra, tính ngồi thuyền thoát đi, bị mọi người chèo kéo, ngay lập tức té xuống vực sâu. Siêu phàm nhập thánh hay vẫn luân hồi y như cũ chỉ trong một hơi thở này! Lẽ được - mất quá nửa nằm trong tay vị Trụ Trì, một phần ít nằm trong tay những người giữ chức trách. Nếu vị Trụ Trì hay những vị có chức trách thấy người khác chết giống như cha mẹ, thầy, bạn của chính mình chết ắt sẽ cực lực trợ niệm đúng pháp, thành tựu vãng sanh. Đã được vãng sanh, lâu dần ắt sẽ viên thành Phật đạo. Thành tựu một người vãng sanh chính là thành tựu một chúng sanh thành Phật; công đức ấy há thể diễn tả được ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 6 - Bi ký về việc chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai sáng lập ba viện dưỡng lão, dưỡng bệnh và trợ niệm (1934) Người làm Trụ Trì và những vị có chức trách hãy nên coi người khác già - bệnh - chết giống như chính mình già - bịnh - chết, ắt sẽ lo liệu ổn thỏa, chắc chắn chẳng chịu quấy quá cho xong chuyện thì đạo đức hiện tại sẽ ngày một cao quý, phẩm sen vãng sanh càng thù thắng vậy! Huống chi cổ nhân tạo dựng tùng lâm vốn là vì người già kẻ bệnh mà lập, cũng như khiến cho tăng chúng đông đảo có chỗ nương tựa, người học ùn ùn có nơi để tham học, thừa sự. Có ai chẳng già? Có ai không bệnh? Ai mà không chết? Nếu chẳng đặc biệt lập ra một viện thì người già, người bệnh, thân tâm khó yên. Thân tâm đã chẳng yên thì niệm Phật cầu vãng sanh sẽ bị chướng ngại. Đấy chính là nguyên do thành lập riêng hai tòa điện đường Dưỡng Lão và Dưỡng Bệnh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 6 - Bi ký về việc chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai sáng lập ba viện dưỡng lão, dưỡng bệnh và trợ niệm (1934) Đầu thời Càn Long nhà Thanh, Bảo Lâm Trân Công trùng hưng, điện đường, liêu xá mới toanh rạng ngời, nhưng còn ba viện chưa đủ sức để thành lập. Một là Dưỡng Lão vì bậc danh đức các phương, bậc kỳ cựu trong chùa, tuổi già lắng lòng chuyên lo tu tập đạo nghiệp của chính mình nhưng chưa có một tòa viện chuyên biệt thì làm sao giúp cho Tịnh nghiệp được? Hai là Dưỡng Bệnh: Thập phương tăng lữ cô quạnh một thân, đã đến chùa này nương tựa thì chính là người ruột thịt, hễ bị bệnh tật chẳng thể theo đại chúng, bèn dời đến nơi này để an dưỡng mong cho chóng lành. Nếu tuổi thọ sắp hết sẽ đưa sang Trợ Niệm Đường. Ba là Trợ Niệm, phàm người bệnh nặng sắp mất, sẽ chuyển sang viện này. Thường Trụ liền phái người luân phiên trợ niệm. Trụ Trì hay người trưởng ban sẽ khai thị, hướng dẫn người [sắp mất] ấy, để người ấy toàn thân buông xuống hết, nhất tâm niệm Phật. Trước mặt người ấy nên thờ tượng Phật tiếp dẫn, để người ấy tâm niệm, miệng niệm, tai nghe, mắt nhìn, trừ đức Phật ra, không còn nghĩ gì khác nữa, ngõ hầu chánh niệm rạng rỡ, theo Phật vãng sanh. Đây chính là một đại sự khẩn yếu tột bậc của chốn tùng lâm hoằng pháp lẫn người xuất gia tu hành. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 6 - Bi ký về việc chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai sáng lập ba viện dưỡng lão, dưỡng bệnh và trợ niệm (1934) Xét từ khi đại giáo được truyền sang phương Đông, tuy có môn đình Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnh bất đồng, nhưng không một môn nào chẳng lấy vãng sanh Tịnh Độ làm chỗ quy túc! Núi Thiên Thai là đạo tràng của Trí Giả đại sư. Đại sư dùng Ngũ Thời Bát Giáo để phán thích giáo pháp cả một đời đức Như Lai nhưng vẫn chú trọng nơi một môn Tịnh Độ. Tuy chưa thấy được phần kinh văn quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm nhưng đã lập pháp ngầm hợp, đủ thấy Phật và Tổ vốn [thở] cùng một lỗ mũi! Chùa Quốc Thanh là ngôi chùa được xây trên nền đất [ngôi chùa] lúc Đại Sư sắp nhập Diệt Định . Đến nay đã một ngàn ba trăm mấy chục năm, tuy trải qua nhiều lượt biển dâu, có khi hưng, khi phế, nhưng nhờ được cao nhân làm Trụ Trì, cho đến hiện thời đạo phong vẫn chẳng suy sụp. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 6 - Bi ký về việc chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai sáng lập ba viện dưỡng lão, dưỡng bệnh và trợ niệm (1934) Phổ độ chúng sanh cô đơn quạnh quẽ không nơi nương tựa, thỏa thích lớn lao bổn hoài xuất thế của đức Như Lai. Trên là Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, dưới là tội nhân Ngũ Nghịch, Thập Ác cực nặng đều là căn cơ được thâu nhiếp bởi pháp này. Chúng ta trên chẳng bằng được các vị như Văn Thù v.v… dưới chưa đến nỗi giống như hàng Ngũ Nghịch, Thập Ác, há lẽ đâu chẳng mạnh mẽ phát ra đại chí ngõ hầu vượt ngang ra khỏi tam giới ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 6 - Bi ký về việc chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai sáng lập ba viện dưỡng lão, dưỡng bệnh và trợ niệm (1934) Sa Bà là cõi khổ sở cùng cực, vì thế cõi này thuộc về quán trọ trên đường lữ thứ; An Dưỡng là chốn vui sướng tột bậc, vốn là quê nhà sẵn có. Nhưng do chúng sanh mê muội chưa ngộ, bèn cứ khăng khăng coi quán trọ là quê nhà, chẳng biết có trụ xứ thanh tịnh an ổn tột bậc do cha ông đã tạo dựng. Do vậy, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, luân hồi trong sáu nẻo, chìm đắm trong tam đồ từ kiếp này sang kiếp khác, không cách nào thoát ra. Đức Đại Giác Thế Tôn thương xót, thị hiện sanh trong thế gian, tùy thuận căn cơ thuyết pháp để các chúng sanh bỏ mê về với ngộ, theo đường về nhà. Do chúng sanh căn cơ chẳng phải chỉ có một, nên mỗi pháp đức Như Lai nói ra đều khác biệt. Nhưng các pháp ấy đều phải cậy vào tự lực, chỉ bậc thượng căn cao nhất mới có thể hoàn thành được ngay trong đời này. Nếu là kẻ kém hơn thì sẽ hai đời, ba đời mới giải quyết xong. Những kẻ trải kiếp dài lâu vẫn chưa thể giải quyết xong vẫn chiếm đa số! Lòng Như Lai phổ độ chúng sanh chan chứa nhưng chưa thỏa mãn được; do vậy, bèn đặc biệt mở ra một pháp tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, để thượng thánh hạ phàm đều cùng trong đời này thoát cõi Sa Bà đây lên cõi An Dưỡng kia. Bậc thánh sẽ mau thành Phật đạo, kẻ phàm sẽ dần dần chứng được Bồ Đề. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 6 - Bi ký về việc chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai sáng lập ba viện dưỡng lão, dưỡng bệnh và trợ niệm (1934) Trộm nghĩ: Phóng sanh vốn là để đề xướng kiêng giết, ăn chay. Nếu con người suốt đời ăn chay sẽ trở thành không phóng sanh mà phóng sanh lớn lao vậy. Nay tôi chép lại bài thơ răn đừng ăn thịt của cư sĩ Hoàng Sơn Cốc đời Tống để mong mọi người lúc ăn thịt hãy suy nghĩ đôi ba phen, ắt chẳng nỡ ăn và tâm chẳng dám ăn nữa sẽ bừng bừng dấy lên. Bài thơ ấy như sau: Thịt ta, thịt chúng sanh, Danh khác, thể vốn đồng, Vốn cùng một chủng tánh, Chỉ hình hài khác nhau! Khổ não chúng hứng chịu, Béo ngon ta hưởng riêng, Chớ đợi Diêm La xử Tự suy sẽ biết mà! Bài thơ ấy có ý nghĩa lắm thay! Trung hậu, khoan dung cách đạo chẳng xa, điều gì chẳng muốn [người khác] làm cho chính mình thì chớ làm cho người khác. Lòng nhân với con người, yêu thương loài vật ấy [chính là] đại kinh đại pháp thành thủy thành chung, chẳng cần phải nói tường tận về ý nghĩa nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo sâu xa! Nguyện những ai thấy nghe đều suy nghĩ sâu đậm. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 5 - Bi ký về việc chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai thành lập ao phóng sanh (1934) Chùa Quốc Thanh là ngôi chùa hàng đầu của núi Thiên Thai. Hòa Thượng Khả Hưng cực lực khôi phục, lại thỉnh pháp sư Tĩnh Quyền phụ trợ, muốn mở rộng lòng từ bi của Phật, Tổ để khơi gợi thiện niệm cho người đời, do đó bèn lập ao phóng sanh nơi vườn rau phía Tây của Tam Môn. Dòng Khê Thủy từ Tây Sơn đổ vào nơi đó, nước chảy vào chảy ra cuồn cuộn, là chỗ thích hợp nhất để nuôi cá. Mùa Thu, mùa Hạ, nhằm buổi trời trong, đêm trăng, tiết Xuân, tiết Đông thì sau giờ Ngọ, trước lúc xế chiều, đại chúng đến đây niệm Phật hiệu vang vang, nhiễu quanh ao ba vòng hồi hướng Tịnh Độ để những loài thủy tộc ấy đều gieo thiện căn xuất thế cũng như khiến cho đại chúng đều phỏng theo bi nguyện của Phật, của Tổ. Do muốn tỏ rõ ý nghĩa “do phóng sanh mà đạt được lợi ích”, [chùa Quốc Thanh] sai Quang viết bài ký để thưa cùng bậc sáng suốt mai sau. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 5 - Bi ký về việc chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai thành lập ao phóng sanh (1934) Mùa Hạ năm ngoái, Giám Viện Linh Nham Sơn Tự là thầy Diệu Chân do thấy Linh Nham không có hạ viện tại thành Tô Châu, sau này đến đất Tô cảm thấy khá bất tiện, chú ý đến khu vườn ao phóng sanh tại cầu Hổ Khiếu, cậy Quang hỏi thăm tình hình nơi ông Tào Tung Kiều, cũng như nhờ cậy ông ta thương lượng với mọi người trong hội ấy. Nếu chịu thí tặng thì sự nghiệp phóng sanh càng được tiến hành mạnh mẽ hơn; lại không cần phải phái người chuyên lo quản lý, đôi bên đều có lợi, đúng là “một chấm thủy mặc, đôi bên đều thành rồng”. Ông Tào đi hỏi, mọi người đều cùng tán thành, bảo rằng: “Linh Nham sơn chưa đầy mười năm mà đạo phong đã nghe tiếng khắp xa gần, nghiễm nhiên trở thành đạo tràng thanh tu bậc nhất của Ngô Huyện. Nếu biến khu vườn ao phóng sanh thành Hạ Viện thì sau này sẽ phát đạt, an hòa nào kém Linh Nham?” Bèn bàn bạc, ước định năm điều kiện ngõ hầu vĩnh viễn chẳng suy sụp: 1) Danh xưng khu vườn ao phóng sanh thuộc hội Phật Giáo Cứu Vớt Loài Vật Trung Quốc phân hội Tô Châu. 2) Điện thờ Tế Công tổ sư. 3) Bài vị của thầy Ngộ Căn. 4) Tòa cát đình trên bờ ao. 5) Mộ phần của chủ đất họ Trầm nằm ngoài tường bao quanh khu vườn. Năm thứ này phải được bảo tồn vĩnh viễn, chẳng được bỏ đi. Những thứ kiến trúc, mở mang khác do Tăng chúng chùa Linh Nham tùy ý tiến hành. Duyên khởi ấy được khắc vào bia, ghi vào sổ sách để lưu lại vĩnh viễn. Do vậy, đem tất cả khế ước, họa đồ, hồ sơ, giấy tờ chứng minh [đã lập] từ trước kia đều giao ra hết. Có thể nói là thành tựu cho Linh Nham Tịnh nghiệp đạo tràng, phát triển sự nghiệp phóng sanh, công đức lớn nhất! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 4 - Bi ký thuật công đức … cho Linh Nham Sơn Tự để làm hạ viện (1936) [Nguồn gốc] khu vườn ao phóng sanh tại cầu Hổ Khiếu (Hổ Gầm) của Hội Cứu Giúp Loài Vật Trung Quốc phân hội Tô Châu [như sau]: Vào tháng Bảy năm Giáp Tý tức năm Dân Quốc 13 (1924), hội viên Hội Cứu Vớt Loài Vật tại Thượng Hải là ông Lục Duy Dung đến đất Tô bàn bạc, mới biết những hội viên Hội Cứu Giúp Loài Vật phân hội Tô Châu đã bàn tính chuyện thiết lập khu vườn ao phóng sanh bèn cực lực tỏ ý tán thành. Ông cho biết: Khéo sao ông Trầm là người đất Tô có một khu đất rộng khoảng sáu mẫu, đã quyên tặng cho Hội Cứu Vớt Loài Vật Thượng Hải, nay đem tặng lại cho phân hội [Tô Châu] để làm cơ sở [tạo lập] khu vườn ao phóng sanh. Trong khu đất ấy có một cái đầm, đào vét thành ao rất đỡ tốn công, tiếp đó ông ta đem bằng khoán đất gởi xuống Tô Châu. Đến tháng Chín năm Dân Quốc 14 (1925), hội viên thuộc phân hội [Tô Châu] là ông Dương Đạt Toàn giới thiệu ông Uông Cát Đình gia nhập phân hội, [ông Uông] đứng ra ngỏ ý quyên tặng tiền để xây dựng, các hội viên lại đóng góp [thêm vào] được hơn một vạn đồng, xây dựng liên tục, đào ao, dựng đình, sắp đặt hết thảy. Tuy chẳng hoa mỹ, nhưng thanh nhã không phàm tục, đáng gọi là chốn “thế ngoại đào nguyên” (chốn tiên bồng ngoài cõi tục). Đến tháng Chạp năm Dân Quốc 15 (1926), công trình mới hoàn thành. Tháng Năm năm Dân Quốc 17 (1928), ông Viên Hiếu Cốc tậu thêm một nền đất rộng bảy phân ở phía Nam, nhờ đó [khu vườn ao] càng thêm rộng rãi, vẽ họa đồ, trình lên huyện, lập hồ sơ đầy đủ. Việc quản lý kinh phí trong mấy năm đều do nhóm các ông Ngô Dĩnh Chi v.v… trước sau lo toan. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 4 - Bi ký thuật công đức … cho Linh Nham Sơn Tự để làm hạ viện (1936) Thắng bạo tàn, trừ giết chóc phải từ nhỏ đến lớn. Nhân từ với con người, yêu thương loài vật ắt phải từ dễ đến khó. Nếu chẳng hàm dưỡng lòng nhân từ, khoan dung từ cội gốc, ắt sẽ trở thành bỏ nhỏ lấy lớn, bỏ dễ lấy khó vậy! Hằng ngày làm chuyện tàn sát, mà lầm lạc mong mỏi nhân từ với con người, yêu thương loài vật sẽ trở thành nói suông, chắc chắn khó thể thật hành được chuyện ấy! Vì sao nói vậy? Trẻ nhỏ, kẻ bình thường đều có thể thật hành chuyện yêu thương loài vật, hành lâu ngày, bụng dạ đầy ắp nhân từ, mai kia có địa vị, nắm quyền cai trị, sẽ có thể che chở dân đen lớn lao. Dẫu ẩn cư trong một làng vẫn có thể lấy thân mình đốc thúc mọi người thay đổi phong tục! Như vậy, đạo nhân từ với người khác phải được bồi đắp từ lòng yêu thương loài vật thì mới có thể viên mãn trọn khắp, không có điều tệ vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 4 - Bi ký thuật công đức … cho Linh Nham Sơn Tự để làm hạ viện (1936) Trong các kinh Đại Thừa, Phật đã nghiêm cấm sát sanh ăn thịt ngõ hầu hết thảy chúng sanh đều được hưởng quả báo gần là trường thọ yên vui, quả báo xa là cùng chứng giải thoát Niết Bàn. Đại sư Trí Giả đề cao lòng từ bi của Phật, trong niên hiệu Đại Kiến (569-583) đời Trần đã mua hơn sáu mươi chỗ thuộc Lâm, Hải, Giang, Hỗ, Khê, Lương, cả hơn ba trăm dặm để làm ao phóng sanh, xin vua ban sắc chỉ, lập bia ngăn cấm đánh cá, kẻ nào bắt trộm sẽ bị mắc họa. Đến niên hiệu Trinh Quán (627-649) đời Đường vẫn còn như thế. Đấy chính là bi tâm phổ độ chúng sanh của Phật, Tổ vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 4 - Bi ký thuật công đức của phân hội Tô Châu Hội Cứu Giúp Loài Vật Trung Quốc quyên tặng vĩnh viễn khu vườn ao phóng sinh cho Linh Nham Sơn Tự để làm hạ viện (1936) Đại sư Tử Bách đời Minh một đời xây dựng hơn mười ngôi đại tùng lâm, nhưng chẳng làm Phương Trượng, chẳng thâu nhận đồ đệ, hễ xong việc liền bỏ đi, gác bỏ mọi việc. Đại sư Diệu Phong phàm những công trình chùa, tháp, cầu cống, đường sá người khác chẳng thể lo liệu được, thỉnh Sư trông nom, hễ qua tay Sư đều thành công, hoàn tất xong liền cáo từ. Trong lúc đang tu bổ hay xây dựng, có khi Sư sai học trò thay mình lo liệu, công trình hoàn thành, trọn chẳng để lại đó một người nào của chính mình cả! Tấm lòng Sư chánh đại quang minh, mấy trăm năm sau còn nghe tiếng, khiến cho mọi người khâm phục khôn nguôi, đáng được vua tôi cung kính, long thiên ủng hộ, lúc sống tiếng tăm vang dội, lúc mất chứng thánh quả. Người đời nay phần nhiều âm mưu cướp đoạt đạo tràng của người khác, ai chịu đem những gì mình đã có nhường cho người khác? Cụ Chân [Đạt] khẳng khái làm như vậy [lo liệu chấn hưng Linh Nham Sơn Tự], tuy đạo còn kém xa Tử Bách, Diệu Phong, nhưng tấm lòng sáng ngời không riêng tư cũng gần bằng các vị ấy, thật đáng khâm phục! Nguyện những người làm Trụ Trì và giữ chức trách trong nhà chùa, cũng như những người nhập chúng tu trì đều cùng giữ tấm lòng đại công vô tư, chuyên tinh tu tập, ngõ hầu chẳng phụ ân Phật đã nói ra pháp môn Tịnh Độ hoành siêu và lịch đại tổ tông hoằng pháp, ân cụ Chân Đạt tạo dựng cũng như một phen yêu thương, siêng năng nhọc nhằn lo toan sâu đậm của thầy Diệu Chân. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 3 - Bi ký về việc chùa Linh Nham vĩnh viễn trở thành đạo tràng thập phương chuyên tu Tịnh Độ và công đức xây dựng lần này (1932) Đời Tấn, Tư Không Lục Ngoạn sống tại núi này, do nghe Phật pháp bèn biến nhà thành chùa, đấy chính là khởi đầu của đạo tràng Linh Nham vậy. Đến đời Lương lại càng được phát triển. Đến đời Đường lại càng thêm trùng hưng. Trong khoảng thời gian ấy, phần nhiều là do hình vẽ của Trí Tích Bồ Tát hiện thân, khơi gợi lòng tin tưởng, ngưỡng mộ của mọi người, khiến cho đạo tràng Linh Nham đứng đầu đất Ngô. Cung khuyết dâm lạc xưa kia nay trở thành cuộc đất thánh đạo tràng, cho thấy các pháp tùy duyên, hễ có người tài giỏi ắt cuộc đất sẽ linh ứng! Những vị Trụ Trì trong đời Tấn, đời Đường chẳng thể tra cứu được. Từ đời Tống cho đến đời Thanh, ngôi Trụ Trì đều do Giáo hải lão long, Thiền quật cự sư , đức hạnh đáng làm bậc thầy gương mẫu cho cả trời lẫn người, đạo tiếp nối được huệ mạng của Phật, của Tổ. Đầu đời Thanh, sư Hoằng Trữ trụ nơi đây, mở mang giảng tòa rộng lớn, điện đường, liêu xá mới mẻ rạng ngời. Thánh Tổ, Cao Tông (Khang Hy, Càn Long) tuần du phương Nam đều nghỉ lại nơi đây, pháp môn hưng thịnh chói ngời xưa nay. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 3 - Bi ký về việc chùa Linh Nham vĩnh viễn trở thành đạo tràng thập phương chuyên tu Tịnh Độ và công đức xây dựng lần này (1932) Có được cuộc đất tối thắng thì mới hoằng dương được đạo tối thắng. Tạo dựng chuyện phi thường ắt phải đợi người phi thường. Tuy bỉ cực thái lai thuộc về vận trời, nhưng sửa cũ dựng mới thật sự phải nhờ vào con người thực hiện. Núi Linh Nham là cuộc đất thánh đạo tràng trời tạo đất dựng. Ngô Vương Phù Sai dựng cung Quán Oa nơi đây, chỉ chuộng dâm lạc, làm ô nhục núi này quá sức! Vì thế, xây xong cung điện chưa được bao lâu liền bị nước tan, mạng mất, đúng là nhân quả phù hợp nhau. Nếu ông ta lập đức thi thố lòng nhân noi theo phong cách cai trị tốt đẹp của tổ tiên là Thái Vương, Thái Bá, Trọng Ung đã lưu lại, ắt sẽ ngang ngửa với Văn Vương trên linh đài , lúc sống được hưởng phước vòi vọi, khi mất để lại thanh danh vang dội, đâu đến nỗi quỳ gối xin được sống cũng chẳng được, rốt cuộc che mặt tự vẫn , gây nhục lây cho tổ tiên ư? Do vậy biết kẻ không có đức cao trội mà có cuộc đất thù thắng, đâm ra lại là cái gốc họa! Nguyện những bậc quân tử đời sau đều lấy Phù Sai làm gương thì lợi ích ấy chẳng thể nào diễn tả được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 3 - Bi ký về việc chùa Linh Nham vĩnh viễn trở thành đạo tràng thập phương chuyên tu Tịnh Độ và công đức xây dựng lần này (1932) Kể từ khi đại giáo được truyền sang phương Đông, Viễn Công lập Liên Xã đầu tiên, một người xướng, trăm người hòa, không ai chẳng noi theo, thỏa thích bổn hoài của Phật chỉ có mỗi một mình pháp môn này là bậc nhất! Từ đấy trở đi, đời nào cũng có cao nhân, tục diệm truyền đăng , rạng rỡ trong ngoài nước mãi cho đến tận hiện thời, tông phong chẳng suy sụp, nhưng Trí Giả đại sư thuộc tông Thiên Thai, Thanh Lương quốc sư thuộc tông Hiền Thủ, Khuy Cơ pháp sư thuộc tông Từ Ân, Bách Trượng thiền sư thuộc Thiền tông, Đại Trí luật sư thuộc Luật tông, không vị nào chẳng giải thích kinh, soạn luận, khuyên khắp mọi người tu trì. Những sự tích của họ đã được chép tường tận trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Do vậy biết những vị tri thức các tông Thiền, Giáo, Luật đều noi theo Hoa Tạng hải hội, nhất trí tiến hành cầu sanh Cực Lạc, huống chi kẻ căn cơ cạn mỏng đời Mạt Pháp ư? Nhân duyên Linh Nham sáng lập Tịnh Độ đạo tràng đã được chép đầy đủ trong tấm bia [thuật duyên khởi] xây dựng Niệm Phật Đường trước kia. Nay tu bổ đại điện, đặc biệt nêu rõ nguyên do của pháp môn Tịnh Độ để những bậc thông sáng mai sau có cái để nương tựa, hướng về. Chi phí xây cất và phương danh của người đã quyên tặng được ghi trong một tấm văn bia riêng, không ghi tường tận nơi đây. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 2 - Bài ký về chuyện xây dựng đại điện của đạo tràng chuyên tu Tịnh nghiệp tại núi Linh Nham (1935) …Pháp môn [Tịnh Độ] này do hai đức Thế Tôn hai cõi tạo lập, đức Thích Ca nơi Sa Bà dạy rõ Tịnh Độ để đưa con người đi về [cõi Cực Lạc], đức Di Đà nơi Cực Lạc đợi lúc họ lâm chung tiếp dẫn [từ Sa Bà] về tới [Cực Lạc]. Ấy là muốn cho chúng sanh thoát được nỗi khổ sanh tử ngay trong đời này, chứng sự vui chân thường. Tâm thương xót, che chở, bảo vệ ấy dẫu hết cả kiếp khó thể nói trọn. Có kẻ bảo: “Đã là đệ tử Phật Thích Ca, hãy nên niệm Thích Ca Mâu Ni Phật cầu sanh Hoa Tạng thế giới trong cõi này”, họ chẳng biết đức Thích Ca dạy niệm A Di Đà Phật là nhằm làm cho hàng phàm phu sát đất nương vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương hòng siêu phàm nhập thánh. Chỉ có bậc Đại Sĩ đã phá vô minh chứng Pháp Thân mới thấy được Hoa Tạng thế giới của cõi này; phàm phu chỉ thấy uế độ, chẳng thấy được cõi Thật Báo Trang Nghiêm, há nên mong tưởng quá phận! Huống chi Tây Phương cũng nằm trong Hoa Tạng thế giới, mà trong hội Hoa Nghiêm hết thảy các vị Bồ Tát trong Hoa Tạng thế giới hải đều dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương để mong viên mãn Phật Quả. Ông là hạng người như thế nào mà dám chống đối các vị ấy? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 2 - Bài ký về chuyện xây dựng đại điện của đạo tràng chuyên tu Tịnh nghiệp tại núi Linh Nham (1935) Theo Sơn Chí, vào thời Vạn Lịch nhà Minh, vị Tăng tên Đại Phương dựng lều tranh nơi đây. Năm [Vạn Lịch] ba mươi (1602), nội giám Trương Tùy, Đảng Lễ vâng chiếu đốc thúc xây cất điện chứa kinh, nhàn du đến nơi đây, uống nước thấy ngọt ngào, nghe [Tăng chúng] kể lại dẫu hạn hán hay lũ lụt, [nước suối] vẫn không tăng, không giảm, hễ cầu mưa ắt lấy nước từ nơi đây, liền quyên tiền dựng Tam Thánh Đường, đặt tên cho con suối ấy là Bát Công Đức. Ấy là phỏng theo tên nước trong ao bảy báu nơi Cực Lạc thế giới. Suối Bát Công Đức do Tam Thánh Đường mà được tên, Tam Thánh Đường do nước tám công đức mà khởi đầu; ấy gọi là do thời tiết nhân duyên cho nên có chuyện chẳng mong cầu mà tự được!.. Chúng sanh đời trược nghiệp lực sâu nặng đến nỗi nước cõi này không có những công đức, lực dụng ấy. So với những loại nước thông thường khác, nước suối Bát Công Đức có rất nhiều công đức. Vì thế, đặc biệt nêu rõ để tỏ bày dấu tích chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát ngõ hầu những người sống trong núi và những ai đến núi chiêm bái sẽ từ mỗi tảng đá, mỗi giòng nước đều có thể ngộ sâu xa thường lý viên thông, hòng lấy tâm Bồ Tát làm tâm [của chính mình], lấy sự nghiệp của Bồ Tát làm sự nghiệp [của chính mình] vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 1 - Bi ký trình bày sự thần dị của suối Bát Công Đức thuộc Tam Thánh Thiền Viện núi Phổ Đà Quán Thế Âm Bồ Tát tùy loại hiện thân trong mười phương thế giới, tầm thanh cứu khổ, nhưng vẫn lấy Phổ Đà làm cuộc đất ứng hóa, [là vì] muốn cho hết thảy tứ chúng có chỗ để gieo lòng thành. Sự từ bi linh cảm của Bồ Tát cố nhiên ai nấy đều biết rõ, ngay cả một hòn đá, một giòng nước, không gì chẳng tỏ rõ dấu tích chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Những hòn đá kỳ lạ ở Phổ Đà cố nhiên nhiều lắm, nhưng chỉ có Bàn Đà Thạch là bậc nhất. Người hiểu lý trông thấy tảng đá này thì thần thông, oai đức chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát chẳng cần phải đợi nói tường tận mà sẽ đều ngộ giải cả. Những cuộc đất gần biển thì nước đều mặn chát, chẳng thể dùng để uống được; [vậy mà] khắp núi Phổ Đà nước đều ngọt ngào, tuy là cuộc đất ở sát bên biển mà trọn chẳng có nước mặn, nhưng con suối Bát Công Đức thật là bậc nhất! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - III - Ký - thư 1 - Bi ký trình bày sự thần dị của suối Bát Công Đức thuộc Tam Thánh Thiền Viện núi Phổ Đà Cõi đời lúc này, lời thánh nhân, lời mềm mỏng đều khó tạo được lợi ích vì không có ba ý niệm kinh sợ , chỉ toàn là khoe khoang tài năng của chính mình. Nghe lời thánh nhân bèn vỗ gươm đứng dậy, nghe lời mềm mỏng bèn coi như gió luồn qua cây, dẫu là bậc trí đức như Châu Công, Khổng Tử cũng chỉ có thể nói: “Rốt cuộc ta phải làm như thế nào đây!” Nhưng trong khi không thể bày ra cách nào, chẳng ngại gì lập riêng một pháp. Do thế đạo đã loạn, lòng người đã chết là vì chẳng nói đến nhân quả, chẳng bàn đến giáo dục trong gia đình. Nếu có thể chú trọng hai việc này thì người người đều biết nhân quả, nhà nhà đều có giáo dục, hết thảy những lời của thánh nhân, những câu mềm mỏng đều trở thành những câu nói thường nhật trong gia đình, không một ai chịu bỏ một ngày không nhắc tới. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 76 - Lời tựa cho sách Trập Viên Trát Ký Quang túc nghiệp sâu nặng, hơn năm mươi năm luống dự vào hàng Tăng chúng, hết thảy các pháp đều chẳng biết được một pháp nào, tuy thường niệm Phật nhưng do nghiệp nặng nên tâm chưa hề tương ứng với Phật. Nhưng tin tưởng Phật chẳng nguyện hư vọng, sẽ chẳng vứt bỏ ta, vì thế dẫu là ai cũng chẳng chuyển chí nguyện [của Quang] được. Gần đây pháp sư Viên Anh nhân lúc giảng diễn các kinh được rảnh rỗi, đã soạn bài luận Khuyến Tu Pháp Môn Niệm Phật, muốn lưu truyền, gởi thư sai Quang viết lời tựa. Quang già rồi, tinh thần lẫn mục lực đều chẳng đủ, đã tạ tuyệt những chuyện sai khiến viết lách từ lâu. Nay may mà pháp Niệm Phật lại được có người đề xướng bèn tóm nêu đại ý cho xong trách nhiệm vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 75 - Lời tựa cho bài luận Khuyến Tu Pháp môn Niệm Phật (1938) Ông Triệu Vận Xương ở trấn Bao Trường thuộc Nam Thông đời đời kế thừa đức hạnh, đời đời vừa cày vừa học, chỉ tu tước vị cõi trời, chẳng màng vinh hoa cõi thế, tin sâu nhân quả, dốc lòng tu Tịnh nghiệp, muốn cho con cháu đời đời vĩnh viễn vâng giữ chẳng để suy sụp, nên đặc biệt thỉnh một bộ Đại Tạng Kinh bản đời Tống, thờ nơi Phật Đường trong nhà để mong con cháu và những người trong họ đều được thọ trì, đọc tụng, chẳng đến nỗi sống uổng, chết phí, cậy Quang viết lời tựa để dạy hậu thế. Do hội ấn tống Đại Tạng Kinh bản đời Tống theo lối ảnh ấn đã sai Quang viết lời tựa, Quang bèn chép nguyên văn [lời tựa ấy] và lược thuật ý niệm thương yêu con cháu, họ hàng sâu xa của ông Triệu. Nguyện những người thấy nghe sẽ liền tùy phần tùy sức thực hành, đừng chỉ như gã si đã đến núi báu vẫn trở về tay không, thì chẳng những không cô phụ sự giáo hóa của đức Phật mà cũng chẳng phụ tánh linh của chính mình, và cũng an ủi được một phen dốc hết tâm ý thỉnh kinh của ông Triệu vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 74 - Lời tựa cho việc ông Triệu Vận Xương thỉnh bộ Đại Tạng Kinh bản đời Tống được in theo lối ảnh ấn (1933)à pháp Niệm Phật lại được có người đề xướng bèn tóm nêu đại ý cho xong trách nhiệm vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 75 - Lời tựa cho bài luận Khuyến Tu Pháp môn Niệm Phật (1938) Nếu đã đoạn sạch Tam Hoặc, chứng trọn vẹn Tứ Đức thì không tu [pháp này] cũng chẳng sao! Nếu vẫn chưa đạt đến địa vị này, xin hãy theo gót những vị Bồ Tát Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác trong Hoa Tạng hải chúng để nhất trí tiến hành, dùng công đức chẳng thể nghĩ bàn của mười đại nguyện vương để hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới nhằm mong mau tròn Phật quả. Người được như thế có thể gọi là đại trí huệ, là đại trượng phu, đã hoàn tất sự nghiệp thế gian lẫn xuất thế gian vậy. Lại còn phải làm giống như những vị Quán Âm, Phổ Hiền… sau khi đã chứng được Phật quả liền tùy loại hiện thân hoằng dương pháp này ngõ hầu chúng sanh đều được thành Phật đạo mới thôi. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 75 - Lời tựa cho bài luận Khuyến Tu Pháp môn Niệm Phật (1938) Pháp môn Tịnh Độ thích hợp khắp ba căn, quả thật đạo mầu nhiệm thành thủy thành chung để Như Lai trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Thệ nguyện của đức Di Đà cả chín giới đều được nương nhờ, chính là khuôn mẫu tốt lành “tâm làm, tâm là” để chúng sanh mau thoát biển khổ, mau dự vào Liên Trì. Pháp này là pháp môn đặc biệt nương vào Phật lực trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, chẳng thể luận định giống như hết thảy các pháp môn Đại, Tiểu, Quyền, Thật cậy vào tự lực! Cõi đời phần nhiều chẳng suy xét, kẻ hơi thông minh thì đa số kiêu căng về trí lực của chính mình, chẳng chịu tu trì, lại còn miệt thị những ai tu trì pháp này, coi khinh là ngu phu ngu phụ, như sợ bị dính bẩn vậy! Do vậy, nhường đại lợi ích liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này cho hàng ngu phu ngu phụ, còn chính mình chẳng muốn đạt được, chẳng đáng buồn ư? Cư sĩ Đức Tấn Ninh Chí Vũ thừa dịp phát khởi, đặc biệt lập một chỗ niệm Phật ở làng mình, đặt tên là Đôn Luân Liên Xã. Do Phật pháp gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tôi tớ trung thành, khiến cho ai nấy trọn hết bổn phận, trước hết làm người hiền, người thiện trong thế gian, lại còn sanh lòng tin, phát nguyện khẩn thiết niệm Phật, cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, ngõ hầu đoạn sạch Phiền Hoặc, khôi phục tâm tánh, viên mãn Bồ Đề, thành vô thượng đạo, lại còn dùng sở ngộ sở chứng của chính mình để dẫn dắt hết thảy hàm thức. Nguyện những người cùng quê với tôi đều cùng dấy lòng [tin tưởng, tu tập] thì may mắn lắm thay! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 73 - Lời tựa trình bày duyên khởi của Đôn Luân Liên Xã (1931) Phật pháp chứa trọn cương thường, luân lý thế gian, lại còn nói rõ quả báo thiện ác do trọn hết hay không trọn hết tình nghĩa, bổn phận. Quả thật là đạo trọng yếu để trị quốc bình thiên hạ. Những kẻ đố kỵ là vì chẳng suy xét nghĩa lý, bài xích xằng bậy, nói nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi đều là những lời Phật dối trá để bịp người! Do vậy, mọi người đều coi nhân quả luân hồi là chuyện mông lung, khi gió Âu vừa thổi qua, đều tranh nhau hùa theo. Nếu tin sâu nhân quả luân hồi, những tà thuyết ấy dù có dữ dội đến mấy, làm sao gây mê hoặc rối ren cho được? Đây chính là nguyên do các nơi đề xướng Phật học. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 73 - Lời tựa trình bày duyên khởi của Đôn Luân Liên Xã (1931) Pháp [môn Tịnh Độ] này vừa cạn vừa sâu, vừa là Quyền vừa là Thật, thượng thượng căn chẳng thể vượt khỏi cửa thành này. Vì thế, bậc đã chứng Đẳng Giác còn phải dùng mười nguyện dẫn về, kẻ hạ hạ căn cũng có thể đạt đến cõi này. Do vậy, kẻ sắp đọa A Tỳ địa ngục vẫn có thể dự vào chín phẩm. Thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít, đạt hiệu quả nhanh, thỏa thích bản hoài xuất thế của Như Lai, là đạo thông đạt để chúng sanh thoát khổ. Vì thế, các vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ… các tổ sư như Viễn Công, Trí Giả, Thanh Lương, Vĩnh Minh… đều cùng hiện tướng lưỡi rộng dài để tán dương, phát tâm Kim Cang để lưu truyền rộng khắp; bởi pháp này chính là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh vậy. Chúng sanh đời Mạt căn cơ kém hèn, bỏ pháp môn này thì làm sao yên được? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 73 - Lời tựa trình bày duyên khởi của Đôn Luân Liên Xã (1931) Phật pháp là tâm pháp. Tâm pháp ấy chúng sanh, Phật, phàm, thánh, ai nấy đều có. Chúng sanh thì toàn thể là mê trái nên dẫu có vẫn như không. Phật thì triệt ngộ, triệt chứng, đích thân được thọ dụng, lại còn dấy lòng đại từ bi, đem sở ngộ sở chứng của chính mình chỉ dạy hết thảy chúng sanh ngõ hầu họ đều triệt ngộ, triệt chứng mới thôi! Nhưng vì chúng sanh mê muội, trái nghịch đã lâu, dù nghe đủ mọi pháp môn đối trị, nhưng bởi Hoặc nghiệp sâu dầy, phước huệ cạn mỏng nên khó lòng đạt được hiệu quả thành công ngay trong đời này. Do đã khó thể đạt được hiệu quả thành công ngay trong đời này nên lại phải thọ sanh, quá nửa bị mê mất, đến nỗi trải kiếp lâu xa luân hồi sanh tử, không do đâu thoát lìa được! Đức Như Lai thương xót, đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương ngõ hầu hết thảy dù thánh hay phàm, thượng trung hạ căn đều nương vào đại bi nguyện lực của đức Phật Di Đà cùng trong đời này thoát cõi Sa Bà đây, sanh về cõi Cực Lạc kia, khiến cho kẻ đã đoạn Hoặc mau chứng Vô Sanh, kẻ chưa đoạn Hoặc cũng lên Bất Thoái. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 73 - Lời tựa trình bày duyên khởi của Đôn Luân Liên Xã (1931) Ở Vô Tích, các cư sĩ Dương Tiểu Lệ, Tần Hiệu Lỗ, Viên Lệ Đình, Tào Bội Linh v.v… lập một Tịnh nghiệp xã tại chùa Sùng An, mồng Một, ngày Rằm mỗi tháng tụ họp mọi người niệm Phật, đồng thời diễn thuyết đạo “sống trong cõi trần học đạo, nơi rẫy bái báo quốc, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành” và pháp “thật vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ” ngõ hầu hết thảy mọi người biết duyên do “ai nấy đều có thể là Nghiêu Thuấn, ai nấy đều có thể thành Phật” sẽ trong hết thảy thời, hết thảy chỗ đều chuyên chú mong thành thánh, học Phật. Đấy thật sự là pháp môn đại phương tiện để “chẳng có địa vị mà hộ quốc cứu dân, chẳng tỏ lộ hình tích mà thay đổi phong tục”. Nay đã [thực hiện] được tròn một năm, thành tích của tất cả những việc lành đã thực hiện và những kinh phí chi ra, thu vào mỗi mỗi đều liệt kê trong sách để bố cáo, cậy tôi soạn lời tựa để nêu sơ lược đại ý vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 72 - Lời tựa cho niên san của Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã tại Vô Tích (1936) Phải biết: Pháp môn Tịnh Độ pháp pháp viên thông. Như vầng mặt trăng sáng ngời giữa trời, dòng sông nào cũng đều hiện bóng, thủy ngân rớt xuống đất, giọt nào cũng tròn xoe. Chẳng riêng gì cách vật, trí tri, cùng lý, tận tánh, giác thế, yên dân, giữ cho nước nhà yên ổn, đều có lợi ích lớn lao thần diệu; mà ngay như cả sĩ, nông, công, thương muốn phát triển sự nghiệp, già, trẻ, nam, nữ muốn tiêu diệt tật bệnh, khổ não, không ai chẳng “hễ cảm liền ứng, vừa lòng mãn nguyện”. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 72 - Lời tựa cho niên san của Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã tại Vô Tích (1936) Thánh giáo của Như Lai pháp môn vô lượng, hễ y theo một pháp nào dùng Bồ Đề tâm để tu trì thì đều có thể liễu sanh thoát tử, thành Phật đạo. Nhưng trong khi tu còn chưa chứng, sẽ có sự khó - dễ, nhanh - chậm khác biệt lớn lao! Tìm lấy một pháp chí viên, chí đốn, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, khế lý, khế cơ, vừa là tu, vừa là tánh, thích hợp khắp cả ba căn, thâu nhiếp trọn vẹn độn căn lẫn lợi căn, là chỗ quy túc của các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường tắt cho người, trời, phàm, thánh chứng Chân thì không gì bằng một pháp tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương! Ấy là vì hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, còn pháp môn Niệm Phật lại kiêm nhờ vào Phật lực. Cậy vào tự lực thì nếu chưa đoạn sạch Phiền Hoặc sẽ chẳng thể vượt khỏi tam giới. Cậy vào Phật lực, nếu tín nguyện chân thật, thiết tha, sẽ có thể cao đăng chín phẩm sen. Con người hiện thời muốn giải quyết xong đại sự sanh tử ngay trong đời này mà bỏ pháp này thì trọn chẳng còn hy vọng gì hết! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 72 - Lời tựa cho niên san của Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã tại Vô Tích (1936) Ðầu tháng Chín, Lý Sự Trưởng (hội trưởng) hội Phật Giáo Trung Quốc là pháp sư Viên Anh, các vị lãnh tụ của Bồ Ðề Học Hội như cư sĩ Khuất Văn Lục v.v… thấy Quang tuổi cao, ngỡ tôi có chút tâm đắc, nào hay tôi chỉ biết húp cháo nuốt cơm, họ thỉnh tôi khi pháp hội Tức Tai Hộ Quốc khai mạc, sẽ đến đất Hỗ diễn thuyết. Cố sức từ chối chẳng được, chỉ đành đem điều [mình hiểu biết] lầm lạc bù đắp sự lầm lạc. Ðến kỳ, mỗi ngày ông Ðặng Huệ Tải và hai ba vị cư sĩ ở Vô Tích đều dùng máy thu âm [thu lại], nghe băng chép ra, mang đến xin tôi giám định, tính đem ấn hành. Những bản sao lục này có vài điểm sai khác đôi chút, nhưng bản sao của ông Ðặng chép chữ to, nên tôi dựa theo đó, sửa đổi, tóm tắt lại. Cảo bản này bậc thông huệ chẳng cần xem đến, còn ai ngu độn như Ấn Quang tôi mà lại muốn ngay trong đời này kết liễu đại sự sanh tử và muốn trị tâm, trị thân, trị gia, trị quốc, nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu, xem đến [cảo bản này] họa chăng có điều bổ ích vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 71 - Lời tựa cho tập sách Thượng Hải Hộ Quốc Tức Tai Pháp Hội Pháp Ngữ (1936) Ấn Quang tôi là một ông Tăng phàm tục ở Tây Tần chỉ biết đến cơm cháo, trăm sự không làm được điều gì; túc nghiệp sâu nặng đến nỗi trời phải quở trách. Mới sanh được sáu tháng đã mắc bệnh mắt, trong suốt một trăm tám mươi ngày không mở nổi mắt. Ngoại trừ lúc ăn, ngủ ra, thường khóc suốt ngày đêm. Nhờ thiện lực xưa, may còn được thấy ánh mặt trời, cũng may mắn lắm! Ðến tuổi thiếu niên đọc sách, lại bị hãm vào vực xoáy báng Phật của Trình, Châu, Âu, Hàn . Từ đấy, hằng ngày chuyên chí bác Phật, nghiệp tướng lại hiện, bệnh tật triền miên. Tận lực nghĩ ngợi, suy xét cặn kẽ mới biết lỗi đó; năm hai mươi mốt tuổi, xuất gia làm Tăng. Nhân thấy Tăng chúng có kẻ chẳng như pháp nên phát nguyện chẳng trụ trì chùa miếu, chẳng thâu đồ đệ, chẳng hóa duyên , chẳng cùng ai kết xã lập hội. Hơn năm mươi năm chẳng đổi chí ban đầu, sống lẩn quất gần Ngô Môn. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 71 - Lời tựa cho tập sách Thượng Hải Hộ Quốc Tức Tai Pháp Hội Pháp Ngữ (1936) Tôi thường nói: “Muốn được lợi ích chân thật nơi Phật pháp thì phải cầu từ nơi cung kính. Có một phần cung kính liền tiêu được một phần tội nghiệp, tăng một phần phước huệ. Có mười phần cung kính liền tiêu được mười phần tội nghiệp, tăng được mười phần phước huệ”. Phàm những ai đọc tụng, thọ trì, biên chép, đều phải giữ thân - khẩu - ý trong sạch, cạn lòng thành, kiệt lòng kính như trung thần tuân phụng thánh chỉ của minh chúa, như hiếu tử đọc di chúc của từ thân (cha mẹ nhân từ), cung kính run sợ, chẳng dám coi thường thì vô biên lợi ích sẽ tự đích thân đạt được. Nếu khinh mạn, không kính nể, mặc lòng khinh nhờn, cũng giống như những nhà Nho đọc sách Nho trong thời gần đây, trọn chẳng có ý tưởng giống như đang đối trước thánh hiền, chẳng dám nghĩ tưởng dễ duôi, [những kẻ đọc tụng theo kiểu khinh nhờn ấy] tuy cũng có thể gieo được thiện căn đắc độ trong tương lai, nhưng cái tội khinh nhờn, ngạo mạn thật chẳng cạn nhỏ! Vì thế, chẳng thể không chú ý! Do cư sĩ Khế Thành Tào Tung Kiều kính cẩn chép kinh này, muốn cho những người thọ trì đọc tụng sau này đều được lợi ích chân thật, nên cậy tôi lược thuật ý nghĩa. Do vậy, tôi bèn viết bài tựa này để tặng cho. Nếu chẳng coi lời tôi sai lầm thì lợi ích đạt được sẽ chẳng thể hình dung bằng ngôn ngữ, văn tự được đâu! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 70 - Lời tựa cho bản chép kinh Pháp Hoa (1933) Kinh Pháp Hoa nghĩa lý rộng sâu, công đức rộng lớn, khai Quyền hiển Thật, thọ ký Thanh Văn thành Phật, việc lành “tán tâm niệm Phật và giơ tay, cúi đầu” cũng đều là cái nhân để thành Phật trong vị lai. Khai Tích hiển Bổn, dạy rõ Như Lai thọ lượng vô biên, quyến thuộc nơi Bổn Địa và diệu dụng lợi sanh của bậc đại sĩ cũng được tỏ rõ triệt để về mặt Bổn lẫn mặt Tích, khiến cho khắp hết thảy chúng sanh đều cùng biết nỗi khổ luân hồi bao kiếp là huyễn vọng, biết Phật tánh sẵn có nơi chân tâm. Từ đó, trên là ngưỡng mộ chư thánh, dưới trọng tánh linh của chính mình, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương để mong vĩnh viễn thoát khỏi Ngũ Trược, mau chứng Vô Sanh như trong phẩm Dược Vương Bổn Sự đã dạy. Thỏa mãn bản hoài xuất thế của Như Lai, là sự hướng dẫn tốt lành cho chúng sanh trong chín giới. Lợi ích ấy nếu không phải là Phật sẽ không thể biết được! Do vậy, hễ ai đọc tụng, thọ trì, biên chép, lưu thông, thì công đức ấy phàm phu trong thế gian, Nhị Thừa chẳng thể nào suy lường được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 70 - Lời tựa cho bản chép kinh Pháp Hoa (1933) Phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện có câu: “Nếu Bồ Tát có thể tùy thuận chúng sanh thì chính là tùy thuận cúng dường chư Phật. Nếu tôn trọng, thừa sự chúng sanh, chính là tôn trọng và thừa sự Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh hoan hỷ sẽ khiến cho hết thảy Như Lai hoan hỷ. Vì sao? Do chư Phật Như Lai dùng lòng đại bi làm thể, do nơi chúng sanh mà khởi đại bi. Do nơi đại bi mà sanh tâm Bồ Đề. Do tâm Bồ Đề thành Đẳng Chánh Giác”. Do vậy biết: Cha trời mẹ đất, dân là ruột thịt, loài vật giống như ta, đối đãi bình đẳng là chuyện phải tùy theo khả năng mà gắng thực hiện vậy! Quang thẹn chẳng có tài lực, lại không có đạo đức, cảm động trước tấm lòng thành vì dân nghèo của ông ta, lược thuật đại ý kinh này để mong người thấy kẻ nghe đối với hai việc cứu giúp người nghèo và niệm Phật sẽ đều phát tâm ngõ hầu chẳng đến nỗi vốn sẵn Phật tánh có thể thành Phật mà lại chìm đắm dài lâu trong tam đồ lục đạo, oan uổng chịu khổ sở chẳng thụ dụng được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 69 - Lời tựa cho bản Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh được viết bằng lối chữ Khải (1935) Cư sĩ Tào Tung Kiều dốc lòng tin tưởng Phật thừa, mang tâm tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha, làm những chuyện giúp ngặt cứu nghèo, cứu trợ tai nạn, cứu khổ, hơn mười năm qua miệt mài gắng sức, tận lực thực hiện việc lành, tốn kém chẳng ít. Mười chuyện dự tính [thực hiện] lúc đầu, nay chỉ còn hai chuyện chưa thể tiến hành. Do quyên mộ khó khăn nên phát tâm chép toàn bộ kinh Hoa Nghiêm để mong những nhà đại từ thiện thỉnh về thọ trì, đọc tụng, rồi sẽ chẳng tiếc khoản tiền lớn lao để thành tựu hai việc lành ấy thì người chép, kẻ thọ trì đều thực hiện được Tài Thí lẫn Pháp Thí. Những kẻ nghèo khổ kia do được che chở đều sanh lòng cảm kích xưng niệm Phật hiệu sẽ có thể trong đời này hoặc trong tương lai vãng sanh Tây Phương, đều là do việc chép kinh và tụng kinh phát khởi. Công đức ấy há thể nói tận ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 69 - Lời tựa cho bản Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh được viết bằng lối chữ Khải (1935) Đến khi ngài Văn Thù đến trước Đại Tháp Miếu nơi Phước Thành , Thiện Tài thân cận Văn Thù, đã chứng trọn tâm Thập Tín rồi, vâng lời ngài Văn Thù dạy, đi về phương Nam tham học với năm mươi ba vị thiện tri thức, đầu tiên tham kiến ngài Đức Vân, liền chứng Sơ Trụ. Từ đấy, hễ nghe liền chứng, cuối cùng đến chỗ Phổ Hiền, Phổ Hiền dùng oai thần gia bị, khiến sở chứng của Thiện Tài bằng với Phổ Hiền, ngang với chư Phật, thành Đẳng Giác Bồ Tát. Phổ Hiền liền vì Thiện Tài xưng tán công đức thù thắng, nhiệm mầu của Như Lai, khuyến tấn Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng đều cùng dùng công đức của mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Cực Lạc thế giới để mong viên mãn Phật Quả. Kinh này dạy rõ trọn vẹn nhân quả thành Phật trong một đời, lấy cầu sanh Tây Phương làm chỗ kết quy. Đủ biết pháp Niệm Phật cầu sanh Tây Phương là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Trong đời có hạng hành nhân miệt thị nhân quả và Tịnh Độ đều là vì chẳng biết nhân quả và Tịnh Độ chính là căn bản để thành Phật, cứ tưởng điều đó chỉ thích hợp cho hàng ngu phu ngu phụ đến nỗi tự đánh mất lợi lành. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 69 - Lời tựa cho bản Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh được viết bằng lối chữ Khải (1935) Kinh này gồm tám mươi mốt quyển, ba mươi chín phẩm, Thanh Lương quốc sư chia thành bốn phần Tín - Giải - Hạnh - Chứng. Lại gọi sáu phẩm thuộc phần Tín là Sở Tín Nhân Quả Châu . Ba mươi mốt phẩm kinh thuộc phần Giải được chia thành hai Châu: Hai mươi chín phẩm đầu gọi là Sai Biệt Nhân Quả Châu, hai phẩm sau gọi là Bình Đẳng Nhân Quả Châu. Phần thứ ba là Hạnh gồm một phẩm kinh, được gọi là Thành Hạnh Nhân Quả Châu. Phần thứ tư là Chứng gồm một phẩm kinh, được gọi là Chứng Nhập Nhân Quả Châu. “Châu” có nghĩa là sự lẫn lý đều trọn đủ, không bị khiếm khuyết. Đại cương của trọn bộ kinh đã được nêu ra hết sạch, y theo đây để tu trì sẽ đạt thẳng tới chỗ sâu thẳm. Tám hội trước trọn chẳng có phàm phu, Nhị Thừa. Tuy có thiên long bát bộ, nhưng đều là bậc đại quyền thị hiện, chẳng thật sự là phàm phu bị trói buộc bởi nghiệp. Một hội cuối tuy có Thanh Văn như ngài Xá Lợi Phất v.v… dẫu đã chứng thánh quả, nhưng ở trong hội chẳng thấy được Pháp Thân thắng diệu của đức Như Lai, chẳng nghe diệu lý viên đốn Nhất Thừa, chỉ thấy thân ứng hóa của Như Lai và nghe pháp sanh diệt Tứ Đế mà thôi. Đấy gọi là “một thân hiện tướng, nhưng thấy thù thắng hay kém hèn khác biệt; một âm thuyết pháp, nhưng nghe thành pháp Thiên hay Viên khác biệt”. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 69 - Lời tựa cho bản Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh được viết bằng lối chữ Khải (1935) Lý do sự hiển, sự do lý thành, lý sự viên dung mới hợp Phật đạo. Đời có kẻ cuồng chuyên trọng lý tánh, chẳng chuyên chú sự tu, trên là trái nghịch lời Phật dạy, dưới là phụ bạc tự tâm, tự lầm, lầm người, thật đáng thương xót! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 69 - Lời tựa cho bản Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh được viết bằng lối chữ Khải (1935) Thật Tế lý địa chẳng lập mảy trần, phàm - thánh, chúng sanh - Phật đều khó xưng nói. Về phương diện tu trì, cần phải đầy đủ các đức. Nếu thiếu một pháp, chẳng thể chứng Pháp Thân được! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ta trong trần điểm kiếp trước đã sớm thành Chánh Giác, vì độ chúng sanh bèn thị hiện giáng sanh trong thế gian, ẩn giấu thánh đức, thị hiện chưa ngộ giống như chúng sanh để làm gương cho muôn loài. Xuất gia, tu đạo, đến lúc sao Mai vừa lố dạng, hoát nhiên đại ngộ, than rằng: “Lạ thay, hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ trí huệ của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng, chấp trước thì Nhất Thiết Trí, Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí đều được hiện tiền”. Do vậy, trong hội rộng lớn như biển, [những vị] tụ họp như mây nhóm về thế giới Hoa Tạng đều là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, tức các Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị. Trong Bồ Đề Tràng và sáu nơi khác , nói Nhất Chân pháp giới tịch chiếu viên dung, chúng sanh và Phật chẳng hai, lý tánh chẳng thể gọi là có hay không, và sự tu nhân chứng quả của các giai đoạn từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác cho đến Diệu Giác Phật Quả. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 69 - Lời tựa cho bản Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh được viết bằng lối chữ Khải (1935) Chớ nói con người luân hồi thành súc vật là chuyện mờ mịt khó thể tra cứu, sử sách đã ghi chép nhiều không thể kể xiết! Ngay cả những chuyện thấy nghe gần đây cũng chẳng ít gì! Vì thế, đương nhiên phải tin tưởng sâu xa, đừng tạo sát nghiệp, do đã tạo sát nghiệp ắt sẽ phải chịu sát báo! Kinh dạy: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Sợ nhân thì chẳng gây nhân giết chóc, sẽ tự chẳng có sát báo. Sợ quả chỉ là uổng công kinh sợ, trọn chẳng có ích gì! Ông Châu Thiện Xương ở Dư Diêu từ sau khi quy y chẳng ăn đồ mặn, do năm sau nhằm đúng dịp ông phải lo liệu cỗ bàn cúng giỗ vị tổ đời thứ hai mươi chín là Liễu Am Công. Những vật phẩm để cúng từ trước đến giờ đều có lệ nhất định rồi, chẳng được thay đổi. Ông ta đã bàn bạc sẵn biện pháp với tộc thúc tổ (ông chú trong họ) là cụ Sở Thường. Cụ Thường là người thông suốt, hiểu lý, hết sức tán thành. Bèn vào ngày Đông Chí, tập hợp cả họ bàn bạc, kể từ năm sau trở đi, từ rày giỗ tổ nhất loạt dùng đồ chay, chẳng dùng cỗ mặn. Mọi người đều cùng chấp thuận, vĩnh viễn lấy đó làm lệ nhất định, cậy tôi viết lời tựa để con cháu đời sau và những người thấy nghe ai nấy đều hành lòng hiếu chân chánh. Do vậy, bèn nói đại lược nguyên do như thế đó. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 68 - Lời tựa [giãi bày ý nghĩa việc] Cúng Tế Tổ Tiên Bằng Cỗ Chay (1936) Người đời chỉ biết đời hiện tại, chẳng biết đến quá khứ, vị lai. Vì thế, giết thân chúng nó để no ứ bụng ta, coi đó là lẽ đương nhiên. Nếu biết đời đời kiếp kiếp phải đền trả lẫn nhau, cũng như ta và những con vật ấy là cha mẹ, anh em, quyến thuộc của nhau, sanh ra nhau, là oán gia đối đầu của nhau, giết lẫn nhau, đừng nói chẳng dám tự ăn, dù tế lễ trời đất, tổ tông, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa cũng chẳng dám dùng thịt! Bởi lẽ, thịt là vật do tinh huyết tạo thành, nói trời đất thần thánh hưởng những thứ ấy, khác gì vu báng các ngài ăn thịt người! Cúng giỗ tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa, nào khác giết tổ tông, cha mẹ, khách khứa trong quá khứ để cung phụng tổ tông, cha mẹ, khách khứa trong hiện tại, lại còn khiến cho tổ tông, cha mẹ, khách khứa [trong hiện tại] bao kiếp phải thường chịu quả báo giết hại ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 68 - Lời tựa [giãi bày ý nghĩa việc] Cúng Tế Tổ Tiên Bằng Cỗ Chay (1936) Kinh Phạm Võng dạy: “Nếu là Phật tử thì do lòng Từ nên thực hiện chuyện phóng sanh. Hết thảy người nam là cha ta, hết thảy người nữ là mẹ ta. Ta đời đời không lúc nào chẳng được họ sanh ra. Vì thế, chúng sanh trong lục đạo đều là cha mẹ ta, giết để ăn thịt tức là giết cha mẹ ta vậy”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Do con người ăn dê, dê chết thành người, người chết thành dê, chết chết, sống sống, ăn nuốt lẫn nhau, do ác nghiệp cùng sanh đến hết đời vị lai. Ngươi thiếu mạng ta, ta trả nợ ngươi. Do nhân duyên ấy, trải trăm ngàn kiếp thường ở trong sanh tử!” Phẩm Đoạn Thực Nhục (bỏ ăn thịt) của kinh Nhập Lăng Già dạy: “Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay luân hồi chẳng ngơi trong sanh tử, không ai chẳng từng là cha mẹ, anh em, con cái, quyến thuộc cho đến bạn bè, người thân ái, tôi tớ, đổi sang kiếp khác lại mang những thân cầm thú v.v… Sao lại giết chúng để ăn thịt?” - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 68 - Lời tựa [giãi bày ý nghĩa việc] Cúng Tế Tổ Tiên Bằng Cỗ Chay (1936) Do vậy, nói: Sát sanh để tế trời đất chính là trái nghịch đức hiếu sanh của trời đất, thiên thần địa kỳ há coi những con vật ô uế ấy là thơm sạch mà hâm hưởng hay sao? Phàm những kẻ cúng tế chỉ là muốn mượn cớ đó để ăn những thứ đồ cúng đấy thôi! Đối với chuyện cúng tế tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa, hãy nên nghĩ cách có ích cho tổ tông, cha mẹ, khách khứa thì mới hợp lý. Nay dùng sát nghiệp cực thảm khốc để biểu thị tấm lòng hết sức thành kính của ta, khiến cho tổ tông, cha mẹ, khách khứa đều phải mang lấy cái họa do sự giết chóc thì tấm lòng thành kính ấy chính là họa hại, chứ chẳng phải là thành kính! Huống chi hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ quá khứ, là chư Phật vị lai, chẳng càng ra sức cứu vớt, lại ngược ngạo biểu thị lòng thành kính của ta bằng cách ra tay sát hại ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 68 - Lời tựa [giãi bày ý nghĩa việc] Cúng Tế Tổ Tiên Bằng Cỗ Chay (1936) Chuyện ăn thịt là chuyện kỳ quái nhất, nhưng do quen làm đã lâu, chẳng biết là sai, ngược ngạo coi đó là lễ. Vì thế, tế trời đất, cúng giỗ tổ tông, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa đều dùng thịt làm vật biểu thị tấm lòng cung kính. Thánh nhân thế gian chẳng nói đến sự lý nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo, cũng tùy thuận tâm tình của thế tục mà làm theo, nhưng vẫn ra rả về đạo “thương dân, yêu vật”. Suy từ lòng nhân yêu thương loài vật của thánh nhân, đủ biết sự vô nghĩa của việc dùng thịt nhằm biểu lộ lòng thành, lòng hiếu thảo, hay lòng cung kính! Để biểu thị tấm lòng thành, hiếu thảo, cung kính của ta, hãy nên dùng những món hết sức nhân từ, tươi tắn, thanh tịnh thì mới nên, sao lại dùng những con vật hết sức ô uế như heo, dê, gà, vịt, cá, tôm v.v… Chúng đang sống sởn sơ lại đem giết chết. Lúc những con vật ấy chết, nỗi đau đớn thảm khốc, lòng oán hận khó thể tuyên nói được. Người có lòng nhân sao nỡ giết những con vật ấy để biểu thị tấm lòng của chính mình ư? Hãy thử suy nghĩ xem lòng thành kính ấy có phải là lòng thành kính thuận lý hay không? Hay là lòng thành kính trái đức vậy? Người nhân cúng giỗ tổ tiên còn tìm thóc từ nơi người có lòng nhân. Nay cầu món thịt bị giết, bị chặt mà là thành kính hay sao? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 68 - Lời tựa [giãi bày ý nghĩa việc] Cúng Tế Tổ Tiên Bằng Cỗ Chay (1936) Đối với đủ mọi tà kiến, kiến giải sai lầm, truyền dạy riêng tư, bí mật chẳng truyền của hết thảy ngoại đạo, những lời nói nhăng nói cuội tự xưng là “thật sự được tâm truyền của Phật, Tổ” cần gì phải nhắc đến nữa! Tu chỉnh [Kỹ Lộ Chỉ Quy của cư sĩ Chiến Đức Khắc và Lý Đức Minh] xong xuôi, sắp giao cho thợ in, lại nhận được bài Phát Lộ Sám Hối Văn của ông Thành Phục Sơ gởi đến. Đây cũng là một sự chỉ dạy đường về nơi ngõ rẽ lớn lao rất phổ thông; do vậy, bèn đem in kèm vào sau sách hòng lưu thông rộng rãi để làm gương soi cho người khắp cõi đời vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 67 - Lời tựa sách Kỹ Lộ Chỉ Quy (1936) Quang nghiệp chướng sâu nặng, trí huệ cạn mỏng, mấy chục năm qua chuyên tu pháp này. Gần đây, các ông Chiến Đức Khắc và Lý Đức Minh ở Cử Thành, tỉnh Sơn Tây, lầm nghe người khác nói, gởi thư xin quy y. Do vậy, liền dạy họ “hàng phàm phu sát đất muốn liễu sanh thoát tử ngay trong đời này mà nếu không niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì trọn chẳng có pháp nào khác để mãn nguyện cả!” Lại gởi cho họ những sách như Văn Sao v.v… để làm căn cứ tu trì. Ông Đức Khắc bèn dựa theo những ý nghĩa ấy, soạn ra cuốn Kỹ Lộ Chỉ Quy (chỉ đường về nơi ngã rẽ), mượn hình thức vấn đáp để tháo gỡ nghi ngờ, làm sáng tỏ tông chỉ. Lại cậy ông Đức Minh giảo duyệt, chí mong lợi người chẳng tiếc tâm lực. Sách đã được ấn hành lưu thông, gởi sách đến [chỗ Quang] cầu ấn chứng. Quang đọc xong, khôn ngăn an ủi, vui vẻ. Trong ấy có chỗ câu chữ, ý nghĩa chưa viên mãn, sợ độc giả khó thể lãnh hội, nên sửa chữa đôi chút để vừa xem sẽ hiểu ngay, trọn chẳng còn nghi ngờ, bàn bạc nữa! Cho ấn hành để lưu thông rộng rãi ngõ hầu [người đọc] đối với giáo điển trong suốt một đời đức Phật, chỉ nương theo một pháp khế lý, khế cơ “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương” để tu. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 67 - Lời tựa sách Kỹ Lộ Chỉ Quy (1936) Tam giới không đâu chẳng phải là quán trọ, [chúng sanh trong] lục đạo đều là kẻ nghèo cùng. Tuy hứng chịu khổ - vui tạm thời sai khác, nhưng hết vui sẽ tới khổ, rốt cuộc chẳng phải là chỗ an thân lập mạng rốt ráo! Do vậy, đức Thích Ca Thế Tôn ta đặc biệt rủ lòng thương xót, thị hiện giáng sanh trong thế gian, thị hiện thành Chánh Giác, tùy theo căn cơ chúng sanh nói đủ mọi pháp khiến cho khắp các chúng sanh đều theo đường về nhà, nhận lãnh của gia bảo, vĩnh viễn hưởng an lạc. Nhưng các pháp ấy mỗi pháp lợi lạc cho một loại căn cơ, lại chẳng dễ tu tập, dẫu tu cũng khó thể liễu thoát ngay trong đời này, bởi hoàn toàn cậy vào sức Giới - Định - Huệ của chính mình để đoạn Hoặc chứng Chân thì mới thoát sanh tử. Chúng sanh đời Mạt Pháp khó lòng trông mong được! Do lòng đại từ bi, đức Như Lai lại bày ra một pháp môn đặc biệt, đó là “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương”, để những người đã đoạn Hoặc sẽ nương vào Phật từ lực mau chứng Bồ Đề, kẻ chưa đoạn Hoặc sẽ nương vào Phật từ lực liền thoát sanh tử. Thích hợp khắp ba căn, gồm thâu trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn; thượng thánh hạ phàm cùng nương về, kẻ mới phát tâm lẫn người tu lâu đều cùng tiến. Pháp môn này không riêng gì phàm phu đầy dẫy phiền não nên chuyên tu, ngay cả bậc Đẳng Giác Bồ Tát sắp thành Phật cũng cần phải dùng mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực Lạc thì mới có thể viên thành Phật quả. Pháp môn lớn lao như hư không chứa đựng rộng khắp, pháp môn lợi ích như mùa Xuân khiến cho khắp mọi loài sanh trưởng; trọn cả kiếp tán dương cũng khó lòng cùng tận. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 67 - Lời tựa sách Kỹ Lộ Chỉ Quy (1936) Muốn vãn hồi sát kiếp thì phải bắt đầu từ kiêng sát sanh. Sách kiêng giết rất nhiều, nhưng sách cảm động lòng người, ngăn dứt cơ duyên giết chóc thì sách này có thể tôn là bậc nhất; bởi lẽ, loài vật còn có những hạnh cao đẹp như thế, người có lòng nghĩ đến người khác nào dám buông lung giết ăn nữa ư? Trong lời tựa lại giảng rõ ta và loài vật đều là Phật chưa thành, đức Phật muốn ngưng dứt sát kiếp trong cõi đời, liền chẳng tiếc sức hiện thân trong dị loại để cũng bị con người giết; đã giết rồi mới biết là do Phật hóa hiện. Kẻ biết tốt - xấu sẽ chẳng dám buông lung giết ăn y như cũ để tự chuốc lấy nỗi lo. Tuy cuốn sách này chẳng nói đến chuyện kiêng giết, nhưng quả thật là sách đứng đầu về kiêng giết, chấn động kẻ điếc, sáng mắt người đui, khiến cho những ai xem thấy đều dấy lòng, đều tự suy nghĩ: “Loài vật còn như thế, lẽ nào con người thua chúng?” bèn cực lực sốt sắng hành trì để khỏi hổ thẹn. Từ đấy, gắng sức trọn hết thiên chức, sống chẳng làm thây đi thịt chạy, tận lực tu tịnh hạnh, chết sẽ về thẳng thế giới Cực Lạc, sẽ thấy lễ nghĩa, nhân nhượng hưng khởi, can qua chấm dứt, thiên hạ thái bình, chánh trí mở mang, tà chấp tiêu diệt, sự giáo hóa của Phật được rộng khắp. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 66 - Lời tựa cho sách Vật Do Như Thử (1937) Người đời sát sanh quen thói nên coi thường, sự thể lớn - nhỏ gì cũng đều phải giết chóc. Tế thần, cúng giỗ tổ tông, phụng dưỡng cha mẹ, đãi khách, không có thịt sẽ chẳng thể thành lễ được! Đem chuyện cực khổ, cực thảm giáng xuống thân loài vật, nhằm biểu thị tấm lòng thành khẩn, hiếu kính của ta. Nếu luận trên phương diện mê muội thì còn chấp nhận được, chứ luận trên thực tế thì đáng thương quá đỗi! Do hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay luân hồi sáu nẻo, lần lượt làm cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, sanh ra lẫn nhau, trở thành oan gia đối đầu của nhau, tuần hoàn báo thù, đền đáp, giết hại lẫn nhau. Trong các kinh Đại Thừa, đức Phật đã nhiều lượt khuyên răn nhưng ít kẻ thấy nghe. Dẫu được thấy nghe, nhưng kẻ tin nhận, vâng làm, lại càng ít hơn nữa! Do vậy, Phật dùng lòng Đại Bi, hiện trong dị loại để con người giết ăn. Đã giết xong, bèn hiện các tướng lạ ngõ hầu hết thảy mọi người biết là do Phật hiện, mong dứt sát kiếp để chúng sanh được yên. Như vỏ sò nghêu, hông bò, móng dê, răng lợn, yếm ba ba đều có [hình ảnh] đức Phật ngự [trong ấy] khiến tai mắt con người [thấy nghe] phải kinh sợ, dứt cơ duyên giết chóc trong cõi đời, những chuyện như vậy được ghi chép trong sử sách kể sao cho trọn? Trước khi giết đều nói là loài thú, đã giết rồi, mới biết là Phật. Do vậy biết sát sanh chẳng khác gì giết Phật! Dẫu không phải do đức Phật hiện ra, cũng vẫn là Phật đời vị lai. Giết ăn thì tội quá biển cả, núi non, hãy gấp đau đáu răn chừng ngõ hầu được giải thoát. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 66 - Lời tựa cho sách Vật Do Như Thử (1937) Trong thời Gia Khánh - Đạo Quang nhà Thanh, tại huyện Quảng Phong tỉnh Giang Tây, Thái Sử Từ Khiêm, tự Bạch Phảng, ẩn cư soạn sách hòng giác thế yên dân, chí thiết tha răn kiêng giết, đọc rộng các sách, phàm những đức hạnh tốt đẹp của loài vật đều tập hợp lại, soạn thành một cuốn sách, phân chia thành mười bốn tấm gương hiếu hữu, trung nghĩa, trinh liệt, từ ái, thương kẻ cô độc, quyến luyến nghĩa cũ, giữ chữ tín, giữ phận khiêm tốn, giúp đỡ điều lành, cứu nạn, báo đức, rửa sạch tiếng oan, hiểu biết nhiều thứ, thông minh trí huệ, đặt tên là Vật Do Như Thử (loài vật còn như thế ấy). Ấy là vì muốn cho người thấy kẻ nghe đều phát khởi [tấm lòng] giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thấu hiểu đức hiếu sanh của trời đất, chẳng tàn sát dị loại, đề cao nỗi lòng “coi mọi người như ruột thịt, coi muôn vật như chính mình” của đạo Nho, che chở khắp quần sanh. Nghĩ đến những loài vật ấy còn có những hạnh đẹp như thế, mà chúng ta mang tấm thân sáu thước, sánh cùng trời đất thành ba ngôi, xưng là Tam Tài, lại còn được kinh sách của thánh hiền giáo huấn, nếu chẳng kế thừa người xưa, mở lối cho người đời sau, tán trợ quyền sanh thành, dưỡng dục của trời đất, yêu dân, thương vật, hòng thỏa tấm lòng Từ của trời đất thì chẳng những đã cô phụ ân sâu nuôi dạy của trời đất, thánh hiền, mà còn hết sức thẹn với những dị loại bay, chạy, lặn ngụp nữa! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 66 - Lời tựa cho sách Vật Do Như Thử (1937) Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Phật xem hết thảy chúng sanh đều là Phật, nên kinh Phạm Võng nói: “Ta là Phật đã thành, các ông là Phật chưa thành. Nếu tin được như vậy, giới phẩm đã đầy đủ”, bởi lẽ, tin chính mình là Phật chưa thành thì chắc chắn muốn cải ác tu thiện, phát tâm Đại Bồ Đề tự lợi, lợi tha, ngõ hầu đoạn sạch Phiền Hoặc, đích thân chứng được Chân Như Phật Tánh sẵn có nơi cái tâm này. Tin hết thảy chúng sanh trong sáu đường đều là Phật chưa thành, chắc chắn sẽ tận lực khuyên lơn, chỉ bảo, duy trì đồng loại, chắc chắn chẳng làm chuyện tranh giành, tàn sát lẫn nhau, chắc chắn sẽ muốn kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, tạo sự thuận lợi lớn lao cho dị loại, chắc chắn sẽ không có cái tâm thảm độc ăn thịt kẻ khác để bồi bổ cho ta. Do con người chẳng biết chính mình và hết thảy chúng sanh đều là Phật chưa thành nên mới tranh chấp, giết người ngập thành, ngập đồng chẳng tiếc nuối, cũng như giết thân chúng nó hòng thỏa thích bụng miệng ta. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 66 - Lời tựa cho sách Vật Do Như Thử (1937) Lúc cư sĩ [Lạc Quý Hòa ở Thiệu Hưng] còn trẻ, rất hâm mộ chí hướng “chẳng làm lương tướng, ắt phải làm lương y” của cổ nhân, bèn lưu tâm nơi y lý để mong lợi người. Lâu ngày, tinh thông y thuật, khá nổi tiếng. Kế đó, nghĩ: “Tâm bệnh là gốc, thân bệnh là ngọn; nếu chẳng trị tâm bệnh sao cho hết thảy mọi người đích thân thấy được bản lai diện mục, thoát lìa sanh tử luân hồi thì lợi ích rất nhỏ, rốt cuộc chẳng phải là đạo tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha. Đời coi đức Phật là Đại Y Vương, ta hãy nên cầu y thuật nơi Ngài ngõ hầu ta cùng người đều được rốt ráo yên vui”. Do vậy, giao du với các thiện tri thức, nghiên cứu kinh Phật, mới biết y thuật của đức Phật độc nhất vô nhị trong cõi đời, như ra khỏi nhà tối thấy được mặt trời, tấm lòng vui sướng không thể nào sánh ví được! Nhưng đức Phật nói ra vô lượng vô biên pháp môn, cầu lấy pháp trực tiếp, nhanh chóng nhất, viên đốn nhất, thực hiện dễ, thành công cao, ngõ hầu nghiệp lực phàm phu do không có sức đoạn Hoặc sẽ có thể ngay trong đời này thoát khỏi tam giới lên chín phẩm sen, bỏ thân phàm dự vào dòng thánh thì chỉ riêng một pháp Tịnh Độ là được như vậy mà thôi! Do vậy, lắng lòng nghiên cứu, hiểu được cương yếu, gặp dịp pháp sư Hoa Trí kết xã niệm Phật, [pháp sư] bèn xin [cư sĩ] thay mình tuyên giảng, giảng đến đâu ghi đến đó, thành một cuốn sách, từng đăng tải trên báo Đại Vân để tặng những người cùng chí hướng. Phàm ai thấy nghe đều hoan hỷ, tán thán, bảo là hợp với căn cơ. Các cư sĩ thuộc hội Phật học ở Dư Diêu khuyên nên in ra để lưu truyền, cậy tôi viết lời tựa. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 65 - Lời tựa cho tác phẩm Tịnh Độ Tam Yếu Thuật Nghĩa (1927) Cư sĩ Quách Hàm Trai ở Hồ Nam xem rộng rãi các sách vở, tiện tay sao lục những chuyện đáng để làm gương, đáng để răn dè được bao nhiêu đó chuyện, đặt tên là Thích Môn Pháp Giới Lục với chí nguyện mong mỏi lợi lạc mọi người. Nhưng do tuổi đã già suy, tinh thần chẳng đủ, chưa thể sắp xếp trước sau theo từng triều đại được, thật chưa được thỏa đáng lắm, nhưng sách khiến cho người đọc bắt chước theo, đề phòng, răn dè thì nào có trở ngại gì! Phần Phụ Lục cuối sách là một số đoạn giáo huấn thiết yếu trích lục từ Vân Thê Pháp Vựng. Phần trước là những hạnh đẹp đáng noi theo, phần này chính là những lời tốt lành. Miệng thường tụng, tâm thường nghĩ những lời hay hạnh đẹp của cổ đức sẽ giống như người nhiễm hương, thân tự có mùi thơm, dù kẻ ấy ương bướng, kém cỏi đến đâu cũng trở thành bậc “tri hành hợp nhất” , huống là những bậc đại chí một bề mong thành thánh thành hiền, học Phật, học Tổ, lợi ích ấy làm sao lường được? Nguyện tứ chúng học Phật thấy người hiền mong được bằng, thấy kẻ chẳng hiền trong lòng tự phản tỉnh thì pháp môn may mắn lắm, thế giới may lắm thay! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 64 - Lời tựa cho cuốn Thích Môn Pháp Giới Lục (1937) Rặng Côn Luân tuy sanh ngọc, vẫn có đá tảng; rừng chiên-đàn phần nhiều thơm ngát, vẫn sanh cỏ thối. [Đó là vì chư Tăng] hoặc thừa nguyện thị hiện bệnh hạnh , hoặc do mê tâm nên phạm Thanh Quy. Dấu tích của những lợi ích bị mất mát và những khổ báo chiêu cảm đều đáng để khơi gợi thiện tâm cho người đời sau, răn dạy đời Mạt phải gắng chí, vĩnh viễn là gương soi về sự trái đạo nghịch pháp trong pháp môn. Vì thế, chưa chắc [những gương phạm giới ấy] đã là trái nghịch sự giáo hóa của Phật, mà là nhằm khiến cho con người y giáo phụng hành vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 64 - Lời tựa cho cuốn Thích Môn Pháp Giới Lục (1937) Đức Như Lai chẳng xuất hiện, cõi đại thiên giống như đêm dài. Phật nhật đã chiếu khắp, các pháp đều rạng rỡ. Chẳng riêng gì tam thừa thánh nhân mau lên được bờ giác, mà còn khiến cho hàm thức trong sáu đường đều dần dần thoát vòng khổ. Phật dùng một âm diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy theo mỗi loại đều hiểu. Ví như một trận mưa nhuần thấm trọn khắp, cây cỏ mỗi loài tự sum xuê; một vầng trăng hiện bóng khắp nơi, nơi sông biển tùy mỗi người thấy khác. Chỉ rõ Phật tánh sẵn có, chúng sanh và Phật vốn đồng. Dạy rõ do tu trì thuận hay nghịch [Phật tánh] mà phàm - thánh thật khác biệt. Chia ra nói thành năm thừa, để mong [chúng sanh] theo đường về nhà. Chẳng lập một pháp ngõ hầu hiểu gốc mà biết ngọn. Ngũ tánh , tam thừa cùng về một đạo; Tứ Đế, Lục Độ chẳng ngoài một tâm. Hết thảy pháp Thiên, Viên, Đốn, Tiệm, pháp pháp dung nhiếp. Hết thảy hạnh Đại, Tiểu, Quyền, Thật, hạnh hạnh viên thông. Đây chính là quy củ lớn lao nuôi dạy hàng ngàn căn cơ của đức Như Lai, là nghĩa lý lớn lao trong giáo pháp suốt cả một đời đức Phật. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 64 - Lời tựa cho cuốn Thích Môn Pháp Giới Lục (1937) Với xuất xứ của mỗi câu được sao lục trong bản [Gia Ngôn Lục] này, thuộc quyển nào, trang nào, ông Lý đều ghi kỹ để người đọc có thể đối chiếu với toàn văn trong Văn Sao. Do chỉ chép lấy những nghĩa trọng yếu trong các bài văn, xếp thành một loại, nên thường có [những đoạn trích] lời văn, ý nghĩa khá giống nhau, nhưng tôi chẳng lược bớt đi, ngõ hầu người đọc hưởng lợi ích được khuyên đi, khuyên lại nhiều lần sẽ đoạn ngay được lòng nghi, phát sanh lòng tin. Xuất xứ từ quyển nào, trang số mấy đều dựa theo [cách đánh số trong bản] Tăng Quảng Văn Sao. Lấy bản Tăng Quảng Văn Sao làm bản lưu thông vĩnh viễn, những thứ khác (tức những bản in có trước bản Tăng Quảng) thì về lâu về dài sẽ không phải tiến hành in lại nữa. Lại vì Văn Sao văn từ sâu rộng, rườm rà, có lẽ kẻ sơ cơ khó lòng phân biệt, hiểu được [đâu là pháp môn] dễ hiểu nhưng hợp cơ nghi, muốn cho họ trước hết thấy được cửa nẻo, từ đấy sẽ thiết thực tấn tu, tự đạt đến chỗ cùng cực, khỏi phải đến nỗi nhìn biển cả than dài, hoặc đến nỗi đành lòng lui sụt. Nhân đây, chép cả mục lục cuốn Văn Sao Tuyển Ðộc vào sau lời tựa cuốn Gia Ngôn Lục để người chưa từng nghiên cứu Phật học có cái nương tựa để tiến bước vào đạo. Tâm lợi người ấy có thể nói là châu đáo hết mức, không còn gì hơn được nữa! Do vậy, tôi trình bày duyên do như thế để mong người đọc đều cùng được biết. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 63 - Đề từ và lời tựa cho bộ Gia Ngôn Lục (1927) Cư sĩ Viên Tịnh Lý Vinh Tường trong mấy năm qua chuyên tâm nơi học, đối với luận Khởi Tín, kinh Lăng Nghiêm, kinh Viên Giác đều viết sớ giải. Quang bảo: “Người thanh niên nên thiết thực dụng công niệm Phật trước đã, đến khi nghiệp tiêu trí rạng, chướng tận, phước dày rồi sẽ lại nêu tỏ [ý Phật], tự có thể xiển minh ý Phật tuyên truyền khắp vũ trụ”. Khi ấy, ông Lý vẫn chẳng chịu là đúng. Sau này, vì dụng tâm quá độ, tinh thần, thân thể mỗi ngày một suy, mới hay lời tôi nói chẳng sai. Ông ta bèn đọc kỹ Văn Sao, hoan hỷ khôn xiết nên trích lục những nghĩa trọng yếu, chia thành từng môn, từng loại, soạn thành một cuốn, cậy Quang viết lời đề từ, tính dùng giấy in báo in một ngàn cuốn để đáp ứng nhu cầu cần đọc ngay của độc giả (do những phần ấy đã được đăng trước trên tờ lâm san của Cư Sĩ Lâm, nên độc giả nhiều lượt thôi thúc ấn hành). Tháng Năm, Quang đến đất Thân (Thượng Hải), ông ta bèn cùng vợ xin quy y. Tháng Tám sách in ra, chẳng lâu sau sách được thỉnh hết. Thư yêu cầu nườm nượp gởi tới, tôi bèn bảo cơ quan quản trị nhà tù tại Tào Hà Kính sắp đặt việc in sách. Cư sĩ Trần Ðịch Châu xin đảm nhiệm việc trình bày, cũng như chịu phí tổn đánh máy bốn bản sao. Ông lại chịu tiền in hai ngàn bản. Cùng một lúc đảm nhiệm ấn loát, gần đến hai vạn. Đối với những bản đánh máy thì dự tính để lại một bản ở cơ quan quản trị nhà tù hầu [đáp ứng cho việc tái bản] lưu thông sách tại Thượng Hải, một bản gởi về cho cư sĩ Viên Tịnh giữ, để chính ông ta và các vị thiện sĩ sử dụng. Một bản gởi sang Tuyên Giảng Đường tại Cáp Nhĩ Tân để những vị có tín tâm nơi vùng Quan Ngoại dễ thỉnh đọc. Một bản gởi sang Thương Hội ở Tân Gia Ba thuộc Nam Dương để Hoa kiều ở các đảo đều cùng được đọc tụng. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 63 - Đề từ và lời tựa cho bộ Gia Ngôn Lục (1927) Ấn Quang tôi từ lúc búi tóc đọc sách, nhiễm ngay chất độc bài Phật của Hàn, Âu, Trình, Châu, may là không có được cái tài như Hàn, Âu, Trình, Châu. Nếu như có được chút tài như họ, ắt sẽ đến nỗi tự mình lầm, khiến người lầm, thân còn sống mà đã hãm trong địa ngục A Tỳ mất rồi! Từ năm mười bốn, mười lăm tuổi về sau, bệnh nặng nhiều năm. Từ đấy chiêm nghiệm khắp xưa nay, xem kỹ kinh sách, mới hay những thuyết do Hàn, Âu, Trình, Châu lập đó đều là những tri kiến môn đình, tuyệt chẳng đạt đến những sự huyền áo. Nhược quan được một năm, tôi liền xuất gia làm Tăng, chuyên tu Tịnh nghiệp. Thề trọn một đời này làm một kẻ tự lo giải thoát , chẳng lập môn đình, rộng thâu đồ chúng đến nỗi con cháu đời sau làm cho Phật pháp bại hoại, kéo cả Ấn Quang tôi vào trong địa ngục A Tỳ chịu khổ với chúng. Ðến năm Quang Tự 19 (1893), hòa thượng Hóa Văn chùa Pháp Vũ ở Phổ Ðà lên kinh đô thỉnh Ðại Tạng Kinh, sai tôi coi sóc việc ấn loát. Xong việc, Hòa Thượng mời tôi cùng về núi. Biết tôi chẳng thích tham gia [Tăng] sự, Ngài cho tôi ở riêng một căn liêu , tùy ý tu trì. Ðến nay đã ba mươi lăm năm rồi. Ở núi lâu ngày, hễ có ai giao cho viết lách gì, tuyệt chẳng dùng đến tên gọi Ấn Quang. Ngay cả những văn tự chính mình cần phải ký tên, cũng chỉ tùy tiện viết hai chữ là xong. Vì thế trong hai mươi năm qua, trọn không có người khách nào đến thăm, cũng không có thư từ qua lại làm phiền. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 63 - Đề từ và lời tựa cho bộ Gia Ngôn Lục (1927) Pháp môn Tịnh Ðộ lý cực cao sâu, sự cực giản dị. Do vậy, người thiên tư thông mẫn, tri kiến cao siêu thường xem [Tịnh Ðộ] là pháp tu của bọn ngu phu, ngu phụ, chẳng chịu tu trì. Nào biết đây là pháp môn rốt ráo thành thủy, thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới độ chúng sanh! Họ thấy kẻ ngu phu, ngu phụ tu được pháp này bèn coi thường pháp môn, sao chẳng xét trong hội Hoa Nghiêm, bậc đã chứng bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật, vẫn phải dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc ngõ hầu viên mãn Phật Quả? Miệt thị pháp môn Tịnh Ðộ chẳng xứng đáng để tu tức là coi những vị trong hội Hoa Nghiêm thuộc hạng người gì? Hơn nữa, chỗ quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm có đáng nên tôn trọng hay nên coi thường đây? [Có thái độ như vậy] không có gì khác hơn là do chưa xét kỹ nguyên do của từng pháp môn thông thường và đặc biệt, cũng như sự lớn, nhỏ, khó, dễ giữa tự lực và Phật lực, nên mới đến nỗi như thế! Nếu đã xét kỹ, há chẳng học đòi Hoa Nghiêm Hải Chúng, nhất trí tiến hành cùng cầu vãng sanh ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 63 - Đề từ và lời tựa cho bộ Gia Ngôn Lục (1927) Gần mười mấy năm qua, người khác đều lầm hỏi đến, lời đáp cũng giống như thế ấy, chẳng dám vượt phận tí nào. Ông Từ Úy Như ở Hải Diêm cho rằng [những lời lẽ ấy] thiết thực, gần gũi, đôi ba lượt đem in ở Bắc Kinh, Thượng Hải. Lời lẽ tuy chất phác, nhưng mọi người chẳng chê bai, tìm đọc càng nhiều, có nhiều người sanh chánh tín. Cư sĩ Lý Viên Tịnh túc căn vừa sâu vừa dầy, chú thích các kinh luận, xiển minh Như Lai tâm, sau đó vì hao tổn tinh thần, yếu bệnh ngày càng thêm nặng, bèn bỏ nơi rộng lớn chọn lấy chỗ ước lược, lập chí nối gót Đông Lâm . Lại muốn lợi lạc hàng sơ cơ, tạo thành quy củ, châm ngôn tu trì [cho họ], nên bèn trích yếu những lời trong bộ Văn Sao, phân thành từng loại để biên tập, cũng như tự bỏ ra tịnh tài in tặng những ai hữu duyên, mong cho hết thảy mọi người đều gắng sức mong thành thánh, thành hiền, giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận, ai nấy đều hoàn thành tánh thiên (bầu trời chân tánh) của chính mình, vâng làm các điều thiện, tiêu trừ sạch các điều ác, tín nguyện siêng năng niệm Phật, cầu lên được chín phẩm sen, lâm chung Phật đến tiếp dẫn, đều được như trăng in bóng trên sông, ngay lập tức vãng sanh Tây Phương, vĩnh viễn thoát vực sâu sanh tử, thấy Phật ngộ Vô Sanh, dần dần đạt đến phước huệ trọn vẹn. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 63 - Đề từ và lời tựa cho bộ Gia Ngôn Lục (1927) Tịnh Độ đại pháp môn lớn lao không gì ở ngoài nó được, như trời che khắp, như đất chở trọn. Bậc Đẳng Giác sắp thành Phật còn phải cậy nhờ pháp này; kẻ nghịch ác sắp đọa A Tỳ mười niệm lên cõi sen, thích hợp căn cơ khắp chín pháp giới, đều cùng siêng gắng đảnh lễ kính vâng, sướng thỏa tâm độ sanh của Phật, duy nhất không còn pháp thứ hai nào nữa! Tôi do sức túc nghiệp, từng làm một gã Nhất Xiển Đề, bắt chước bọn Âu, Hàn v.v… ngu xuẩn không sao chữa được. May là bị bệnh mấy năm, lúc ấy mới suy nghĩ kỹ càng: Các bậc thánh hiền xưa nay lẽ đâu đều vô tri cả? Bọn họ đều cùng tôn thờ, ta nào dám chê bai? Dẫu bậc thánh cũng có chỗ không biết, nhưng bọn họ vẫn đủ sức làm thầy bọn Âu, Hàn! Từ đó, quy y Phật, xuống tóc, khoác áo thâm. Tự lượng túc nghiệp sâu xa, Tông, Giáo ta đều chẳng thích hợp, chỉ có cậy vào Phật lực may ra mới thỏa lòng mong, nên chuyên tâm tu Tịnh nghiệp hầu được dự vào Liên Trì. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 63 - Đề từ và lời tựa cho bộ Gia Ngôn Lục (1927) Đến khi đại giáo được truyền sang phương Đông, bậc pháp tượng xuất hiện đông đảo, trước thuật của các tông đẹp đẽ khôn kể xiết. Những tác phẩm được đưa vào Đại Tạng chỉ là một hay mười phần trong trăm ngàn phần mà thôi. Trước đời Đường, để có được kinh sách đều phải sao chép. Thời Ngũ Đại, Phùng Đạo xướng xuất việc in bằng cách khắc ván. Đến đời Tống, sách Nho, kinh Phật đều in bằng lối khắc ván. Đại Tạng Kinh bản đời Tống có mười mấy loại, nhưng ni sư Hoằng Đạo thuộc Tích Sa Diên Thánh Viện chặt tay đề xướng, khắc thành bản in Đại Tạng này có thể nói là bậc trượng phu trong nữ giới, khiến cho mọi người khâm phục, bội phục. Từ đời Tống đến nay, hơn bảy trăm năm, do cõi đời nhiều phen loạn lạc, những kinh đã được in phần nhiều bị mất đi. Hai chùa Ngọa Long và Khai Nguyên ở Thiểm Tây may còn giữ được. Cư sĩ Châu Tử Kiều sang đất Thiểm lo việc phát chẩn trông thấy, bèn cùng với đại cư sĩ đất Hỗ (Thượng Hải) thương lượng in lại bằng phương pháp Ảnh Ấn, nhọc nhằn vất vả khó thể nói trọn được. Nay sắp hoàn thành đợt đầu, sai Quang viết lời tựa. Quang là một ông Tăng chẳng hiểu biết gì, chỉ biết cơm cháo, làm sao có thể nêu tỏ sự quan trọng của Đại Tạng, đành nhờ vào những gì hằng ngày đã quen nghe, gom góp lẫn lộn lại để viết cho xong trách nhiệm. Diệu nghĩa của toàn bộ Đại Tạng người đọc sẽ tự biết, dẫu chưa thể đọc trọn khắp, nhưng hồi quang phản chiếu nơi các pháp “Căn, Trần, Thức, Đại” hiện tiền sẽ đích thân chứng được viên thông, cần chi phải viết tràn lan cho nhiều để gai mắt người nhã ư ? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 62 - Lời tựa cho Đại Tạng Kinh bản Tích Sa đời Tống được in theo lối ảnh ấn (1932) Tổng hợp những pháp được nói thì có năm tông, tức là Luật, Giáo, Thiền, Mật và Tịnh. Năm tông này tuy tên gọi sai khác, nhưng lý thể là một. Hãy nên chuyên chú vào một môn, nhưng chớ nên sai lệch bỏ phế các môn khác. Như do bốn cửa vào được một thành, như do bốn mùa hợp thành một năm, [những tông ấy] mang công năng duy trì lẫn nhau, phụ trợ lẫn nhau, nếu chẳng phải là kẻ thấu hiểu sâu xa nguồn pháp sẽ chẳng thể nào biết được! Trong ấy, Luật là nền tảng ban đầu để nhập đạo; dù đạt đến viên mãn Bồ Đề vẫn phải nương tựa vào đó. Tịnh là pháp môn phổ độ, dẫu cho đã chứng Đẳng Giác vẫn phải nên hướng lòng về. Chúng sanh đời Mạt nếu không do pháp này sẽ chẳng độ được ! Bậc trí của các tông hãy gấp nên gìn giữ. Nếu không, tất cả tu trì chỉ trở thành cái nhân lành để thành quả Phật trong đời vị lai, muốn ngay trong đời này hễ siêu thoát liền vào thẳng địa vị Như Lai, e rằng chẳng phải dễ dàng đâu! Ngoài các kinh này ra, tất cả các luật Đại Tiểu Thừa, đều thuộc vào năm thời. Do vậy, chẳng cần phải nói riêng. Ngoài kinh, luật ra còn có các bộ luận do các vị Bồ Tát, tôn giả soạn ra để thích kinh, tông kinh , nhằm hiển lý, phá Hoặc, hàng ma, chế phục ngoại đạo, ngõ hầu sự giáo hóa của đức Phật sẽ nhờ vào đây mà được phổ biến khắp trong và ngoài nước. Đấy là Tam Tạng Kinh - Luật - Luận từ Phật quốc (Ấn Độ) được dịch ra. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 62 - Lời tựa cho Đại Tạng Kinh bản Tích Sa đời Tống được in theo lối ảnh ấn (1932) Lời Phật dạy trong cả một đời được chia thành năm thời: 1. Thời Hoa Nghiêm: Chỉ nói đại pháp viên đốn nằm ngoài các giới . Trời, người, Nhị Thừa đều chẳng phải là pháp khí của thời này. 2. Thời A Hàm: Nói pháp Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Quyền, Tiệm, khiến cho họ vào trong hóa thành . 3. Thời Phương Đẳng: Bàn trọn tứ giáo thích hợp khắp ba căn. 4. Thời Bát Nhã: Dùng diệu trí Bát Nhã để trừ sạch tình kiến của phàm lẫn thánh. 5. Thời Pháp Hoa - Niết Bàn: Khai Quyền hiển Thật, khai Tích hiển Bổn , thọ ký trọn khắp ba căn để họ cùng được nhận lãnh của báu trong nhà sẵn có. Niết Bàn “phù luật đàm thường” , là giáo huấn tối hậu để ba nghiệp thân - khẩu - ý đều cùng thanh tịnh như Phật, Tam Học Giới - Định - Huệ cùng được viên mãn như Phật. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 62 - Lời tựa cho Đại Tạng Kinh bản Tích Sa đời Tống được in theo lối ảnh ấn (1932) Đại Tạng Kinh chính là huệ mạng của Như Lai, là mắt cho trời người, là đuốc trí trong đêm dài vô minh, là thuyền Từ trong biển khổ sanh tử, là nguồn pháp để bậc tiên giác giác ngộ kẻ hậu giác, là gốc của đạo thế gian lẫn xuất thế gian. Nếu không phải đời trước đã trồng thiện căn, dù trải cả kiếp còn chưa được nghe tới danh tự, huống là được đích thân thừa sự cúng dường, thọ trì đọc tụng, nương theo đó mà tu tập cho đến khi được viên chứng ư? Pháp được nói trong Đại Tạng chính là pháp sẵn có trong cái tâm của mười pháp giới, chúng sanh, Phật, phàm, thánh, nơi Phật chẳng tăng, nơi chúng sanh chẳng giảm, Phật do rốt ráo chứng nên thường hưởng pháp lạc Thường - Lạc - Ngã - Tịnh. Chúng sanh vì chưa ngộ nên ngược ngạo nương theo sức của diệu tâm này để trái giác hiệp trần, mê chân đuổi theo vọng, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, vĩnh viễn ngụp lặn trong tam đồ lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra. Tam thừa thánh nhân tuy có ngộ chứng, nhưng chưa đạt đến mức rốt ráo; vì thế, vẫn chưa thể thụ dụng hoàn toàn. Đức Đại Giác Thế Tôn thương xót, thị hiện sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, tùy cơ lập giáo, đối bệnh cho thuốc, để họ theo đường về nhà, trọn chẳng lập ra khuôn khổ nào khác. Với hàng đại căn (căn cơ Đại Thừa) bèn nói thẳng đại pháp Nhất Thừa, khiến họ nhanh chóng chứng được Vô Sanh, với tiểu căn (căn cơ Tiểu Thừa) bèn trước hết dạy nương theo [những pháp môn] Quyền - Tiệm để tu trì hòng vun bồi nền tảng bước vào Đại Thừa, cuối cùng cho họ được nhận lãnh gia nghiệp, tiếp nối hưng thịnh dòng giống nhà Phật. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 62 - Lời tựa cho Đại Tạng Kinh bản Tích Sa đời Tống được in theo lối ảnh ấn (1932) Hết thảy pháp môn nếu chẳng đoạn sạch Phiền Hoặc sẽ chẳng thể thoát lìa sanh tử, chỉ có pháp Tịnh Độ này chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, liền có thể dự vào cảnh giới Phật. Có được đạo tràng tối thắng này, lại tu pháp môn tối thắng này, há chẳng nên càng thêm mến tiếc, giữ gìn, quý trọng những vật cần dùng này ư? Nếu chẳng càng thêm giữ gìn, quý trọng tức là phung phí vật của trời, phụ ân thí chủ. Dẫu có tu trì, cũng khó được tương ứng cùng Phật, vì sao? Do kẻ ấy chỉ cốt sao mình được yên ổn, thảnh thơi, mặc kệ công sức người khác chế tạo, người xưa sắp đặt, lo liệu, đủ mọi nỗi khó khăn. Nguyên do sắm sửa những thứ ấy là để cho ta tu đạo hòng liễu sanh tử. Đã coi thường những vật này, chẳng biết mến tiếc, tâm hạnh ấy hoàn toàn chẳng tương ứng với đạo, làm sao cảm được Phật xót thương nhiếp thọ để được thoát ngay khỏi biển khổ sanh tử!” Phàm những người chân thật tu hành ắt phải nhẫn được những điều người khác chẳng thể nhẫn, hành được những điều người khác chẳng thể hành, chịu nhọc nhằn thay cho người, thành tựu điều tốt đẹp cho người. Được như thế thì tương ứng với đạo, tương ứng với Phật! Nguyện những người sống trong chùa này ai nấy đều cố gắng. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 60 - Lời tựa cho cuốn Vạn Niên Bạ của Linh Nham Sơn Tự (1932) Chùa Linh Nham do ngài Bảo Chí Thiền Sư đời Lương khai sơn, Trí Tích Bồ Tát trùng hưng, là cuộc đất đạo tràng thù thắng được nhiều đời cao tăng thuộc các tông Thiền, Giáo, Luật trụ trì. Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn thù thắng vừa Tiểu vừa Đại, vừa cạn vừa sâu, hết sức bình thường, nhưng hết sức đặc biệt, lạ lùng: Thoát khỏi sanh tử ngay trong một đời này! Cách tu dễ dàng nhất, lợi ích sâu rộng nhất. Nơi cuộc đất tối thắng này, tu pháp mầu nhiệm nhất này, nếu không phải nhiều kiếp vun bồi há được gặp gỡ ư? Nhưng muốn tu hạnh thù thắng, ắt phải nhờ vào các món vật cần dùng. Vì thế, trên là kinh tượng và các món đồ vật, mỗi mỗi phải sắm sửa đầy đủ thì mới có thể thẳng đường tu tập không trở ngại. Nhưng đạo tràng tồn tại vĩnh viễn muôn đời, người thì mấy chục năm đã đổi thay. Tất cả những thứ có được này, nếu không ghi chép vào sổ, lâu ngày có thể bị mất mát. Hơn nữa, qua bao lần thay đổi, cũng không thể truy xét được nguồn gốc ban đầu. Do vậy, mỗi món đều được ghi lại để phàm những ai sống trong chùa này và làm Trụ Trì, làm Giám Viện, thấy những vật này, tâm liền tự suy nghĩ: “Những vật này là những vật cần dùng để giúp chúng ta tu trì pháp môn Tịnh Độ ngõ hầu tự lợi, lợi tha, để cùng sanh về thế giới Cực Lạc, phải yêu mến như thịt nơi thân mình, giữ gìn như tròng mắt. Chẳng phải là keo tiếc các vật mà chính là kính trọng tấm lòng thành trợ đạo của thí chủ để mong ít cần, bớt dùng, đạo nghiệp sẽ dễ thành tựu. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 60 - Lời tựa cho cuốn Vạn Niên Bạ của Linh Nham Sơn Tự (1932) Chùa [Linh Nham] này đúng là chùa thập phương: 1. Trụ Trì bất luận là Thiên Thai, Hiền Thủ, Lâm Tế, Tào Động, chỉ lấy “giới hạnh tinh nghiêm, tin sâu pháp môn Tịnh Độ” làm chuẩn. Chỉ truyền hiền, chẳng truyền pháp để dứt thói tệ pháp quyến riêng tư. 2. Truyền thừa Trụ Trì luận theo thứ tự, chẳng luận theo thế hệ, để tránh thói tệ bậc cao đức phải ở dưới kẻ đức hạnh tầm thường. 3. Không truyền giới, không giảng kinh, để khỏi bị chèo kéo, dao động, nhiễu loạn chánh niệm. Trong chùa tuy hằng ngày thường giảng, nhưng chẳng thăng tòa và níu kéo người ngoài đến nghe. 4. Chuyên nhất niệm Phật, trừ đả Phật thất ra, nhất loạt không làm hết thảy Phật sự thù tiếp. 5. Bất luận là ai chẳng được thâu nhận, thế độ đồ đệ trong chùa. Trong năm điều hễ trái một điều nào, lập tức ra khỏi chùa. Khóa tụng sớm tối phần lớn giống như công khóa thông thường, nhưng cũng có chỗ khác biệt. Người mới đến nếu không có kinh sách để xem, chắc là sẽ hiểu lầm. Vì thế, Giám Viện là Diệu Chân đại sư tính sắp xếp, ấn hành, cậy tôi viết lời tựa. Do vậy, tôi lược thuật duyên khởi như vậy đó. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 59 - Lời tựa cho nghi thức niệm tụng của đạo tràng chuyên tu Tịnh Độ Linh Nham Sơn Tự (1938) [Ở chùa Linh Nham] Mỗi ngày tu trì chẳng khác gì đả Phật thất. Khi mở Phật thất chỉ thêm lễ cúng dường Phật, hồi hướng trước bàn linh mà thôi. Bất luận [thí chủ] thỉnh bao nhiêu vị [Tăng tham dự niệm Phật] đều là cả chùa cùng niệm, nhưng đem số tiền cúng dường của thí chủ [với ý định] mời bao nhiêu vị [tham dự niệm Phật] chia đều cho cả chùa. Vì thế chẳng lập danh sách [những vị Tăng được mời tham dự Phật thất], do không lập danh sách nên không bị tỵ nạnh “ghi tên người ta mà chẳng ghi tên tôi!” Nếu làm Phật sự thù tiếp các nơi thì chánh khóa (khóa tụng chánh yếu) của chùa ắt bị gián đoạn. Khi Linh Nham đả Phật thất, công khóa chỉ có tăng thêm chứ không giảm. Vì thế, tuy công khóa nghiêm ngặt, nhưng mỗi kỳ Phật thất số người đến ghi danh thường là ba bốn chục, chỉ có mấy người bỏ đi mà thôi. Ăn uống giống hệt nhau, không phân biệt chủ, khách, hay người làm công. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 59 - Lời tựa cho nghi thức niệm tụng của đạo tràng chuyên tu Tịnh Độ Linh Nham Sơn Tự (1938) Gặp loạn Hồng Dương, chùa [Linh Nham] cháy tan hoang, vị Tăng tên Niệm Thành ở trong tháp báu, gặp đúng lúc ông Bành Cương Trực lên chơi núi, chuyện trò hợp ý, bèn tra xét rõ ràng ruộng đất. Nhân đấy, dựng hơn mười gian điện đường, nhưng vẫn chưa sắp xếp Tăng sĩ tu hành [nơi đây]. Đến đời Tuyên Thống, vị Tăng sống ở đấy do bị mất y, đánh lầm người lui tới. Người dưới núi bèn kéo nhau đến [hỏi tội], ông Tăng liền bỏ trốn. Tất cả đồ đạc trong chùa đều bị những kẻ kéo đến dọn sạch. Vị hương thân là Nghiêm Lương Xán do thấy danh sơn vô chủ, bèn bảo vị Tăng chùa Bảo Tạng là Minh Hú thỉnh thầy vị Tăng ấy là Hòa Thượng Chân Đạt đến tiếp nhận. Hòa Thượng Chân Đạt phát nguyện sau này tìm được người thích hợp sẽ giao cho người ấy chuyên tu pháp môn Tịnh Độ. Lập ra cách thức chẳng giống với những nơi khác, chuyên nhất niệm Phật, nhất loạt chẳng thực hiện hết thảy Phật sự mang tính cách thù tiếp. Bắt đầu từ năm Dân Quốc 15 (1926), hơn mười năm qua, nghiễm nhiên trở thành một đạo tràng lớn mà chẳng cầm sổ hóa duyên. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 59 - Lời tựa cho nghi thức niệm tụng của đạo tràng chuyên tu Tịnh Độ Linh Nham Sơn Tự (1938) Nghe Di Đà thệ nguyện, dạy chúng sanh phương hướng “tâm làm, tâm là” thích hợp khắp chín giới. Pháp môn Tịnh Độ là đạo thành thủy thành chung của Như Lai, thỏa thích lớn lao bản hoài của Phật. Phật, Tổ xuất thế đều lập pháp thuận theo cơ nghi. Kẻ độn căn đời Mạt nên chọn lấy pháp vừa khế lý lại vừa khế cơ để chuyên ròng dốc sức, ngõ hầu nương theo Phật từ lực, vượt ngang ra khỏi tam giới, ngay trong một đời này giải quyết xong xuôi đại sự sanh tử chẳng thể dễ dàng giải quyết trong trăm ngàn vạn kiếp. Linh Nham là ngôi chùa cổ được khai sáng từ thời Đông Tấn, trải các đời Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy, Đường, bao lượt được sắc tu . Những vị Trụ Trì xưa kia phần nhiều chẳng thể tra cứu được; còn những vị Trụ Trì đời Tống phần lớn là bậc đại lão nhà Thiền, vì thế đạo phong đứng đầu miền Giang - Chiết. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 59 - Lời tựa cho nghi thức niệm tụng của đạo tràng chuyên tu Tịnh Độ Linh Nham Sơn Tự (1938) Từ khi đức Phật nói kinh này xong, phàm tại Tây Thiên, Đông Độ, những người đọc kinh này tâm được hưng khởi kể sao cho xiết! Cư sĩ Phụng Trì xót mình chưa thể hiếu dưỡng với mẹ, truy niệm ân đức, ôm hận suốt đời, nguyện khắp những kẻ làm con trong thế gian tùy thời, tùy sự để trọn đạo hiếu, nghĩ đến ân sâu cù lao, ắt sẽ làm sao cho cha mẹ ta được rốt ráo yên ổn nơi bảo sở mới thôi! Do vậy, dùng tâm chí thành niệm thánh hiệu Phật, kiêm dùng lòng cung kính giữ vẹn luân thường, tận hết thiên chức của chính mình, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, dùng công đức ấy để giúp cho cha mẹ ta được lợi ích, quyết mong sao cha mẹ còn sống thì nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng, phước thọ tăng cao, trí huệ mở mang, khi khuất núi thì thần thức siêu thăng cõi tịnh, nghiệp trả lại trần lao, chứng Vô Sanh Nhẫn, lên địa vị Bất Thoái. Lại phải biết: Hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ quá khứ, là chư Phật vị lai, hãy nên dùng tâm Đại Bồ Đề tùy thuận cơ nghi vì họ tuyên nói và cứu vớt, ngõ hầu trên khế hợp tâm Phật, dưới phù hợp nguyện của chính mình. Gió Từ vừa dấy, sát nghiệp liền tiêu, sẽ thấy lễ nghĩa, nhân nhượng hưng thịnh, can qua dứt bặt vĩnh viễn, phong tục tốt đẹp, thiên hạ hòa bình. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 58 - Lời tựa cho bài ký “Địa Tạng Bồ Tát cứu mẹ trong kiếp xưa” (1928) …đức Thế Tôn ta lúc mới thành Chánh Giác, lên cung trời Đao Lợi, vì mẹ thuyết pháp, muốn khiến cho hết thảy chúng sanh đều mong báo ân cha mẹ, liền đặc biệt nêu rõ chuyện Địa Tạng Bồ Tát trong kiếp xưa do cứu mẹ nên rộng phát thệ nguyện Bồ Đề làm thuyền bè vượt biển khổ cho chúng sanh đời vị lai. Trọn bộ kinh văn lý sự rõ ràng, tường tận, văn từ thoáng đạt, rõ rệt. Hai chuyện ngài Địa Tạng cứu mẹ trong ấy càng cho thấy rõ những nghĩa lý “tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Tâm này làm chúng sanh, tâm này là chúng sanh” và “tâm tạo được nghiệp thì tâm chuyển được nghiệp. Tâm chẳng thể chuyển được nghiệp thì nghiệp sẽ trói buộc tâm”. Thật có thể nói là người dẫn đường nơi nẻo hiểm, là đuốc huệ nơi ngõ tối, là kho báu cho kẻ nghèo thiếu, là thóc gạo trong năm đói kém, khiến cho hết thảy chúng sanh mê muội mau được giác ngộ, hết thảy những đứa con hiếu thuận có được sư thừa. Lợi ích của kinh chẳng thể tuyên nói được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 58 - Lời tựa cho bài ký “Địa Tạng Bồ Tát cứu mẹ trong kiếp xưa” (1928) Ba kinh này [Vô Lượng Thọ, A Di Đà tiểu bổn và Quán Vô Lượng Thọ] tuy kinh văn tuy rộng - lược khác nhau, nhưng lý chẳng hề khác biệt. Người học đời Mạt Pháp nếu trí lực sung mãn, chẳng ngại gì tu trọn vạn hạnh, hồi hướng vãng sanh. Nếu không, đương nhiên nên chuyên tu Tịnh nghiệp, để mong nương vào Phật từ lực vượt ngang ra khỏi tam giới, lên thẳng chín phẩm sen. Kinh Vô Lượng Thọ có rất nhiều bản chú giải cổ, gần như đều bị thất lạc hết, còn sót lại chẳng được mấy! Đại sư Đạo Truyền đọc tụng kinh này, cảm niệm sâu xa ơn Phật, soạn bài tụng để tán dương. Tuy chưa thể nêu tỏ, giãi bày trọn vẹn ý nghĩa kinh và tâm Phật, nhưng cũng có thể phụ trợ tín nguyện cho bọn ta là hạng không có sức đoạn Hoặc chứng Chân, khiến cho hùng tâm kiên quyết vãng sanh được mạnh mẽ. Vì thế, cho ấn hành lưu thông vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 57 - Lời tựa cho bài Ca Tụng Kinh Vô Lượng Thọ (1936) Đến hội Phương Đẳng, đức Phật vì khắp hết thảy trời, người, phàm, thánh, nói kinh Vô Lượng Thọ, chỉ rõ nhân hạnh quả đức xưa kia của Phật A Di Đà, cảnh duyên Cực Lạc đủ mọi thứ thù thắng, nhiệm mầu, nhân quả, phẩm vị tu chứng của hành nhân. Kinh này chính là chỗ quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm vậy. Tuy được nói trong thời Phương Đẳng, nhưng giáo nghĩa quả thật thuộc thời Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm chỉ hạn cuộc nơi Pháp Thân đại sĩ, nhưng kinh này nhiếp trọn khắp thánh - phàm trong chín giới. Dẫu dùng thời Hoa Nghiêm để luận thì kinh này vẫn là đặc biệt, huống là các thời khác ư? Nếu đức Như Lai chẳng mở ra pháp này, chúng sanh đời Mạt không một ai có thể liễu sanh tử! Do lòng đại từ, đức Phật rất sợ chúng sanh chẳng thuận tiện thọ trì được, bèn lại nói kinh A Di Đà, ngõ hầu họ thường đọc tụng hằng ngày. Lại nói kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật để y báo, chánh báo trang nghiêm cõi Tây Phương thường hiện hữu trong tâm mục của các hành nhân. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 57 - Lời tựa cho bài Ca Tụng Kinh Vô Lượng Thọ (1936) Xét đến chỗ phát khởi pháp [môn Tịnh Độ] này thì quả thật từ cuối hội Hoa Nghiêm, Thiện Tài tham học khắp các tri thức, đến chỗ Phổ Hiền Bồ Tát được oai thần của đức Phổ Hiền gia bị, sở chứng bằng với Phổ Hiền, ngang với chư Phật, trở thành Đẳng Giác Bồ Tát. Phổ Hiền bèn xưng tán công đức Như Lai thù thắng nhiệm mầu, khuyến tấn Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng đều cùng dùng công đức của mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên mãn Phật Quả. Do Hoa Tạng hải chúng đều là các Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác. [Do các vị ấy] đi trọn khắp các cõi Phật số nhiều như vi trần, nên thệ nguyện Di Đà, cảnh duyên Cực Lạc, nhân quả vãng sanh, mỗi mỗi đều hiểu rõ, không cần phải nói nữa. Nhưng trong hội Hoa Nghiêm, trọn chẳng có ai là phàm phu Nhị Thừa và Quyền Vị Bồ Tát ; do vậy, tuy hoằng dương lớn lao pháp này, nhưng phàm phu, tiểu căn không cách chi vâng nhận được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 57 - Lời tựa cho bài Ca Tụng Kinh Vô Lượng Thọ (1936) Xưa nay có nhiều kẻ thâm nhập kinh tạng, triệt ngộ tự tâm, nhưng chẳng sanh lòng tin tưởng đối với pháp môn [Tịnh Độ] này vì chấp chặt vào giáo nghĩa “cậy vào tự lực” của đường lối thông thường để luận định nhân quả đặc biệt “cậy vào Phật lực” mà nên nỗi! Nếu biết nghĩa này thì tấm lòng tin tưởng, tu trì ngay đến cả đức Phật cũng chẳng thể ngăn trở được, vì pháp môn này chính là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Bởi thế, [pháp này] được chín giới cùng quay về, mười phương cùng khen ngợi, ngàn kinh cùng xiển dương, muôn luận đều tuyên nói. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 57 - Lời tựa cho bài Ca Tụng Kinh Vô Lượng Thọ (1936) Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài, toàn thể sự chính là lý, toàn thể tu chính là tánh, hạnh cực bình thường, lợi ích cực thù thắng. Ấy là vì dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, nên được nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân. Hết thảy pháp môn không gì chẳng lưu xuất từ pháp giới này, hết thảy hạnh môn không môn nào chẳng trở về pháp giới này. Thích hợp khắp ba căn, gồm thâu trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn. Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài được, tội nhân Ngũ Nghịch Thập Ác cũng có thể dự vào trong ấy. Thống nhiếp các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật, xuyên suốt các giáo Quyền, Thật, Đốn, Tiệm. Trong cả một đời giáo hóa của đức Phật, riêng một pháp môn này là đặc biệt. Chớ nên dùng giáo nghĩa theo đường lối thông thường để phân định nhân quả tu chứng của pháp này. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 57 - Lời tựa cho bài Ca Tụng Kinh Vô Lượng Thọ (1936) Xét ra, hành động phóng sanh vốn nhằm phát khởi cái tâm kiêng giết ăn chay của những người cùng hàng. Nếu có thể kiêng giết, ăn chay thì sát nghiệp chẳng tạo, sát báo sẽ tự dứt. Đối với những nghiệp đã tạo từ trước thì dùng sự kiệt lực tu thiện, chí thành niệm Phật để tiêu diệt. Phải biết: Chùa Pháp Vân phóng sanh quả thật đã đi tiên phong dẫn đường cho hết thảy những người cùng hàng kiêng giết ăn chay vậy. Người có tâm do nghe được chuyện ấy sẽ dấy lòng, cùng sanh tâm từ bi, rộng lòng trắc ẩn, cùng hành đạo nhân từ với người khác, yêu thương loài vật, sẽ thấy lòng người chuyển biến, quyến thuộc trời thường giáng xuống, mưa nắng đúng thời, ngũ cốc sung túc, lễ nghĩa, nhân nhượng hưng thịnh, chiến tranh tiêu diệt, trong ngoài hiệp hòa, thiên hạ thái bình. Đấy chính là điều các vị như ông Phùng vốn dốc chí qua việc tạo dựng chùa Pháp Vân, đề xướng phóng sanh vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 56 - Lời tựa cho bộ Phóng Sanh Trưng Tín Lục của chùa Pháp Vân (1932) Năm Dân Quốc 11 (1922), các vị thiện sĩ Phùng Mộng Hoa, Ngụy Mai Tôn, Vương Ấu Nông v.v… do thấy sát kiếp tràn lan, nghĩ cách cứu vãn, bèn tậu đất bên sông Tam Xoa, lập chùa Pháp Vân làm đạo tràng niệm Phật phóng sanh. Đến năm Dân Quốc 12 (1923), đào chín cái ao sâu để phóng sanh theo từng loài. Năm Dân Quốc 13 (1924) liền bắt đầu lo phóng sanh, hoặc chính mình mua về thả, hoặc có thiện sĩ mua đến thả. Tám năm qua, [số lượng loài vật] do chính hội ấy mua về phóng sanh tính ra tổng cộng là ba trăm sáu mươi, bảy mươi gánh, tiền chi phí tổng cộng là bốn ngàn sáu trăm mấy chục đồng, đều do các thiện sĩ nối tiếp nhau thực hiện. Nay đem [số lượng] những con vật được thả và khoản tiền chi dụng trong tám năm lập thành báo cáo, ngõ hầu ai nấy đều biết rõ. Suốt chín năm nay, vị thường sống ở nơi ấy chịu đựng nhọc nhằn, chẳng nề gian khổ, chính là Hòa Thượng Tâm Tịnh. Những người khác tuy cũng tận lực duy trì, nhưng chưa ai chuyên dốc sức vào đấy bằng sư Tâm Tịnh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 56 - Lời tựa cho bộ Phóng Sanh Trưng Tín Lục của chùa Pháp Vân (1932) …Kẻ có trí thức nhưng chẳng biết thật sự thật lý “nhân quả ba đời, luân hồi sáu nẻo”, bèn coi chuyện “tự lập, lập người, tự đạt, làm cho người khác đạt” là viễn vông, sai lầm, chỉ muốn đoạt hết của cải người khác về tay ta. Do vậy, tranh thành, giành đất, dẫu giết người ngập thành, ngập đồng vẫn chẳng đoái hoài. Ý họ muốn mở rộng cương thổ của ta, tăng lớn thế lực của ta, để con cháu ta hưởng phước vĩnh viễn! Chẳng biết trời đất lấy hiếu sanh làm đức, đã sống trong khoảng trời đất hiếu sanh ghét giết, sao lại khiến cho con cháu hưởng cái phước nghịch trời trái lý đạt được bởi sự giết người vô lượng ấy? Chính họ khi một hơi thở ra không hít vào được nữa, sẽ vĩnh viễn đọa trong tam đồ ác đạo, sao lại đáng thương như vậy? Con cháu nếu chẳng phải là những người bị ta chiếm đoạt [tài sản trong đời trước nay] đến [sanh vào nhà ta] thì sẽ tuyệt diệt đến hết sạch, trọn chẳng sót một ai! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 56 - Lời tựa cho bộ Phóng Sanh Trưng Tín Lục của chùa Pháp Vân (1932) Xem khắp cổ kim, thời bình trị thì ít, thời loạn lạc lại nhiều. Dẫu cho thịnh trị thì bất quá chỉ được một trăm mấy chục năm mà thôi. Nguyên do vì đâu? Ấy là do cái nghiệp đời trước sát sanh ăn thịt kết thành và do cái tâm tự tư tự lợi trong đời này mà ra! Kết quả của sát nghiệp chỉ có ăn thịt là dữ dội nhất. Cả một đời người chẳng biết ăn thịt mấy trăm ngàn vạn sanh mạng, chỉ mong thỏa thích bụng miệng ta, bất kể nỗi thống khổ của chúng! Tuy là cậy mạnh nuốt yếu mặc sức ta làm, nhưng chất độc oán hận kết lại trong tám thức điền, đời đời kiếp kiếp giết chóc lẫn nhau, chẳng nhổ bỏ cái gốc ấy, khó chuyển được sát kiếp! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 56 - Lời tựa cho bộ Phóng Sanh Trưng Tín Lục của chùa Pháp Vân (1932) Hãy nên đọc Quán Âm Bổn Tích Tụng, Quán Âm Linh Cảm Lục, Quán Âm Từ Lâm Tập sẽ biết được đại lược. Đang trong lúc thiên tai, nhân họa liên tiếp giáng xuống này, nếu chẳng sửa ác tu lành, thường niệm thánh hiệu Quán Âm để được nương cậy thì muốn được yên vui sẽ là chuyện khó khăn nhất trong mọi điều khó! Dẫu hoàn toàn chẳng có tai nạn gì, cũng nên thường niệm, ngõ hầu sống sẽ hưởng Ngũ Phước, dự vào địa vị Thánh Hiền cao cả, thác sẽ lên chín phẩm, triệt chứng tâm Đại Giác. Người làm được như thế thì mới an ủi được tâm Bồ Tát cứu khổ. Do Bồ Tát phổ thí vô úy (ban cho khắp tất cả mọi loài sự không sợ hãi) nên [chúng sanh được] viên mãn Bồ Đề rồi thì tâm đại từ bi thí vô úy [của Bồ Tát] mới thôi! Kinh Pháp Hoa dạy: “Nếu có chúng sanh nhiều dâm dục, nóng giận, ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát liền được lìa dục, lìa sân, lìa si”. Nguyện người thấy nghe đều thường niệm! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 55 - Lời tựa lưu thông sách Lịch Triều Danh Họa Quán Âm Thánh Tượng Kha La Bản Ấn (1938) Gần đây sát kiếp ngập tràn, nhân dân tử vong, lưu lạc, tan tác, khổ chẳng nói nổi! Cư sĩ Phí Huệ Mậu ở Nam Thông muốn bày cách cứu vãn từ lâu, nên đặc biệt sưu tầm những thánh tượng Quán Thế Âm do những nhà danh họa thuộc năm triều Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đã vẽ, được một trăm bốn mươi hai bức, dùng loại giấy Tuyên tốt nhất, in theo lối Kha La Bản một ngàn bộ, ngõ hầu người thấy nghe đều cùng sanh chánh tín, cùng niệm thánh hiệu, cùng tiêu trừ ác nghiệp trong đời trước và đời này, cùng gieo thiện căn Bồ Đề. Phải biết: Bồ Tát vô tâm, lấy tâm của chúng sanh làm tâm, Bồ Tát không cảnh, lấy cảnh của chúng sanh làm cảnh, vì thế hễ cảm liền thông, chẳng phải suy nghĩ để ứng. Ấy là vì bản thể của tâm chúng sanh và bản thể của tâm Bồ Tát tương thông khít khao, do chúng sanh trái giác hiệp trần nên thành ra hiện tượng “tuy thông mà chẳng thông”. Nếu chúng sanh một niệm sanh lòng tin, kiền thành trì thánh hiệu, trái trần hiệp giác, bỏ mê về với ngộ, sẽ lại biến thành hiện tượng “chẳng thông mà thông”. Vì thế, hễ gặp phải hiểm nạn cực lớn, vừa niệm liền được cảm ứng. Lại nữa, Bồ Tát hiện thân chẳng chuyên hiện thân hữu tình. Ngay như núi, sông, cây cối, cầu, bến, thuyền, bè, lầu, đài, nhà cửa, tường, vách, thôn, xóm cũng đều tùy cơ mà hiện, ắt đều khiến cho kẻ đã lâm vào tuyệt địa lại gặp đường thông, không chỗ trốn tránh lại được nơi che đậy lớn lao. Đủ mọi loại cứu vớt, che chở, khó thể tuyên nói trọn! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 55 - Lời tựa lưu thông sách Lịch Triều Danh Họa Quán Âm Thánh Tượng Kha La Bản Ấn (1938) Nhiều năm gần đây, thế đạo nhân tâm càng ngày càng đi xuống, giành đất, tranh thành, tàn sát lẫn nhau, nhân họa đã khốc liệt, thiên tai lại xảy đến, lũ lụt, hạn hán, sâu rầy, ôn dịch cùng lúc giáng xuống. Những tai họa ấy đều do những ác nghiệp của mọi người trong đời trước hoặc đời này chiêu cảm. Nhưng tâm đã tạo được nghiệp thì tâm sẽ chuyển được nghiệp. Đang trong lúc thiên tai nhân họa đồng thời xảy ra này, nếu có thể phát tâm chí thành, niệm thánh hiệu “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, thệ nguyện từ nay trở đi giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì chắc chắn sẽ được Ngài rủ lòng từ che chở, gặp dữ hóa lành, trong các hoạn nạn chẳng bị nguy hiểm, ấy là dùng biệt nghiệp niệm thánh hiệu Bồ Tát trong hiện tại để chuyển cộng nghiệp đã tạo trong đời trước hoặc đời này. Vì thế thường được tốt lành. Chư Phật, Bồ Tát coi hết thảy chúng sanh trong lục đạo như con ruột, thường muốn cho họ được lìa khổ hưởng vui. Hiềm rằng chúng sanh mê muội chẳng sanh lòng tin tưởng, đến nỗi uổng phí Từ tâm, chẳng thể được lợi ích. Ví như mặt trời rạng rỡ giữa trời chiếu khắp muôn phương, kẻ đội chậu dù có đứng ngay dưới đó cũng chẳng được chiếu. Lỗi do đội chậu, chứ mặt trời đâu có lỗi! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 55 - Lời tựa lưu thông sách Lịch Triều Danh Họa Quán Âm Thánh Tượng Kha La Bản Ấn (1938) Quán Thế Âm Bồ Tát thành Phật đã lâu trong vô lượng kiếp trước, hiệu là Chánh Pháp Minh, an trụ trong Tịch Quang Tịnh Độ, thường hưởng pháp lạc chân thường, nhưng do Bi tâm vô tận, Từ thệ chẳng cùng, lòng cứu khổ ân cần, niệm độ sanh tha thiết, nên lại chẳng lìa Tịch Quang, hiện hình trong chín giới. Trong các cõi Phật nhiều như số vi trần trong mười phương, hiện khắp các sắc thân, tầm thanh cứu khổ; nhưng đối với thế giới Sa Bà, càng thương xót sâu đậm hơn. Có những kẻ nào thiện căn chưa gieo, chưa chín muồi, chưa độ thoát, liền dạy họ gieo, khiến cho chín muồi, khiến cho độ thoát, nên dùng thân nào để độ được, bèn hiện thân ấy thuyết pháp. Những thân đã hiện, những pháp Ngài đã nói mỗi mỗi tùy thuận cơ nghi, trọn chẳng nhất định, nhưng hiện tiền được lìa mọi khổ, tương lai thường hưởng chân lạc thì đều giống hệt. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 55 - Lời tựa lưu thông sách Lịch Triều Danh Họa Quán Âm Thánh Tượng Kha La Bản Ấn (1938) Phật nói “thế trí biện thông, khó thể nhập đạo”, ba ông Giang, Kỷ, Viên học rộng mà vẫn chẳng biết “Phật pháp chính là tâm pháp nơi chính mình” để rồi chuyên tinh nghiên cứu, hòng đích thân chứng được, chẳng đáng tiếc quá ư? Nếu họ bỏ chút thời gian rảnh rỗi, nghiên cứu đại lược, lẽ đâu chẳng phát đại Bồ Đề tâm, chuyên tinh dốc sức, hoằng dương đại pháp để mong ta lẫn người đều cùng thoát khổ luân, đều cùng thành giác đạo, lẽ nào chỉ ghi chép sự tích nhân quả để mở ra một con đường hướng thiện cho người đời mà thôi! Nhưng những sao chép ấy thật sự có lợi ích lớn lao. Vì thế, cư sĩ Trần Địch Châu trích lục một trăm thiên từ bộ Duyệt Vi Thảo Đường Bút Ký , tính in ra để phổ biến lưu thông hòng làm tấm gương xét soi cho những kẻ không biết nhân quả trong cõi đời. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 54 - Lời tựa cho tác phẩm Kỷ Văn Đạt Công Bút Ký Trích Yếu Từ khi có nhà Thanh đến nay, trong số những người bác học đa văn thì tiên sinh Giang Thận Tu là bậc nhất. Tiếp đó là ông Kỷ Văn Đạt, rồi đến ông Viên Tử Tài. Họ Giang là bậc quân tử ẩn dật cùng lý tận tánh, tuy chưa nghiên cứu Phật học, nhưng đối với Phật pháp cũng chẳng bài bác, lại còn tin sâu nhân quả báo ứng. Vì thế, đối với những quả báo do bảo vệ sanh mạng hay sát sanh, ông đều ghi chép hết để mong khơi gợi thiện niệm, dứt cơ duyên giết chóc. [Từ những điều này] có thể biết được cách suy nghĩ của ông ta. Viên Tử Tài thoạt đầu báng Phật, nhưng từ tuổi trung niên trở đi, do lịch duyệt ngày càng sâu, liền sanh lòng chân tín đối với Phật pháp. Chỉ vì cuồng vọng tự đại, lười nhác, biếng trễ, không chịu thân cận cao nhân, lắng lòng nghiên cứu, tuy những sự tích cảm ứng trong Phật pháp ông ta đều sao chép, nhưng những gì ông ta bàn luận khó thể hợp lý, thích đáng được! Ông Kỷ Văn Đạt từ bé đến già dốc lòng tin tưởng nhân quả, hễ được thấy nghe những sự tích nhân quả nào đều ghi chép hết, trình bày cặn kẽ, sáng sủa, văn bút thông suốt. Do ông ta hoàn toàn chưa từng nghiên cứu Phật pháp nhưng cứ thường muốn bàn bạc thông suốt lý sâu nên có khi bị mâu thuẫn thật nghĩa. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 54 - Lời tựa cho tác phẩm Kỷ Văn Đạt Công Bút Ký Trích Yếu Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Nếu chẳng đề xướng nhân quả thì thiện chẳng có gì để khuyên, ác không có gì để phạt. Chỉ có bậc đại hiền mới có thể giữ phận tuân đạo, những kẻ khác ai có thể cam lòng chẳng phóng túng tình ý cho sướng khoái một đời ư? Do đã không có “nhân trước, quả sau” thì hễ chết đi sẽ vĩnh viễn diệt mất, Nghiêu hay Kiệt đều chết hết sạch, sao lại không dây tự buộc, khư khư theo lễ giữ phận để đến nỗi mọi việc đều chẳng được tự tại ư? Trong kinh sử Nho Giáo, sự lý nhân quả nhiều không xiết kể! Tiếc rằng những nhà Nho sau này chẳng chịu suy xét sâu xa, thường thấy kinh Phật nói đến nhân quả tường tận, bèn muốn [ra vẻ] khác biệt với tông chỉ nhà Phật, ngược ngạo bảo những gì đức Phật đã nói đều là hư vọng, chẳng biết là đã trái nghịch thánh đạo, diệt thiên lý, chôn vùi cái gốc bình trị, hưng khởi đầu mối loạn lạc, gây nghi ngờ, lầm lạc cho người đời sau, chôn vùi đạo thể, [những chuyện ấy] đều là do những lời lẽ này tạo ra nền tảng vậy, chẳng đáng buồn ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 54 - Lời tựa cho tác phẩm Kỷ Văn Đạt Công Bút Ký Trích Yếu Ông Trịnh Bá Thuần ở huyện Bảo Sơn tỉnh Vân Nam là bậc học rộng ngầm tu, thoạt đầu nghiên cứu kinh Dịch để mong hiểu thấu gốc đạo của Nho giáo, tiếp đó nghiên cứu cặn kẽ nguyên ủy kinh điển luyện đan để mong hiểu được bí quyết chân thật của thuật bảo vệ tánh mạng. Sau đấy, lại bỏ đạo luyện đan để tham Thiền, biết tự lực chẳng bằng Phật lực, cuối cùng chuyên tu pháp môn Niệm Phật, miệt mài lấy việc “mình lẫn người đều cùng sanh Tây Phương” làm chí hướng, sự nghiệp, gởi thư xin quy y, liền được pháp danh là Đức Thuần. Ấy là vì pháp môn Niệm Phật tuy nhiếp khắp các pháp Thiền, Giáo, Luật, Mật, nhưng tu trì nơi địa vị phàm phu cố nhiên phải lấy thuần nhất không tạp làm gốc. Ông ta còn phát khởi đại tâm mạnh mẽ, muốn lợi lạc khắp những người cùng hàng, do vậy bèn soạn cuốn Niệm Phật Khẩn Từ để mong trí hay ngu đều biết rõ. Lời lẽ tuy nông cạn, gần gũi, nhưng lý thật sâu xa, như cái mốc chỉ lối cho người đi đường, như kim chỉ nam cho người đi biển; nương theo đó mà hành sẽ có thể về đến quê cũ, lên được bờ kia. Do vậy, tôi bèn trình bày duyên do Tự Lực và Phật Lực ngõ hầu những ai thấy - nghe đều tu trì vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 53 - Lời tựa cho sách Niệm Phật Khẩn Từ Phàm những ai tu pháp môn Niệm Phật thì phải chú trọng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, khuyên khắp những người cùng hàng cầu sanh Cực Lạc. Nếu làm được như thế thì “vạn người tu, vạn người đến”, quyết chẳng sót một ai! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 53 - Lời tựa cho sách Niệm Phật Khẩn Từ Nhưng thường có kẻ ngu cam phận kém hèn, chẳng dám gánh vác. Cũng có kẻ học đạo tự xưng là Đại Thừa, nghĩ [pháp này] chẳng xứng để tu tập. Nếu biết kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác khi lâm chung tướng địa ngục hiện, được bạn lành dạy Niệm Phật, chưa đủ mười tiếng đã được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương thì kẻ cam phận kém hèn sẽ dấy lòng [tu trì]. Kinh Hoa Nghiêm là vua cả Tam Tạng, trong chỗ quy tông cuối cùng [của bộ kinh ấy], Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương, khuyên Thiện Tài và khắp Hoa Tạng hải chúng nhất trí tiến hành cầu sanh Tây Phương để mong viên mãn Phật Quả. Sao lại dám coi pháp môn này là Tiểu Thừa? Huống chi Thiện Tài đã chứng Đẳng Giác, hải hội [thánh chúng] đều chứng Pháp Thân, các vị ấy còn cầu sanh, ta là hạng người nào mà [nghĩ pháp này] chẳng xứng để tu tập? Chẳng những dựng cao tràng kiêu mạn mà còn là hủy báng kinh Hoa Nghiêm. Muốn phô trương hư danh Đại Thừa, đích thân tạo cái họa báng pháp cùng cực vậy! Nếu kẻ ấy một hơi thở ra không hít vào được nữa, cảnh giới Hoa Tạng thế giới chẳng thể nghĩ bàn vốn thường mong mỏi đều biến thành cảnh khổ A Tỳ địa ngục, chịu đựng đầy ắp [những hình phạt] để đền cái lỗi thuyết pháp trái nghịch kinh điển, tự lầm, lầm người. Đến khi nghiệp báo sắp mãn, mới tỉnh ngộ, liền phát tâm niệm Phật, liền được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Khổ thay! May mắn thay! Nguyện những ai học Đại Thừa đều dự ghé vào Hoa Tạng hải hội thì tự lợi, lợi người cũng lớn lắm. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 53 - Lời tựa cho sách Niệm Phật Khẩn Từ Nếu nương theo pháp môn Niệm Phật, sanh lòng tin phát nguyện niệm thánh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, bất luận xuất gia hay tại gia, sĩ, nông, công, thương, già, trẻ, trai, gái, sang, hèn, hiền, ngu, chỉ cần nương theo giáo pháp tu trì, đều có thể nương vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Hễ được vãng sanh thì Định - Huệ chẳng mong được mà tự được, Phiền Hoặc chẳng mong đoạn mà tự đoạn. Thân cận Di Đà, thánh chúng, vẫy vùng nơi đất vàng, ao báu. Nương theo duyên thù thắng ấy để trợ thành đạo nghiệp, để những người đới nghiệp vãng sanh sẽ lên thẳng [địa vị] Bất Thoái, những vị đã đoạn được Hoặc vãng sanh sẽ mau chứng Vô Sanh. Đấy toàn là cậy vào đại bi nguyện lực của A Di Đà Phật và sức tín nguyện niệm Phật của chính người ấy, cảm ứng đạo giao mà được lợi ích lớn lao ấy; so với kẻ chuyên cậy vào tự lực thì khó - dễ khác biệt vời vợi như trời với đất. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 53 - Lời tựa cho sách Niệm Phật Khẩn Từ Pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, thích hợp khắp ba căn, bình đẳng nhiếp thọ phàm lẫn thánh. Trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài, dưới là tội nhân Ngũ Nghịch Thập Ác cũng có thể dự vào trong số ấy. Dạy dỗ không phân biệt, hễ ai sanh chánh tín đều được lợi ích thật sự, hoàn thành ngay trong đời này. Kẻ trọn đủ Phiền Hoặc vẫn dự vào dòng thánh. Dường như biển cả dung nạp khắp trăm sông, như thái hư chứa khắp muôn hình tượng. Nếu Như Lai chẳng lập ra pháp này thì chúng sanh đời Mạt ai có thể đoạn Phiền Hoặc để liễu sanh tử, thoát Ngũ Trược, vượt khỏi tam giới? Ấy là vì hết thảy pháp môn đều phải nương vào đạo lực Giới - Định - Huệ để đoạn Phiền Hoặc tham - sân - si. Nếu đạt đến mức có sức Định Huệ sâu, đoạn sạch được Phiền Hoặc thì mới có phần liễu sanh tử! Nếu chưa thể đoạn sạch Phiền Hoặc, dẫu cho anh có đại trí huệ, có đại biện tài, có đại thần thông, biết được quá khứ, vị lai, muốn đi liền đi, muốn đến liền đến, vẫn chẳng thể liễu thoát được; huống chi những kẻ kém cỏi hơn ư? Cậy vào tự lực để liễu sanh tử sẽ khó lắm, thật khó như lên trời vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 53 - Lời tựa cho sách Niệm Phật Khẩn Từ Phải biết: Pháp môn Niệm Phật lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm Tông. Điều quan trọng của Niệm Phật là “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Muốn “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” thì bất luận đi - đứng - nằm - ngồi hãy thường niệm Phật hiệu, hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm, đều cần phải lắng nghe tiếng niệm Phật của chính mình. Nếu làm được như thế thì nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận, phước cao, phàm làm bất cứ điều gì đều thuận lợi. Đối với những nghề nghiệp sĩ - nông - công - thương chẳng những hoàn toàn không trở ngại gì mà còn có thể khơi mở tâm linh nơi nghề nghiệp của chính mình; do vì tâm không tán loạn sẽ tự chủ trong công việc. Như [đối trước] mọi lẽ rối ren, nếu tâm thần ngưng lặng sẽ [giải quyết] dễ dàng; nếu tâm thần chao động sẽ gặp khó khăn. Do vậy, những bậc lập đại công, dựng đại nghiệp thuở xưa, công huân trùm bốn biển, ngôn hạnh lưu lại ngàn thu, đều là do học Phật đắc lực mà ra! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 52 - Lời tựa trình bày duyên khởi của Tịnh Niệm Liên Xã tại trấn Hợp Hưng, thành phố Phụ Ninh (1935) Cư sĩ Thí Nguyên Lượng ở Hải Môn, ngụ cư ở Phụ Ninh, khai khẩn đất hoang, thương người đời muốn tu Tịnh nghiệp nhưng khổ vì không có người biết pháp, rốt cuộc đi theo các thứ ngoại đạo luyện đan vận khí để cầu trường sanh và thành Đại La thần tiên, ăn trộm những câu nói trong kinh Phật để chứng tỏ đạo của chính mình là Phật pháp chân truyền, như kẻ ngu coi mắt cá là chân châu, thật đáng thương xót! Nhưng Phật pháp mênh mông, chẳng tranh với người. Nếu có thể tận lực tu trì chánh pháp, chắc chắn sẽ có ngày bọn họ nghe biết thanh danh rồi dấy lòng cải tà theo chánh. Phàm những người tham dự Liên Xã, ắt đều phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, dùng tín nguyện chân thành trì danh hiệu Phật, quyết chí cầu sanh thế giới Cực Lạc. Dùng pháp này để tự hành, lại đem giáo hóa người khác để trong là cha mẹ, anh em, vợ con, ngoài là xóm giềng, thân thích, bè bạn đều cùng được gội [ân] Phật giáo hóa, đều cùng tu Tịnh nghiệp, cùng trong đời này được nương theo Phật từ lực vãng sanh Tây Phương, ngõ hầu chẳng phụ một phen thành tâm dự vào Liên Xã ngày hôm nay. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 52 - Lời tựa trình bày duyên khởi của Tịnh Niệm Liên Xã tại trấn Hợp Hưng, thành phố Phụ Ninh (1935) …Những bậc lo cho đời không ai chẳng đề xướng nhân quả báo ứng và giáo dục gia đình để làm căn cứ vãn hồi thế đạo, nhân tâm. Nhưng muốn đề xướng cần phải có trợ giúp. Bốn quyển Khuê Phạm do tiên sinh Lã Thúc Giản đời Minh biên tập vào năm Canh Dần tức năm Vạn Lịch 18 (1590) đời Minh. Do vậy, được lưu truyền rộng rãi khắp nước, mọi nơi đều khắc bản, ấn hành. Gần đây, sách bị thất truyền, con người không biết đến. Ông Châu Nghiệp Cần tìm được trong tiệm sách cũ, cầm đưa cho ông Ngụy Mai Tôn coi. Mai Tôn thấy quyển một trích lục những lời hay ý đẹp dạy dỗ nữ giới trích từ Tứ Thư, Ngũ Kinh và các truyện ký. Quyển hai, quyển ba, quyển bốn chép cặn kẽ ngôn hạnh của các hiền nữ, vợ hiền và mẹ hiền. Trước mỗi chuyện có hình vẽ, sau mỗi chuyện có lời bình để mắt người vừa chạm vào liền dấy lòng cảm kích, đua nhau bắt chước làm theo; thật đáng để giữ yên phương Khôn hòng giúp cho đạo bình trị, phụ trợ sự dạy dỗ trong gia đình, bồi đắp thêm cho oai nghi người mẹ, nên khôn ngăn vui thích, tán thưởng! Lý Kỳ Khanh nghe vậy, do bà vợ ông ta lúc còn sống đã tính lưu truyền những thiện thư hầu giữ yên chốn khuê các, nhưng chưa được toại nguyện, bèn tự đảm nhiệm in năm trăm bộ để hoàn thành chí nguyện ấy, xin tôi đề tựa. Tôi nghĩ cuốn sách này vừa được in ra, ắt sẽ có đông đảo bậc thục nữ anh liệt hưng khởi tấm lòng mong sao trọn hết phận mình, hoàn thành thiên chức. Trên là noi bước hai bà Phi, ba bà Thái, trong xử sự, luân thường hằng ngày, lo liệu, giúp đỡ, un đúc, giáo hóa, dạy dỗ, ngõ hầu chồng lẫn con đều thành hiền thiện hòng [cõi đời] đạt đến yên ổn tột bậc. Công đức ấy há thể diễn tả được ư? Do xét đến cội nguồn như thế liền viết thành lời tựa. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 51 - Lời tựa nêu duyên khởi in cuốn Khuê Phạm theo lối thạch bản (1928) Pháp sư Viên Anh xưa đã sẵn huệ căn, nghiên cứu Giáo Quán đã lâu, tuy thị hiện dáng vẻ duy trì Tông môn, nhưng thật ra lòng chuyên chú nơi Tịnh Độ. Người căn cơ viên mãn thọ pháp, không pháp nào chẳng viên, tùy lòng người ưa thích mà giảng các kinh. Phật Học Thư Cục tập hợp những trước tác của Sư để ấn hành, lưu truyền, đặt tên là Viên Anh Pháp Vựng. Đầu sách là A Di Đà Kinh Chú (chú giải kinh A Di Đà) để nêu rõ ý pháp sư chú trọng Tịnh Độ. Trộm nghĩ vùng Chiết Giang xưa kia đã có Vân Thê Pháp Vựng, gần đây thì có Đế Nhàn Giảng Lục, Viên Anh Pháp Vựng, đều là người hướng dẫn nơi đường hiểm, là thuyền từ trong biển khổ. Kẻ có duyên gặp được may mắn chi hơn? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 47 - Lời tựa cho bộ Viên Anh Pháp Vựng (1933) Tri kiến Như Lai chúng sanh đều cùng sẵn có; nhưng nếu đức Phật chẳng nói, ai hòng tự biết được? Vì vậy, đức Thế Tôn ta thị hiện sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, vì khắp chúng sanh chín giới, tùy theo căn cơ tuyên nói diệu pháp sao cho lý lẫn cơ đều khế hợp, giải lẫn hạnh cùng trọn vẹn, ngõ hầu đoạn Hoặc chứng Chân, khôi phục tâm tánh vốn có mà thôi! Lại do những nhân duyên như: Chúng sanh độn căn khó mong đoạn chứng được, hễ phải thọ sanh lần nữa, tiến chỉ một, lùi cả vạn; [chỉ có] bậc thượng sĩ Nhất Thừa đích thân chứng được Pháp Thân, chẳng phải trải qua tăng-kỳ [đại kiếp], mau thành Phật đạo v.v… nên Phật đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, để chín pháp giới thượng thánh hạ phàm đều cùng vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này. Bậc thượng sĩ sẽ viên mãn Bồ Đề, kẻ hạ căn cũng đích thân lên bậc Bất Thoái. Ân che chở, vỗ về, nuôi dưỡng ấy dù hết cả kiếp cũng chẳng thể nói trọn. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 47 - Lời tựa cho bộ Viên Anh Pháp Vựng (1933) Tiên sinh Giang Thận Tu chính là vị quân tử ẩn dật vào đời Thanh trước kia, học vấn uyên bác, phẩm hạnh thuần chánh, tuy chưa từng nghiên cứu Phật lý đến tột cùng, nhưng tin sâu nhân quả. Vì thế, cụ sao lục những chuyện thấy nghe được về sự báo ứng do sát sanh hay phóng sanh, biên soạn thành sách. Hậu duệ của cụ là Dịch Viên đem ấn hành vào năm Dân Quốc 11 (1922), Quang đã viết lời tựa, nên ở đây không cần phải nói nhiều. Hiện nay sát kiếp ngập tràn, lại thêm lũ lụt, hạn hán, đủ mọi tai họa, dân không lẽ sống, hết cả thuốc chữa! Những người cùng hàng muốn giải quyết [vấn đề] từ căn bản, tính ấn hành rộng rãi bộ Hiện Báo Lục để làm căn cứ vãn hồi kiếp vận. Lại do đối với lý tột cùng, bộ Hiện Báo Lục chưa nêu tỏ đầy đủ, nên đem những bài văn “kiêng giết, phóng sanh” của Quang trong phần phụ lục của cuốn Vạn Thiện Tiên Tư trước kia in gộp vào cuốn [Hiện Báo Lục] này. Do vậy, sẽ thấy tâm pháp của Nho và Phật chẳng hai, miệt mài cứu vật quả thật là miệt mài cứu người. Cách cứu vãn này chính là dốc sức từ nơi căn bản, đừng gièm chê là hoãn, gấp, nặng, nhẹ không thích đáng! Những bài văn [khuyên kiêng giết, phóng sanh] của Liên Trì, Từ Vân, Tăng Đoan Phủ đều là vàng ròng trải qua trăm lần luyện, là ngọc đẹp không tỳ vết. Đọc những bài văn ấy sẽ khiến cho cái tâm tàn nhẫn của con người nhanh chóng tiêu diệt, ý niệm từ bi tràn trề nẩy sanh. Chỉ có một bài sớ [kêu gọi tu bổ ao phóng sanh] ở Nam Tầm của Quang khó tránh khỏi bị chê bai là đem thau xen lẫn vào vàng, nhưng cạn hết tấc lòng ngu thành của tôi, gắng trọn hết thiên chức, khen hay chê cũng chẳng màng! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 46 - Lời tựa cho bản in gộp chung Phóng Sanh Sát Sanh Hiện Báo Lục và các bài văn khuyên kiêng giết phóng sanh (1929) Thấy người không ăn thịt lại chê là hủ bại, là mê tín! Giả sử người ấy đột nhiên bị biến thành chim, thú, cá, tôm, bị người ta bắt được sắp bị giết, trong tâm liền tự nhủ đấy là chuyện đúng lẽ, là chuyện nên làm, hoan hỷ trám đầy miệng bụng người khác hay sao? Hay sẽ nói là tội ác, là phi lễ, ôm lòng hận thù không cởi gỡ được ư? Nếu lúc ấy có người kiêng giết, bảo vệ sanh mạng loài vật, chẳng ăn thịt, khuyên người ta đừng giết, sắp muốn mua đem thả, trong tâm con vật có chê người ấy là viễn vông, hủ bại, là mê tín hay không? Hay là sẽ cảm đức cứu mạng, suốt đời chẳng quên vậy? Nếu kẻ đó đặt mình vào chỗ ấy, suy đi nghĩ lại, tôi e rằng kẻ ấy thà ăn thịt của chính mình chứ chẳng chịu ăn thịt của chúng sanh nữa! Than ôi! Ai nấy đều có thể thành Nghiêu - Thuấn, ai cũng đều có thể thành Phật, sao lại trái giác hiệp trần đến mức cùng cực như vậy? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 46 - Lời tựa cho bản in gộp chung Phóng Sanh Sát Sanh Hiện Báo Lục và các bài văn khuyên kiêng giết phóng sanh (1929) Người đời chẳng biết nhân quả, coi sát sanh ăn thịt là lẽ chánh đáng, là điều nên làm; chẳng biết những tai ương thê thảm như đao binh, giặc cướp, lũ lụt, hạn hán, tật dịch v.v… phần nhiều đều do sát sanh ăn thịt mà ra! Nếu ý niệm từ bi thật sự tinh thuần, dù ở trong cùng một thời kiếp này nhưng mỗi người mỗi thọ quả báo khác biệt. Xưa kia, một đứa bé được cha dẫn đến quy y, tôi hỏi: “Con có thích ăn thịt hay không?” Nó thưa: “Thích lắm ạ!” Tôi lấy ngón tay nó bỏ vào miệng nó, bảo: “Miếng thịt này ngon lắm, ăn thử xem nào!” Nó cực lực phản đối: “Không ăn được, không ăn được đâu!” Tôi nói: “Thịt của chính mình thì không ăn được, sao lại ăn thịt của những sanh linh khác được? Hiện tại con ăn thịt nó, tương lai nó cũng ăn thịt con. So với việc ăn thịt chính mình càng khổ độc gấp vạn lần”. Do vậy, thánh nhân dùng lòng trung hậu, khoan thứ dạy người, những gì chính mình không thích bị làm thì đừng làm cho người khác, không giống như người đời vô tri ỷ mạnh nuốt yếu, quen thói coi đó là chuyện thường, nào biết sát sanh ăn thịt là tội ác, là phi lễ! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 46 - Lời tựa cho bản in gộp chung Phóng Sanh Sát Sanh Hiện Báo Lục và các bài văn khuyên kiêng giết phóng sanh (1929) Phàm những loài có huyết khí đều có tri giác. Đã có tri giác ắt tham sống sợ chết, hướng lành, lánh dữ. Chim, thú, côn trùng, rận, rệp, không loài nào chẳng như vậy. Nếu coi thường bắt giết thì tuy sức chúng nó chẳng thể chống lại, đành không biết làm sao được, nhưng tâm chúng nó thù hận quả thật chẳng ngôn ngữ văn tự nào có thể hình dung được! Nếu chúng sắp bị giết mà có người mua đem thả khiến cho chúng được sống, tâm chúng nó cảm kích cũng lại chẳng thể hình dung được! Dẫu cho chúng nó hiện thời chẳng có sức báo ân, báo oán, nhưng cái duyên thiện - ác đã kết thì hoặc là trong đời này, hoặc trong tương lai, ắt sẽ có sự báo ứng chẳng ngờ được! Dẫu chúng nó chẳng thể báo đền ngay lập tức, nhưng thường hành phóng sanh hay thường hành sát sanh thì thiên địa quỷ thần đều thường soi xét để giáng phước hay giáng họa, chớ coi thường, nghĩ chúng nó yếu ớt rồi khinh khi! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 46 - Lời tựa cho bản in gộp chung Phóng Sanh Sát Sanh Hiện Báo Lục và các bài văn khuyên kiêng giết phóng sanh (1929) Bỏ nhân quả mà bàn về bình trị thì chẳng qua là trị lành đôi chút căn bệnh ngoài da! Nếu là tâm bệnh thì ngược lại, bệnh càng tăng trưởng, chẳng lẽ nào chữa lành bệnh cho được! Những người nói giọng cao xa, cứ bảo “nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi chính là lời bàn luận hư vọng để dối người của đức Phật” chẳng những không biết nhân quả mà còn hoàn toàn u mê nơi chánh lý thế gian. Thánh nhân cùng lý tận tánh, đức Như Lai đoạn Hoặc chứng Chân, đều chẳng ra ngoài nhân quả! Nếu con người tin sâu nhân quả sẽ tự nhiên ý thành, tâm chánh, thân tu! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 45 - Lời tựa cho Bôi Độ Trai Văn Tập (1933) Đời loạn đến cùng cực, phàm những người có tâm không ai chẳng ôm lòng lo lắng. Cư sĩ Quách Giới Mai do muốn cứu vãn nên trước kia đã từng soạn bộ Vụ Bản Tùng Đàm, tiếp đó lại chọn lọc từ văn cảo nhiều năm, gạn lọc thành sách. Phàm những gì được trước thuật đều là những sự tích thiện ác, lời hay hạnh đẹp trích từ Kinh, Sử, Tử, Tập , các kinh luận của Phật, Tổ, và đủ mọi ngôn luận cân nhắc cặn kẽ của người đương thời, chia thành bốn môn: Một là hiếu hữu (hiếu thảo, hòa thuận), hai là chánh trị (đường lối cai trị đúng đắn), ba là hoằng pháp, bốn là đức hạnh, đặt tựa đề chung là Bôi Độ Trai Văn Tập. Vì sao lại dùng Bôi Độ để đặt tên cho Trai ? Ấy là vì muốn độ người nơi biển cả phiền não ác nghiệp thì phải dùng những lời hay hạnh đẹp của cổ thánh tiên hiền và sự lý nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo do đức Như Lai đã dạy để làm căn cứ, tùy sự tùy cảnh dùng văn tự của chính mình để tỏ rõ. Đối với những chỗ nào chẳng thể dùng lý luận giảng rõ được bèn dẫn những sự tích xưa nay làm chứng cứ ngõ hầu kẻ cứng cổ phải quay đầu, kẻ tánh tình buông lung phải sửa đổi cái tâm. Nhưng vì đạo đức của chính mình nhỏ bé, mỏng manh, chẳng thể cảm hóa lớn lao, giống như dùng cái chén (Bôi) để độ (cứu vớt) người, nên chỉ độ được hữu hạn. Đấy chính là danh xưng tự khiêm. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 45 - Lời tựa cho Bôi Độ Trai Văn Tập (1933) Bởi đó, từ hội Hoa Nghiêm hướng dẫn về, từ lúc được diễn thuyết tại Kỳ Viên đến nay, vãng thánh tiền hiền người người hướng đến, ngàn kinh muôn luận đâu đâu cũng chỉ về. Huống chi nay thế đạo nhân tâm đã suy hãm đến tột cùng, chánh pháp suy tàn, tà thuyết hoành hành, nếu chẳng dùng những điều lành thế gian như “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành” và điều lành xuất thế “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh” để duy trì thì đạo làm người chắc sẽ gần như biến mất! Do vậy, bèn tập hợp những vị Tăng - tục cùng hàng, lập ra Liên Hoa Thắng Hội cầu sanh Tây Phương này, dùng cái tâm “lập mình, lập người, tự lợi, lợi tha” để hành đạo “đôn đốc luân thường, tu ròng Tịnh nghiệp”, ngõ hầu làm tiêu chuẩn [uốn nắn] những kẻ xô đổ luân lý, dùng tà thuyết dối dân, để làm hướng dẫn cho kẻ mê muội tâm tánh ở trong đường hiểm không thoát ra được! Những người trong hội nếu có thể tận tụy thật sự thực hành ắt sẽ làm cho những người cùng hàng nhìn theo nhau bắt chước làm lành thì chẳng riêng gì kẻ có tín tâm được gội Phật ân sâu xa, mà ngay cả kẻ một mực phản đối cũng sẽ phát ra thiện niệm lớn lao. Ấy là vì sẵn có Phật tánh, do gặp được nhân duyên tăng thượng sẽ được hiển hiện ngay lập tức. Những điều khác đã được nói tường tận trong kinh luận Tịnh Độ, nguyện những người tham gia hội và thấy nghe đều cùng gắng công. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 44 - Lời tựa duyên khởi cho Phật Giáo Tây Phương Liên Hoa Hội ở Côn Sơn (1933) Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài được, nhiếp trọn các pháp thuộc chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối, thích hợp khắp ba căn thượng - trung - hạ, thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít mà được hiệu quả nhanh chóng, chắc chắn thoát sanh tử trong đời hiện tại! Chẳng trải qua tăng-kỳ [kiếp số] mà đích thân chứng được Pháp Thân, chính là pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, quả thật là đạo trọng yếu để thoát khổ trong hết thảy sự tu trì của chúng sanh. Do pháp này cậy vào Phật từ lực, nên lợi ích so với những pháp chuyên cậy vào tự lực sẽ khác biệt vời vợi một trời, một vực! Vì vậy, kẻ sắp đọa A Tỳ do mười niệm liền được vãng sanh, bậc đã chứng Đẳng Giác phát ra mười nguyện để hồi hướng Tịnh Độ. Do vậy biết: Pháp môn này chính là pháp môn Tổng Trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 44 - Lời tựa duyên khởi cho Phật Giáo Tây Phương Liên Hoa Hội ở Côn Sơn (1933) Những ai muốn mở rộng giềng mối “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” lớn lao, muốn thành tựu đại sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, muốn chứng đại quả hết sạch Phiền Hoặc, phước huệ viên mãn, xin hãy dùng sách [Vụ Bản Tùng Đàm] này để làm hướng dẫn hòng dẫn dắt người khác bước vào nơi thù thắng và những ai đã vào rồi sẽ tiến sâu thêm thì cuốn sách này sẽ không thể nào diễn tả tường tận sự thành tựu của người ấy cho được. Nguyện người thấy nghe chớ có xem thường thì may mắn lắm thay! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 43 - Lời tựa cho bộ Vụ Bản Tùng Đàm (1931) Ôi! Tình người như nước, nhân quả như đê. Đắp cho chắc còn sợ nước ngập lênh láng, huống hồ là trừ bỏ đê đi, há nước chẳng chảy tràn lan hay sao? Học thuyết lầm người, họa đến cùng cực như thế đấy, chẳng đáng buồn ư? Gặp phải thời vận này, người có tâm sao nỡ bỏ mặc được ư? Vì thế, cư sĩ Quách Giới Mai phổ biến lưu thông sách Vụ Bản Tùng Đàm để mong cứu vãn. Sách ấy nêu tỏ từng sự lý giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, cũng như pháp tắc phát Bồ Đề tâm, tự lợi, lợi tha, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương v.v... Nếu có thể hành theo đó thì khi sống ắt sanh vào địa vị thánh hiền, khuất bóng sẽ lên cõi Cực Lạc, ngõ hầu chẳng phụ chân tâm có thể làm Nghiêu - Thuấn, có thể thành Phật và tiếng thơm cùng sánh với Trời Đất xưng là Tam Tài vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 43 - Lời tựa cho bộ Vụ Bản Tùng Đàm (1931) Cư sĩ Phan Đối Phù thấy được điều này, vào năm trước đã thỉnh cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh biên soạn cuốn Phật Học Cứu Kiếp Biên, dùng Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện để sửa lỗi hướng lành, bỏ mê trở về với ngộ, giữ ba nghiệp thân - khẩu - ý thanh tịnh, tu Tam Học Giới - Định - Huệ để mong trừ khử vọng nghiệp vốn chẳng hề có, khôi phục chân tâm vốn sẵn có. Lại còn dạy [người đời] tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương để vĩnh viễn lìa khỏi đời ác Ngũ Trược, thường hưởng pháp lạc Tứ Đức. Lại còn lấy mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát để làm chỗ nương về, ngõ hầu nương vào từ lực của Phật Di Đà và nguyện luân của chính mình, tùy loại hiện thân trong mười phương các cõi, dùng đủ mọi phương tiện độ thoát chúng sanh, khiến cho khắp mọi hàm thức đều thành Phật đạo. Hư không có cùng tận, nguyện của ta vô cùng. Đấy là công lao cứu vãn kiếp nạn đến cùng cực vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 42 - Lời tựa cho sách Phật Học Cứu Kiếp Biên (1932) Nếu hết thảy mọi người đều biết có sự lý nhân quả ba đời, lục đạo luân hồi, dẫu dùng cái chết để uy hiếp họ, ép họ phải làm những chuyện như trên đây thì họ sẽ thà chết chứ chẳng dám làm những chuyện đại ác ấy! Do vậy, biết cái gốc họa của chuyện diệt Nho giáo, diệt luân lý để mong thực hiện biến con người thành cầm thú, đều từ học thuyết bài xích nhân quả của Tống Nho ươm thành, thật vậy đó! Học thuyết gây lầm lạc cho con người, dù nước lũ, mãnh thú, cũng chẳng gây họa khốc liệt như vậy. Trước kia, có người hỏi tôi: “Đời đã loạn tột bậc, nên bình trị như thế nào?” Tôi nói: “Nếu ông biết được nguyên nhân của sự loạn lạc thì sẽ biết được pháp tắc để bình trị”. Ông Châu An Sĩ nói: ‘Ai nấy đều biết nhân quả, đó là đạo để bình trị lớn lao. Ai nấy đều chẳng biết nhân quả thì đấy là con đường dẫn đến đại loạn vậy”. Do nhà Nho kỵ nói đến nhân quả khiến cho thế đạo, nhân tâm ngày càng bạc bẽo dần dần, cho đến tận ngày nay rốt cuộc có kẻ dám đề xướng phế kinh điển, phế luân thường v.v… Nếu thật sự biết nhân quả thì chẳng những miệng không dám thốt ra lời ấy, mà cũng chẳng dám để lọt vào tai! Bởi đấy là những tiếng xấu xa, bạc ác, người có tấm lòng lo cho con người chẳng nên nghe! Hễ nghe sẽ khiến cho con người đau lòng buốt óc, không làm sao được! Nay muốn biến loạn lạc thành bình yên mà nếu chẳng cực lực đề xướng giáo dục trong gia đình thì sẽ không thể thực hiện được. Nhưng giáo dục trong gia đình thì điều đầu tiên là lấy “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành” làm gốc. Lại phải thường bàn về sự lý nhân quả ba đời và luân hồi lục đạo thì những nhân tài xuất hiện trong gia đình đều là bậc hiền thiện. Trong gia đình đã có nhân tài hiền thiện xuất hiện thì thiểu số chẳng hiền thiện cũng sẽ được un đúc, đều được cảm hóa. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 42 - Lời tựa cho sách Phật Học Cứu Kiếp Biên (1932) Vào đầu đời Châu, ân trạch của Văn Vương thấm đến cả xương khô, nhưng chưa đầy ba bốn trăm năm, tục lệ giết người tuẫn táng đã phổ biến cả thiên hạ. Thiên tử, chư hầu, đại phu, kẻ sĩ đều tùy sức giết người để tuẫn táng. Những kẻ có thế lực mạnh mẽ đều cho rằng càng giết nhiều càng sang! Mục Công là vua hiền của nước Tần còn giết một trăm bảy mươi bảy người. Ba vị họ Tử Xa đều là hiền thần của nước Tần, vẫn chẳng thể vì nước vì dân mà được miễn khỏi [cái chết]. Trong các nước còn có mấy trăm mấy ngàn người bị tuẫn táng theo. Từ khi Phật giáo xiển minh sự lý nhân quả ba đời thì tục lệ này mới vĩnh viễn chấm dứt. Nếu không, cũng hiếm người được hưởng hết tuổi thọ rồi mới chết! Lợi ích ấy, nếu chẳng suy nghĩ sâu xa, ai hòng biết được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 42 - Lời tựa cho sách Phật Học Cứu Kiếp Biên (1932) Thánh nhân muốn cho con người ai nấy đều tu đức, đều trọn hết phận mình, chỉ sợ có kẻ coi thường, nên dùng sự lý nhân quả báo ứng để đôn đốc sao cho họ nghiêm túc tuân thủ, chẳng trái nghịch vậy. Nhưng nhân quả được thánh nhân nói đến chỉ là nói về bản thân và con cháu mà thôi! Do chẳng nói đến chuyện trước khi sanh ra và sau khi đã mất, nên đối với chuyện quá khứ, vị lai của người ấy dù nhân hay quả đều chẳng nhắc tới. Cơ Tử nói đến ý nghĩa Ngũ Phước, Lục Cực, chính là chỉ rõ cái nhân quá khứ tạo thành cái quả trong hiện đời. Vì thế biết rằng: Do kẻ tầm thường chẳng dễ gì hiểu được nên thánh nhân chẳng nói, chứ không phải là chẳng biết có nhân quả ba đời! Từ khi Phật giáo truyền sang phương Đông, nêu rạng rỡ lý “tâm, Phật, chúng sanh, cả ba không sai biệt” và sự “nhân quả ba đời, lục đạo luân hồi”, nhân dân được hưởng ngầm lợi ích chẳng thể kể xiết. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 42 - Lời tựa cho sách Phật Học Cứu Kiếp Biên (1932) Nay lại dùng lẽ nhân quả rõ ràng để nói thì: “Yêu người, người mãi thương yêu; kính người, người sẽ luôn thường kính ta”. Nói ra lời trái tai thì sẽ nghe lời trái tai. Cho vay sự trái nghịch thì cũng sẽ nhận lại sự trái nghịch. Giết cha người khác, người ta cũng sẽ giết cha ta. Giết anh người ta, người ta cũng sẽ giết anh mình. Phàm những gì đã làm cho người khác thì không chuyện gì [bản thân ta sẽ gặp phải] lại chẳng giống như vậy. Còn đối với nhân quả tự tu thì nói: “Thánh do mất niệm thành cuồng, cuồng do khắc chế được ý niệm bèn thành thánh”. Thánh hay cuồng chỉ do mất niệm hay khắc chế được ý niệm mà thôi! Như câu nói: “Nếu dốc chí vào lòng nhân thì không ác, dốc chí nơi nhân sẽ thấy bậc tiên triết trong canh, nơi tường, cẩn thận dè dặt như sợ cả bóng áo [của chính mình] sẽ biết được [tội lỗi của chính mình]. Nếu lòng chẳng hướng về điều nhân thì lòng ham muốn ngày một phóng túng, thiên lý ngày một mất đi, có khác gì cầm thú cho mấy!” Mạnh Tử nói: “Tây Thi bôi đồ dơ thì mọi người đều bịt mũi, quở trách” (Tây Tử (tức nàng Tây Thi) cực đẹp, nhưng bôi phân khắp mặt thì mọi người đều sợ hôi thối, chẳng những không chịu nhìn mà còn bịt mũi chê trách). “Tuy người xấu xí, nhưng trai giới tắm gội sẽ có thể thờ Thượng Đế”. Đấy đều là sự lý nhân quả báo ứng vậy! Thánh nhân dạy người, trước hết nói thẳng vào những cách thức nên làm, rồi lại dạy những lẽ lợi - hại, được - mất do tuân thủ hay chống trái [những phương cách ấy]. Hai điều này tiến hành song song thì sẽ chẳng thể nào lệch lạc hay phế bỏ được. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 42 - Lời tựa cho sách Phật Học Cứu Kiếp Biên (1932) Thánh nhân lại lo con người không nghĩ chín chắn tới nơi tới chốn, bèn dùng sự lý nhân quả báo ứng để răn dạy. Vì thế, kinh Thư chép: “Huệ địch cát, tùng nghịch hung, duy ảnh hưởng” (thuận theo đạo thì tốt lành, trái nghịch thì xấu xa, giống như bóng theo hình, như tiếng vọng theo âm thanh vậy) . Lại chép: “Tác thiện giáng chi bách tường, tác bất thiện giáng chi bách ương” (Làm lành trăm điều lành giáng xuống, làm điều chẳng lành, trăm tai ương giáng xuống). Khổng Tử khen ngợi Châu Dịch, vừa mở đầu liền nói: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh. Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (Nhà tích chứa điều thiện, sự vui có thừa. Nhà làm điều chẳng lành, tai ương có thừa). Cơ Tử trần thuật Hồng Phạm, cuối [thiên sách] mới nói: “Hưởng dụng ngũ phước, oai dụng lục cực” (Thuận theo sẽ được năm điều phước, trái nghịch sẽ bị sáu nỗi cực nhọc). Những nhà Nho về sau chẳng biết nhân quả ba đời, gom hết ngũ phước, lục cực về sự cai trị của nhà vua. Chẳng những vu báng sự cai trị của vua là bạo ngược, mà còn vu báng cả từ ngữ “phước, cực” nữa. Vì thế, khó thể nào giải thích không khập khiễng cho được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 42 - Lời tựa cho sách Phật Học Cứu Kiếp Biên (1932) Đời loạn đến cùng cực, con người hết sức mong mỏi bình trị. Đạo để bình trị vốn thật gần, thật dễ, nhưng những kẻ thông minh trong thế gian thường muốn lập dị để mong lấn áp cổ nhân. Vì thế, họ coi thường những điều gần gũi, dễ dàng, chẳng thèm sử dụng, cứ muốn coi trọng những điều xa xôi, khó khăn để tỏ rõ bản lãnh của chính mình. Rốt cuộc chỉ thành rối ren, đạt hiệu quả trái ngược, nước loạn, dân khốn khổ hết thuốc chữa, chẳng đáng buồn ư? Chẳng đáng sợ ư? Chẳng biết thánh nhân vốn từ thiên lý, luân thường để lập pháp, khiến cho ai nấy đều giữ vẹn bổn phận, tôn trọng luân thường, tận tụy hành hiếu đễ, nên mới nói: “Nghiêu Thuấn chi đạo, hiếu đễ nhi dĩ hỹ” (Đạo của Nghiêu Thuấn chỉ là hiếu - đễ mà thôi). “Lão ngô lão dĩ cập nhân chi lão, ấu ngô ấu dĩ cập nhân chi ấu, trị thiên hạ khả vận chi chưởng thượng” (Dùng lòng phụng dưỡng, tôn kính người già cả của ta để phụng dưỡng, tôn kính người già cả của kẻ khác, đem lòng thương yêu con thơ của ta để thương yêu con thơ của người khác, thì giữ cho cõi đời bình trị sẽ là chuyện nắm chắc trong tay). Nếu ai nấy đều giữ được tấm lòng trung hậu, khoan thứ, cùng thấu hiểu sâu xa “mọi người là ruột thịt của ta, muôn vật cũng giống như ta” thì lễ nghĩa, nhân nhượng sẽ thịnh hành, thắng hung tàn, bỏ giết chóc, phong tục thuần thiện, thiên hạ thái bình. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 42 - Lời tựa cho sách Phật Học Cứu Kiếp Biên (1932) Cư sĩ Dương Chương Phủ ở Vô Tích tập hợp những lời hay hạnh đẹp của các bậc danh nhân xưa nay trong nước, ngoài nước, soạn thành tám quyển. Đầu tiên là luân lý, rồi đến những sự tu tỉnh, lòng từ thiện của quan viên, thân sĩ, thương nhân, khuê các, và những lời hay ý đẹp nên vâng giữ trong gia đình, xã hội, quốc gia của Trung Hoa và Tây Phương. Khi ấy, sách được in hơn một vạn cuốn, gởi đi khắp các huyện trong toàn quốc. Lợi ích quả thật chẳng nông cạn vậy. Từ đấy, một nhà đại từ thiện ở Thượng Hải là cư sĩ Vương Nhất Đình cho rằng sách này khá hợp thời cơ, tính in mấy ngàn cuốn để đề xướng, ngõ hầu ai có tâm cứu vãn thế đạo nhân tâm sau này sẽ tiếp tục ấn hành sao cho [sách được] lưu truyền khắp hoàn cầu hòng ai nấy biết rõ sự lý “nhân quả, báo ứng, sanh tử luân hồi”, sẽ miệt mài hành những mối luân thường “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”...Do vậy, tôi bèn viết đại lược để phô rõ ý nghĩa ẩn kín này. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 41 - Lời tựa tái bản bộ Hoàn Cầu Danh Nhân Đức Dục Bảo Giám (1929) Trăm nghề hay khéo trong thế gian mỗi nghề đều có quy củ, chuẩn mực. Căn cứ theo quy cách do cổ nhân đã thành lập để tập luyện, đến khi đã nhuần nhuyễn tột bậc rồi thì không chuyện gì chẳng “tùy lòng nghĩ đến, tay liền hoàn thành”. Mong thành thánh thành hiền cũng giống như vậy đó! Nêu lên đại cương thì chỉ có ba điều “làm sáng tỏ Minh Đức, làm cho dân mỗi ngày một tiến bộ, an trụ nơi chí thiện” mà thôi. Nhưng muốn làm sáng tỏ Minh Đức thì trước hết phải thực hiện bằng trừ khử vật dục phiền não, thúc đẩy lương tri vốn sẵn có. Có nghĩa là “dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa,” mãi cho đến khi trừ khử, thấu hiểu đến tột cùng rồi thì nhân dục đã hết sạch, thiên lý sẽ tự lưu hành. Đại cương “làm sáng tỏ Minh Đức” đã đạt được rồi thì những chuyện khác hễ làm bèn được, không chuyện gì chẳng thuận theo lòng nghĩ tay liền thực hiện thành tựu. Nhưng cần phải biết nhiều về ngôn hạnh của người xưa để phụ trợ cho việc duy trì, trưởng dưỡng suy xét phản tỉnh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 41 - Lời tựa tái bản bộ Hoàn Cầu Danh Nhân Đức Dục Bảo Giám (1929) Khéo sao cư sĩ Bành Mạnh Am đưa truyện người con gái có hiếu ở Hồ Nam cho đọc. Cô con gái có hiếu ấy chỉ biết có mẹ, người con gái tiết hạnh chỉ biết đến nghĩa, sự sống chết của chính mình chẳng thèm màng đến nữa. Tuy đã thể hiện gương táng thân vì mẹ, vì nghĩa, nhưng chẳng thể [dùng gương ấy để] răn dạy người tầm thường được; tuy vậy, lòng thành tận hiếu, tận nghĩa, ngay đến cả thiên địa, quỷ thần cũng bị cảm động, huống chi những người sẵn cùng một cái tâm ấy ư? Những kẻ chẳng nghĩ đến ân dưỡng dục, tùy ý tự do luyến ái, thấy nghe những chuyện này há chẳng thẹn muốn chết, do đó bèn đau đáu sửa đổi lỗi trước, dốc lòng tu đức sau ư? Điều này liên quan đến thế đạo nhân tâm cũng lớn lắm. Hơn nữa, tiết tháo như Tần Chiêu , ngay trong khi ấy mà giữ được lòng chẳng loạn lại càng sâu sắc gấp trăm lần. Do [giữ cho] một lúc chẳng loạn thì dễ, nhưng nhiều ngày chẳng loạn thì khó lắm. Huống chi ông Đặng X… đã nói: “Nếu chẳng thể kiềm chế được thì cô gái ấy sẽ thuộc về anh” đó ư? Thêm nữa, thiếu niên nam nữ trong mấy chục hôm, ngày cùng ăn, đêm cùng ngủ, mà có thể trọn chẳng có chuyện nam nữ tình dục, chẳng xáo trộn thiên lý, chẳng phải là kẻ trọn chẳng có nhân dục mà làm được ư? Tôi đem chuyện này ghi thêm vào An Sĩ Toàn Thư và Thọ Khang Bảo Giám. Hai cuốn sách ấy đã in hơn hai mươi vạn cuốn, nay lại ghi kèm [câu chuyện trên đây] vào cuốn sách này, hợp thành truyện trung hiếu tiết nghĩa để làm nhát kim đâm xuống đỉnh đầu những gã phế trừ luân lý, ngõ hầu căn bệnh đã lậm vào tạng phủ được mau lành, khôi phục chuyện giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, không làm các điều ác, vâng giữ những điều lành. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 40 - Lời tựa cho bộ Dương Tiêu Sơn Tiên Sinh Ngôn Hạnh Lục (1931) Nay để thuận tiện cho những người bình thường nên xếp bài răn dạy con lên đầu, kế đến là lời khuyên vợ, tiếp đó là Niên Phổ, rồi đến hai bài sớ. Tiếp đó là tiểu truyện của tiên sinh, sao cho vừa mở sách ra liền được lợi ích thật sự, chẳng đến nỗi do văn chương dài dòng, chẳng liên quan thiết thực đến phận mình bèn ngán đọc! Lòng Trung của Tiêu Sơn, chẳng phải chỉ là thờ vua. Đọc kỹ lưỡng Niên Phổ của ông, thì thờ cha mẹ, kính anh, đãi người, tiếp vật, không một chuyện nào chẳng bắt nguồn từ lòng Trung. Phải biết tám sự “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, tám pháp “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” đều phải lấy Trung làm giềng mối! Do Trung nên tận tâm thực hiện sao cho trọn vẹn hết khả năng mới thôi. Do vậy, nên nói: Đạo Trung xuyên suốt muôn hạnh, lòng Trung tăng thêm sự thành tựu cho muôn sự. Bất luận chuyện mình hay chuyện người, không có lòng Trung quyết khó thể thành tựu lớn lao được! Xưa nay, những vị lập đại công, tạo đại nghiệp, cùng lý tận tánh, mong thành thánh thành hiền, ai không lấy lòng Trung làm gốc? Vì nếu chẳng dốc sức nơi lòng Trung, sẽ ngả theo biếng nhác, chần chừ, vì chính mình còn chưa thể được, huống là vì xã hội, nước nhà ư? Người thời nay chẳng những không màng đến thực hiện lòng Trung mà ngay cả hiếu và tiết nghĩa cũng chẳng chú ý. Tôi thường muốn khuyên chỉ, nhưng chẳng cách nào phát khởi được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 40 - Lời tựa cho bộ Dương Tiêu Sơn Tiên Sinh Ngôn Hạnh Lục (1931) Cư sĩ Trầm Di Sanh muốn đẩy lùi ngọn sóng cuồng, tính ấn hành những chuyện tận trung báo quốc, tận tụy hành hiếu đễ, di huấn [để lại] cho con cháu của tiên sinh Dương Tiêu Sơn hòng lưu truyền rộng rãi để mong sao ai nấy có hiếu với cha mẹ, kính trọng anh, hòa thuận với họ hàng, bạn bè tin cậy, thương kẻ côi cút, giúp người góa bụa, nhân từ với người khác, yêu thương loài vật, lòng thành sắt son vì nước, nhiệt tâm cứu đời, mỗi mỗi đều phỏng theo tiên sinh Tiêu Sơn để thực hiện, cốt sao trọn hết chức phận của chính mình, chẳng ôm lòng chần chừ, lười nhác, hư giả chút nào! Như vậy thì lòng người đã chuyển, nhân họa tự mất. Một khi nhân họa đã mất, lòng trời tự thuận; đương nhiên sẽ mưa nắng đúng thời, vật mạnh, dân khỏe, thiên hạ, thái bình, nhân dân yên vui! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 40 - Lời tựa cho bộ Dương Tiêu Sơn Tiên Sinh Ngôn Hạnh Lục (1931) …Mọi sự đều phải nói đến trung thì mới chẳng đến nỗi “ta dối gạt, ngươi mắc lừa”, luông tuồng, không chuẩn mực vậy! Đắc thế bèn hùa nhau phò tá, sa cơ kéo nhau bỏ đi, hoặc còn đâm ra công kích, chà đạp lẫn nhau, trọn chẳng ngưng dứt. Đấy đều là vì chẳng màng đến trung nghĩa mà ra. Trung nghĩa chẳng màng tới thì quan hệ cha - con, vợ - chồng đều coi như mảy lông! Coi nhẹ lâu ngày, những quan hệ ấy sẽ trở thành gông cùm. Mang những gông cùm ấy chẳng được tự do, chẳng thể nào không diễn ra những vở tuồng tồi tệ giết cha, giết mẹ, nghịch trời, trái lý, hòng mặc tình tùy ý, chẳng bị câu thúc gì! Than ôi! Chẳng nói đến trung nghĩa, họa hại tới mức cùng cực như thế đó, há chẳng đau đớn tuôn lệ, thở dài sườn sượt ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 40 - Lời tựa cho bộ Dương Tiêu Sơn Tiên Sinh Ngôn Hạnh Lục (1931) “Trung, hiếu, tiết, nghĩa” chính là giềng mối chánh yếu của đạo làm người. Nếu không có những điều ấy, con người khác gì cầm thú? Dẫu vào thời dân chủ, cũng chẳng thể nào không dạy trung nghĩa! Bởi “trung” chẳng phải chỉ có nghĩa là trung với vua. Vì thế, Tăng Tử dùng “trung thứ” (trung thành, rộng lượng) để tỏ rõ đạo của Phu Tử, thường phản tỉnh “hằng ngày vì người khác mưu toan công việc, bản thân có hết lòng trung hay không”. Vì thế, biết một chữ Trung có ý nghĩa xuyên suốt vạn hạnh! Thờ vua chỉ là một khía cạnh mà thôi! Trộm nghĩ: Trung có nghĩa là “tận hết tấm lòng của chính mình, chân thành, không dối trá”. Nếu con người giữ tấm lòng trung, ắt sẽ có hiếu với cha mẹ, kính anh, hòa thuận với họ hàng, bạn bè tin cậy, xót thương kẻ côi cút, giúp đỡ người góa bụa, nhân từ với mọi người, yêu thương loài vật, chẳng làm các điều ác, vâng giữ những điều lành, vì sao vậy? Do trung nên chẳng dối, do chẳng dối nên trọn hết bổn phận. Do trọn hết bổn phận nên đối với những chuyện thuộc về bổn phận của chính mình đều chăm chú thực hiện, quyết chẳng mắc lỗi đối phó vờ vĩnh cho xong chuyện, chẳng tận hết lòng, hết sức mình. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 40 - Lời tựa cho bộ Dương Tiêu Sơn Tiên Sinh Ngôn Hạnh Lục (1931) Cư sĩ Lý Viên Tịnh thương cõi đời suy hãm, đặc biệt viết sách Con Đường Đạt Đến Quang Minh. Điểm quan trọng là đề xướng nhân quả báo ứng. Ông Châu An Sĩ nói: “Nhân nhân tri nhân quả, đại trị chi đạo dã. Nhân nhân bất tri nhân quả, đại loạn chi đạo dã” (Ai nấy đều biết nhân quả thì là đạo để bình trị lớn lao vậy. Ai cũng chẳng biết nhân quả, đấy là đường lối dẫn đến đại loạn vậy). Do vậy biết nhân quả báo ứng quả thật là đạo trọng yếu từ đầu đến cuối để giữ thân, tiếp vật, yên đời, hiền dân, mong thành thánh, thành hiền, làm Phật, làm Tổ vậy! Mong sao những người đọc đều triệt để gột sạch cái tâm tự tư tự lợi, để tự sáng tỏ Minh Đức thì thiên hạ may mắn lắm thay! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 39 - Lời tựa cho sách Con Đường Đạt Đến Quang Minh (1928) Nếu như biết “họa phước không cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy”, thiện báo, ác báo như bóng theo hình, lợi người chính là lợi mình, hại người còn quá hại mình, giết cha người ta thì người ta cũng giết cha mình, giết anh người ta, người ta cũng sẽ giết anh mình. Khéo thờ cha mẹ, ắt con ta có hiếu. Khéo thờ anh, ắt con ta hòa thuận. Như giọt nước rỏ nơi mái hiên, giọt sau tiếp nối giọt trước! Xem đó, hiếu thuận cha mẹ, kính trọng anh, yêu người, lợi vật đều là nền phước về sau cho chính mình! Tổn người, lợi mình, thương thiên, hại lý đều là gốc họa về sau cho chính mình. Người dẫu chí ngu chắc chắn chẳng sung sướng vì mắc tai, gặp họa, theo dữ, tránh lành! Nhưng xét đến hành vi thì lại hoàn toàn trái nghịch, vì sao thế? Do chưa gặp được người hiểu rõ lý giảng giải tường tận sự lý nhân quả báo ứng cho kẻ đó. Thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách nhiệm! Thất phu sao có thể làm cho thiên hạ yên ổn được? Nếu người trong thiên hạ đều cùng biết nhân hiểu quả, thì cái tâm tham - sân - si chẳng đến nỗi lẫy lừng, nghiệp giết - trộm - dâm chẳng dám làm càn. Yêu người, lợi vật, biết vui theo mạng trời, tâm địa đã chánh đại quang minh thì tương lai đi đến đâu, không chỗ nào chẳng phải là chỗ quang minh! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 39 - Lời tựa cho sách Con Đường Đạt Đến Quang Minh (1928) Hơn nữa, bố thí có ba loại: - Một là Tài Thí, tức là dùng tiền tài và quần áo, thức ăn, chỗ ở để châu cấp hay giúp đỡ người bần cùng, khốn khổ. - Hai là Pháp Thí, đối với người chẳng biết thiện - ác, tà - chánh và nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo và pháp môn thiết yếu để liễu sanh thoát tử bèn dùng phương tiện khéo léo tuyên nói, hoặc ấn tống, lưu thông những sách ghi chép những câu nói khế lý khế cơ của chư Phật, Bồ Tát, Tổ Sư, thiện tri thức ngõ hầu người thấy nghe sanh lòng chánh tín, dần dần thâm nhập cho đến khi liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Đó đều gọi là Pháp Thí. - Ba là Vô Úy Thí: Hết thảy chúng sanh ham sống sợ chết, khuyên khắp những người cùng hàng kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, và hễ ai có điều sợ hãi thì hoặc là dứt tai họa ấy, hoặc bày tỏ lòng quan tâm. Đấy chính là Vô Úy Thí nhỏ nhoi. Hết thảy chúng sanh rốt cuộc khó tránh khỏi cái chết, chết rồi lại sanh, sanh rồi lại chết, bao kiếp vĩnh viễn ôm nỗi lo sợ ấy, dạy cho họ tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương dần dần tấn tu, cho đến khi thành Phật đạo. Đấy gọi là Đại Vô Úy Thí. Trong ba thứ Bố Thí này, Tài Thí chỉ thuộc đời này, hai thứ sau tồn tại mãi đến đời vị lai. Phàm những ai muốn lợi người để trọn thành phước huệ của chính mình, hãy nên tùy theo sức mình để thực hành thì nhân dân may mắn, nước nhà may mắn lắm thay! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 38 - Lời tựa cho sách tường trình hoạt động cứu trợ lũ lụt của hội Cứu Trợ Từ Thiện tỉnh Giang Tô (1931) Giữa Thu, vùng Giang Bắc bị thủy tai thật là từ trước đến nay chưa hề có. Vào ngày Hai Mươi Tám tháng Tám, hội Từ Thiện Cứu Trợ Lũ Lụt tỉnh Giang Tô cấp tốc gọi điện cho hai ông Tào và Viên hãy đi cứu trợ trước, đừng chần chờ. Họ liền khởi hành đến đất Dương, trước hết hội họp quan viên, thân sĩ, rồi lập cơ sở cứu trợ. Tiếp đó, mới chia nhau điều tra tình hình lũ lụt các nơi, rồi gởi thư hay gọi điện thoại cho những nhà từ thiện ở Tô Châu và các nơi kêu gọi đóng góp, vì những người dân bị nạn mà van xin, lần lượt được số tiền khoảng mười lăm vạn. Áo đơn, áo kép, áo bông, giày, vớ v.v… mới hay cũ tổng cộng hơn mười vạn bộ, mền bông hơn một ngàn cái. Nồi niêu, thuốc men số lượng thật nhiều. Khoản đóng góp của những nơi khác được bốn phần mười, khoản tiền và quần áo, đồ đạc đóng góp lớn nhất đều do Tô Châu quyên tặng: Một là vì hai ông Tào và Viên được người địa phương kính tin; hai là vì Tô Châu là chỗ hai đức Phật Duy Vệ và Ca Diếp từng ở, cũng như do phong cách, sự cai trị tốt lành của Lục Nguyên Phương đời Đường, Phạm Văn Chánh đời Tống vẫn còn giữ lại. Vì thế, nhân dân phần nhiều đều từ thiện, nhân ái, coi người khác như chính mình, nên mới đóng góp một khoản lớn lao như thế. Đối với mỗi một biện pháp tiến hành đều thuật rõ tình hình, tổng cộng mười bảy điều, đọc đến liền biết rõ. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 38 - Lời tựa cho sách tường trình hoạt động cứu trợ lũ lụt của hội Cứu Trợ Từ Thiện tỉnh Giang Tô (1931) Một đệ tử của tôi mấy năm trước ở Tứ Xuyên đến nhà một người bạn, nghe người vợ bạn kêu gào rất thương tâm, nhân đó hỏi thăm duyên cớ. Người bạn đáp: “Vợ đã hai ngày không sanh con ra được, sợ chẳng giữ được tánh mạng”. Ông ta nói: “Hãy gấp bảo sản phụ niệm thánh hiệu Quán Thế Âm, còn ông ở ngoài giếng trời , đốt hương quỳ niệm, đảm bảo sẽ sanh ngay”. Người ấy liền nói với vợ, lại còn tự niệm. Chẳng mấy chốc liền sanh ra đứa nhỏ mà người vợ vẫn chưa hay. Đến khi nghe con khóc mới biết đã sanh rồi. Người vợ kể: “Khi trước lúc sắp sanh, thấy một người dùng vải chèn kín phần dưới thân thể nên sanh không được. Đến khi niệm thánh hiệu Quán Thế Âm thấy vải bị tuột ra, nên sanh rồi mà vẫn không biết, nghe con khóc mới biết là con đã sanh!” - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 37 - Lời tựa tái bản hai thiên sách Đạt Sanh và Phước Ấu (1929) Nếu bàn về cái nhân xa [của tai biến khi sanh nở] thì phần nhiều do sát nghiệp trong đời trước hay đời này chiêu cảm. Nếu con gái từ lúc thơ ấu thường niệm thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật và Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ tự tiêu trừ được sát nghiệp trong đời trước và đời này. Hễ sát nghiệp tiêu thì sanh nở sẽ chẳng bị [oán gia] gây chướng ngại chẳng sanh được. Đấy cũng là một cách trị sẵn trước khi chưa bệnh. Hoặc nếu có kẻ chưa được nghe Phật pháp, nhưng tới lúc sanh nở, nếu chẳng sanh được ngay, hãy nên dạy sản phụ và những kẻ thân thuộc chăm sóc bên cạnh đều dùng tâm chí thành niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát thì tất cả những oán gia đời trước gây chướng ngại [khiến cho sản phụ] chẳng thể sanh vừa được nghe danh hiệu Bồ Tát sẽ do oai đức, thần lực của Bồ Tát mà liền tránh xa, chẳng dám khuấy rối nữa! Có kẻ nói đang sanh nở lõa lồ bất tịnh, niệm danh hiệu Bồ Tát chắc sẽ mắc tội khinh nhờn. Đấy chính là đem tình kiến phàm phu để lầm lạc suy lường tâm hạnh của Bồ Tát. Chẳng biết đấy là lúc liên quan đến tánh mạng, chẳng thể đem lúc bình thường trọn chẳng bị bệnh khổ để bàn luận. Ví như con cái té vào lửa nước, gọi cha mẹ cầu cứu, cha mẹ nghe được liền đến cứu ngay, trọn chẳng vì [đứa con] áo mũ không tề chỉnh, thân thể chẳng sạch sẽ mà chẳng chịu cứu giúp. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 37 - Lời tựa tái bản hai thiên sách Đạt Sanh và Phước Ấu (1929) Lại nói: “Dưỡng thai bằng cách tuyệt dục, đấy là ý nghĩa bậc nhất”. Vì thế, tâm pháp đầu tiên để dưỡng thai là phải kiêng ăn nằm. Thiên sách ấy ghi: “Hễ vợ có thai rồi thì phải hết sức kiêng ăn nằm. Đó là lý do vì sao người xưa hễ có thai bèn ở phòng khác, chẳng ngủ chung với nhau nữa vì sợ dấy lên dục niệm. Nói chung, trước khi thai được ba tháng mà phạm [chuyện cấm kỵ ấy] thì, do dục niệm dấy lên, tử cung lại bị mở ra, rất dễ bị nguy cơ chảy máu, động thai. Sau khi thai đã được ba tháng mà phạm lỗi ấy thì bọc thai sẽ dầy, khó sanh. Phải biết lửa dục làm tổn thương thai đến nỗi những chất nhơ bẩn lắng đọng. Hơn nữa, những đứa nhỏ thân có chất nhơ màu trắng, đậu mùa, ghẻ chốc khó chữa lành được đều là vì cha mẹ chẳng cẩn thận”. Đây chính là điều có quan hệ lớn lao lúc mới thọ thai vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 37 - Lời tựa tái bản hai thiên sách Đạt Sanh và Phước Ấu (1929) Kẻ khéo trị bệnh sẽ trị từ lúc bệnh chưa phát, sẽ được lợi ích sâu xa mà chẳng tốn kém. Vì thế, nói: “Chí trị vu vị loạn, bảo bang vu vị nguy” (Đạt đến yên ổn khi chưa loạn, bảo vệ đất nước khi chưa nguy). Như vậy là đã không có cái gọi là bệnh thì đâu cần phải trị nữa? Tuy nhiên, người làm được như vậy có mấy ai? Con người sống trong thế gian, chỉ có sống và chết là quan trọng nhất. Nếu chẳng hiểu thấu đạo ấy thì khi sanh nở, rất có thể mẹ lẫn con cùng chết. Dẫu cho chẳng chết, chắc cũng oan uổng chịu đủ mọi thống khổ, trong khi chết chắc vạn phần may lại được sống, thật đáng thương xót quá! Cư sĩ Cức Trai đặc biệt soạn ra Đạt Sanh Thiên để chỉ rõ sản nạn trong thế gian, phần nhiều là vì tưởng lầm những cơn đau bụng quặn lên là vì sắp sanh, đến nỗi sanh ra đủ mọi hiểm nạn như sanh ngang, sanh ngược v.v… Đấy là một điều quan hệ lớn lao khi sanh nở. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 37 - Lời tựa tái bản hai thiên sách Đạt Sanh và Phước Ấu (1929) Khổng Tử nói: “Thiên hạ chi bổn tại quốc, quốc chi bổn tại gia, gia chi bổn tại thân” (Gốc của thiên hạ là đất nước, gốc của đất nước là nhà, gốc của nhà là thân). Lời này đâu phải nói riêng với người mang tước vị, mà thất phu thất phụ đều cùng mang trách nhiệm này! Cổ nhân đã nói: “Thiên hạ bất trị, thất phu hữu trách” (Thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách nhiệm). Bởi lẽ, nhân tài trong thiên hạ đều từ gia đình mà ra. Gia đình khéo dạy, con cái tự nhiên đều hiền thiện. Gia đình không khéo dạy, đứa con nào có thiên tư sẽ quen thói cuồng vọng, đứa không có thiên tư sẽ quen nết bướng bỉnh, hung ác. Hai loại ấy đều là sâu mọt cho quốc gia, xã hội! Do vậy, biết giáo dục gia đình chính là căn bản để trị quốc, bình thiên hạ, còn nhân quả báo ứng là đạo trọng yếu để phụ trợ cho giáo dục gia đình. Từ đứa bé con cho đến kẻ bạc đầu, từ chính bản thân cho đến xã hội, từ làm người cho đến thành thánh hiền, từ tu thân cho đến bình thiên hạ đều phải nương theo những điều ấy để được thành tựu, thật đúng là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh, thành thủy thành chung vậy, là đại pháp để cùng trị cả gốc lẫn ngọn, phàm lẫn thánh đều phải tuân theo. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 36 - Lời tựa nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của sách Khuyến Thế Bạch Thoại Văn (1930) Thế đạo nhân tâm ngày nay đã suy hãm đến cùng cực lắm thay! Những người mang tâm lo lắng cho đời bày đủ mọi cách để duy trì. Nếu không, đạo làm người gần như diệt mất, thật đáng sợ thay! Tuy nhiên, muốn vãn hồi thế đạo nhân tâm hãy nên giải quyết từ căn bản thì dùng sức ít mà được hiệu quả lớn lao. Người có tri kiến chân chánh đích xác ắt sẽ ùa nhau vâng theo như gió lùa cỏ rạp. Thầy thuốc trị bệnh có bệnh đằng gốc, có bệnh đằng ngọn, xét coi bệnh tình gấp rút hay hòa hoãn để trị liệu, chẳng thể chấp vào một phía để luận định. Nay chứng bệnh nơi thế đạo nhân tâm đã sâu lắm rồi; nếu chỉ dựa trên mặt Sự để khuyên dụ, tuy cũng đạt được hiệu quả biến đổi phong tục, nhưng cố nhiên chẳng thể đạt hiệu quả bằng cách dốc sức nơi căn bản được! Nói đến chuyện dốc sức nơi căn bản chính là đề xướng giáo dục trong gia đình, đề xướng nhân quả báo ứng, sao cho hết thảy mọi người ai nấy biết đạo làm người, ai nấy trọn hết bổn phận của chính mình, cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành. Nếu ai nấy đều được như vậy thì cửa nhà hưng thịnh, con cháu hiền thiện. Lại phải biết thường nghiêm giữ những lời về “phước thiện, họa dâm, thiện ác, tai ương, may mắn” để tự tu, lại còn [dùng những điều ấy] dạy người trong nhà thì người nhà sẽ dự vào địa vị thánh hiền tốt đẹp mà chẳng tự biết. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 36 - Lời tựa nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của sách Khuyến Thế Bạch Thoại Văn (1930) Khéo sao, tôi được tặng cuốn Chánh Tín Lục do cư sĩ La Lưỡng Phong biên soạn. Đọc xong, nỗi canh cánh bên lòng được cởi gỡ! Cư sĩ thừa nguyện tái lai, dùng tầm mắt thông suốt lớn lao vô ngại, đối với những chuyện thế tục nghi ngờ như thiên đường, địa ngục, con người và súc vật luân hồi, thân trước, thân sau v.v… mỗi mỗi đều dựa theo kinh, dẫn chứng từ sử để chứng minh những chuyện đó. Đạo học uyên nguyên, những lời bàn luận tột cùng của các bậc danh nhân và các lối tu trì, cũng như pháp cậy vào Phật từ lực để vượt ngang ra khỏi tam giới thảy đều chỉ bày tường tận duyên do khiến cho con người biết được cửa nẻo, có chỗ dựa nương, cốt sao kẻ câu nệ hẹp hòi thấy được vầng mặt trời, khiến cho những kẻ cô đơn, lênh đênh trở về quê nhà vốn có, tạo lợi ích không thể nào diễn tả được! Tôi bèn giảo chánh câu chữ, tính in ra trước hết một vạn cuốn để đề xướng. Sau đấy, mặc lòng những nhà từ thiện bao lượt tái bản ngõ hầu lưu truyền khắp toàn quốc. Bạn tôi là đại sư Thể Phạm nguyện bỏ tiền ấn loát, cư sĩ Quách Phụ Đình ở Triều Châu muốn khắc mộc bản cho tinh tường, cậy tôi giảo duyệt bản in gốc và viết lời tựa ngõ hầu được lưu truyền rộng rãi. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 35 - Lời tựa cho bộ Chánh Tín Lục của cư sĩ La Lưỡng Phong Có lắm kẻ vì thoạt đầu chẳng hay biết nên lầm lẫn bài xích, tiếp đến do hiểu biết sâu xa bèn tận lực tu, sau đấy do chân tu nên ngộ chứng. Do vậy liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, rộng để lại ngôn giáo nhằm khơi gợi người sau. Do họ đã biết rõ đức Phật lập pháp bao gồm trọn vẹn hết thảy các thiện pháp thế gian và xuất thế gian, không những chẳng trái pháp thế gian mà còn hữu ích lớn lao cho pháp thế gian. Luận về mặt tu trì thì chẳng bỏ sót điều thiện mảy may nào, nhưng nhất tâm vô trụ. Bàn đến đế lý, chẳng lập mảy trần nhưng vạn đức đều tỏ lộ trọn vẹn. Vì thế, những người có tri kiến lỗi lạc, có chí đặc biệt quy hướng, không một ai chẳng dốc lòng sùng phụng để mong tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 35 - Lời tựa cho bộ Chánh Tín Lục của cư sĩ La Lưỡng Phong Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Vì thế, đức Phật coi hết thảy chúng sanh đều là Phật, thương họ trái giác hiệp trần, luân hồi sáu nẻo, trải kiếp số nhiều như mảy trần không cách gì thoát lìa được. Do vậy, tùy theo căn cơ lập giáo, đối bệnh cho thuốc, đủ mọi phương tiện chỉ dạy, mong sao họ sẽ trái trần hiệp giác, bỏ vọng về với chân, tiêu trừ Hoặc nghiệp vốn chẳng có, chứng trọn vẹn Phật tánh sẵn có mới thôi. Chúng sanh thấy Phật đều là chúng sanh cho nên nghe lời Phật, nhìn hành vi của Phật, chẳng thể tin nhận ngay, có kẻ cho là huyễn vọng chẳng thật, [chỉ nhằm] gạt gẫm kẻ ngu tục. Có kẻ cho rằng [đạo Phật] phế bỏ luân lý, làm hại chánh đạo. Có kẻ cho rằng càng gần lý, càng gây loạn lớn lao cho lẽ chân. Nhưng đức Phật chẳng vì những điều ấy mà vứt bỏ họ, chỉ đợi khi thời tiết nhân duyên chín muồi sẽ ra tay độ thoát. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 35 - Lời tựa cho bộ Chánh Tín Lục của cư sĩ La Lưỡng Phong Cư sĩ Quách Hàm Trai do thấy mấy lúc gần đây sát nghiệp ngút ngàn, trọn chẳng ngơi dứt, liền muốn lưu truyền tập sách này, ngõ hầu người đọc đều cùng phát tâm bảo vệ sanh mạng hòng dứt sát kiếp, uốn nắn phong hóa, cậy tôi giảo duyệt. Do vậy, tôi sửa đổi đôi chút thứ tự, danh xưng, số quyển. Lại đăng kèm vào theo mấy đoạn phê phán của tiền nhân dưới mỗi đoạn văn, đăng kèm theo Khuyến Hiếu Ca và Bát Phản Ca của người đời Đường vào sau sách, ngõ hầu ai nấy đều coi trọng bảo vệ sanh mạng, đều vâng giữ lòng hiếu để mở rộng lòng nhân đức hầu báo ân cha mẹ; nhưng hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh, đều sẽ thành Phật, đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong tương lai, ắt sẽ mở rộng lòng hiếu kính để mong rốt ráo tự bảo vệ sanh mạng, bảo vệ sanh mạng kẻ khác vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 34 - Lời tựa bộ Vệ Sinh Tập (1931) Cư sĩ Hoa Ngộ Thê dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tu trì Tịnh nghiệp, muốn vãn hồi thế đạo, nhân tâm, đặc biệt tập hợp những ngôn luận của các bậc danh nhân xưa nay và đủ mọi [chuyện] quả báo do sát sanh hay phóng sanh, đặt tên là Vệ Sinh Tập, mong sao người đời muốn bảo vệ sanh mạng của chính mình thì trước hết hãy bảo vệ mạng sống của những sanh vật bơi dưới nước, sống trên mặt đất, bay trên không kia. Tự bảo vệ sanh mạng như vậy thì chẳng phải chỉ trong một đời này mà còn khiến cho đời đời kiếp kiếp phàm sanh vào nơi đâu đều được tốt lành, không có các tai họa. Nếu lại niệm Phật, đem công đức bảo vệ sanh mạng này hồi hướng vãng sanh thì sẽ có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, đoạn hết sạch Phiền Hoặc, đắc đại vô úy, bảo vệ sanh mạng cho khắp hết thảy những chúng sanh cô đơn, lênh đênh không nơi nương tựa trong sáu nẻo. Đấy gọi là ý nghĩa nhỏ nhiệm của việc bảo vệ sanh mạng vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 34 - Lời tựa bộ Vệ Sinh Tập (1931) Giữa khoảng trời đất hoàn toàn là một khối nguyên khí thái hòa. Vì thế mưa gió đúng thời, lúa thóc chín rộ, các loài động thực vật đều được sanh trưởng. Nếu con người thấu hiểu, hành theo điều này cố nhiên chẳng thẹn đứng chung với trời đất thành ba ngôi, xưng là Tam Tài. Từ đấy, sẽ tự bảo vệ, bảo vệ kẻ khác, cốt sao hết thảy hàm thức đều được sống yên ổn, cùng vui lẽ thiên chân. Đấy chẳng phải là “kế thừa đời trước, mở mang đời sau, dùng tiên giác để giác hậu giác, bù đắp cho chỗ thiếu sót của trời đất, giúp cho quyền sanh thành, dưỡng dục của trời đất” đó ư? Nhưng người đời do tham vui sướng bụng miệng, bắt lấy các loài vật bơi dưới nước, chạy trên đất, bay trên không để giết ăn, cốt sao thỏa thích bụng miệng mình, bảo vệ cái sanh mạng của ta, [như vậy thì] muốn cầu giữ gìn mạng sống lại đâm ra gặt phải kết quả trái ngược. Do sát sanh nên gây ảnh hưởng lớn lao đến thiên hòa, cảm lấy lệ khí (khí hung dữ, độc hại), đến nỗi những thiên tai như lụt lội, hạn hán, ôn dịch, sâu rầy v.v… Do kết quả của sát nghiệp, phát sanh những nhân họa (tai họa do con người gây ra) như đôi bên chiến tranh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 34 - Lời tựa bộ Vệ Sinh Tập (1931) Cõi đời truyền tụng Viễn Công và mười tám vị cao hiền, một trăm hai mươi ba người kết xã. Trong số mười tám vị ấy, Viễn Công đứng đầu. Mười lăm người kia đa số là những vị kết xã đầu tiên. Nếu ngài Phật Đà Bạt Đà La vào năm Nghĩa Hy thứ hai (406) đời Tấn An Đế mới dự vào liên xã, tức là năm thứ mười bảy sau khi [Lô Sơn] kết xã. Ngài Phật Đà Da Xá dự vào liên xã trong năm Nghĩa Hy thứ mười (414) thì đấy là năm thứ hai mươi lăm sau khi [Lô Sơn] kết xã. Trong Bảo Vương Luận, pháp sư Phi Tích có nói Viễn Công nhận lãnh phép Niệm Phật tam-muội từ ngài Phật Đà Bạt Đà La xong bèn cùng những vị cao hiền Tăng - tục kết xã niệm Phật. Đấy chính là đề cao những vị Tăng Tây Trúc, nhưng chưa khảo cứu tường tận thời gian [ngài Phật Đà Bạt Đà La] dự vào Liên Xã vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 33 - Lời tựa cho bộ Tấn Liên Tông Sơ Tổ Lô Sơn Huệ Viễn Pháp Sư Văn Sao (1935) Thái Sử Sa Kiện Am ở Như Cao đến tuổi già dốc lòng tin tưởng Phật pháp, chuyên tu Tịnh nghiệp, xem rộng khắp các sách, phàm những trước thuật Viễn Công và những bài truyện, tán, ký, tụng v.v… do người đời sau soạn ra đều sao lục đầy đủ, [tập hợp thành sách] đặt tựa đề là Huệ Viễn Pháp Sư Văn Sao, phân thành hai bộ Chánh Biên và Phụ Biên. Môn nhân là Hạng Trí Nguyên lại còn sao lục bổ sung, ủy thác Quang giảo chánh và ấn hành. Trộm nghĩ: Viễn Công là Liên Tông Sơ Tổ, sách ấy được lưu truyền rộng rãi người đọc sẽ có dấy lòng tu trì, nhưng do tài lực không đủ, trước hết bèn in một vạn bản để xướng suất, sau này sẽ có người kế tiếp liên tục in thì làm sao biết được con số. Người học đời sau do cuốn sách này đều biết cội nguồn của pháp môn Tịnh Độ, ắt đều gặp việc nhân chẳng chịu nhường, nối gót bậc tiên giác, cùng thoát khỏi Ngũ Trược, cùng lên chín phẩm sen. Vì thế, trước lúc sắp chữ, bèn lược thuật lai lịch. Còn như đạo đức, công nghiệp, văn chương, sự cảm thông của Viễn Công đã được chép đủ trong Chánh Biên và Phụ Biên của [Huệ Viễn Pháp Sư] Văn Sao, ở đây không cần rườm lời tường thuật nữa! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 33 - Lời tựa cho bộ Tấn Liên Tông Sơ Tổ Lô Sơn Huệ Viễn Pháp Sư Văn Sao (1935) Xét ra Viễn Công, vào năm Giáp Thân tức năm Thái Nguyên thứ chín (384) đời Hiếu Vũ Đế nhà Đông Tấn mới đến Lô Sơn, trụ tại chùa Tây Lâm của đồng môn là pháp sư Huệ Vĩnh. Sau này, do người đến học đông đảo, Tây Lâm chật hẹp không chứa hết nổi, nên lại dựng chùa Đông Lâm. Lúc mới lo liệu, sơn thần hiển linh, gỗ rường tự đưa đến, Thứ Sử Hoàn Y bèn đứng ra xây cất, đặt tên cho điện ấy là Thần Vận để biểu thị sự linh dị. Do vậy, bậc cao hiền Tăng - tục lũ lượt tìm đến. Đến ngày Hai Mươi Tám tháng Bảy năm Canh Dần (390), tức năm Thái Nguyên mười lăm, Sư cùng Tăng - tục một trăm hai mươi ba người kết xã niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Những người ấy lúc lâm chung đều ứng hiện tướng lành, đều được vãng sanh. Ấy là vì mọi người đều có trí huệ siêu quần bạt tụy, lại được Viễn Công chỉ dạy và được sức giùi mài, gọt giũa của các bạn nên đạt được lợi ích ấy. Đấy chính là những người kết xã đầu tiên. Nếu xét theo cả một đời Viễn Công, trong hơn ba mươi năm, những người được hưởng sự pháp hóa tu trì Tịnh nghiệp, đắc tam-muội lên liên bang kể sao cho xiết! Xét từ năm Giáp Thân tức năm Thái Nguyên thứ chín (384), Viễn Công đến Lô Sơn, về Tây vào ngày mồng Sáu tháng Tám năm Bính Thìn tức năm Nghĩa Hy 12 (416), suốt ba mươi hai năm không ra khỏi núi, chẳng dấn mình vào cõi tục. Những trước thuật hoằng dương pháp hóa, hộ trì Phật giáo của Ngài được chép đầy đủ trong Lô Sơn Tập. Trải bao cuộc biển dâu, thất lạc gần hết. May là trong những bộ Hoằng Minh Tập, Quảng Hoằng Minh Tập đều có sao lục khiến cho dấu thơm của cổ đức được truyền mãi mãi trong cõi đời. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 33 - Lời tựa cho bộ Tấn Liên Tông Sơ Tổ Lô Sơn Huệ Viễn Pháp Sư Văn Sao (1935) Viễn Công ở Lô Sơn xưa đã vâng lời Phật phó chúc, thừa nguyện tái lai. Chưa được thấy kinh Niết Bàn đã soạn luận Pháp Tánh Thường Trụ; chưa xem kinh Hoa Nghiêm đã xiển dương tông chỉ hướng dẫn về Cực Lạc, lập pháp ngầm hợp với các kinh, đạo thích hợp khắp ba căn, thông trên, thấu dưới, thỏa thích bổn hoài xuất thế của đức Như Lai, giải quyết trọn vẹn đại sự sanh tử của hàm thức. Nếu chẳng phải là bậc Đại Quyền thị hiện , làm sao có thể dự đoán như vậy được? Vì thế, pháp sư La Thập nói: “Kinh dạy: Trong đời Mạt sau này, phương Đông sẽ có vị Bồ Tát hộ pháp. Gắng lên nhân giả! Hãy khéo hoằng dương chuyện này”. Tăng chúng Tây Vực đều nói đất Hán có bậc Khai Sĩ Đại Thừa, liền hướng về phương Đông cúi lạy, dâng lòng lên rặng Lô Sơn. Tung tích thần lý chẳng thể lường được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 33 - Lời tựa cho bộ Tấn Liên Tông Sơ Tổ Lô Sơn Huệ Viễn Pháp Sư Văn Sao (1935) Do Phật chứng rốt ráo nên được Ngũ Uẩn đều là không, vượt khỏi các khổ, chẳng lập mảy trần, phô bày trọn vẹn vạn đức. Do chúng sanh triệt để mê nên đến nỗi mê chân đuổi theo vọng, trái giác, hiệp trần, luân hồi sanh tử, trọn không có lúc thoát ra. Do vậy, đức Như Lai tùy theo căn cơ của chúng sanh nói đủ mọi pháp khiến cho ai nấy đều theo đường về nhà, đích thân thấy được cha mẹ vốn có. Lần chéo áo tìm được hạt châu, liền được của báu vô tận nhà mình sẵn có. Bậc thượng căn cố nhiên được giải thoát, nhưng hàng trung - hạ vẫn trong luân hồi, nên đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ “vượt ngang ra khỏi tam giới”, khiến cho khắp các hạng trung - hạ nối gót bậc thượng căn. Lợi ích ấy không thể nào diễn tả được! Nghĩa này tuy phát xuất từ hội Phương Đẳng, nhưng thật ra đạo ấy bắt nguồn từ hội Hoa Nghiêm, chỉ vì phàm phu, tiểu thánh chẳng thể dự hội [Hoa Nghiêm] nên không có cách chi vâng nhận được. Trước khi kinh Hoa Nghiêm được truyền đến [Trung Quốc, pháp môn Tịnh Độ] thường bị coi là đạo phương tiện hay Tiểu Thừa. Sau khi phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện đã được dịch ra rồi, mới biết đây là lời giảng chân thật về pháp thành Phật. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 33 - Lời tựa cho bộ Tấn Liên Tông Sơ Tổ Lô Sơn Huệ Viễn Pháp Sư Văn Sao (1935) Cư sĩ Dịch Viên* thoạt đầu chẳng biết Phật, cũng chẳng khỏi “người ta nói sao mình bảo vậy”. Đến khi xem kinh Phật, mới biết trước kia sai lầm, bèn ngầm tu tại gia, người trong cả một làng đều được ông giáo hóa. Do muốn tạo sự hướng dẫn sáng suốt cho thiên hạ đời sau, bèn soạn bài tụng theo lối ba chữ để nêu rõ vì sao Phật là Phật, Khổng, Lão và Phật tuy giống nhau nhưng chẳng giống nhau, Phật và Khổng, Lão tuy khác nhau nhưng chẳng khác nhau. Do con người chưa xem kinh Phật thì không những chẳng biết Phật mà cũng chẳng biết Nho. Đã xem kinh Phật, mới thật sự biết Nho. Vừa xuất thế vừa lo toan cõi đời, vừa tiêu cực vừa tích cực. Tâm pháp nhà Nho, nhà Phật một mực thông suốt. Lại còn trình bày đại lược những điểm quan trọng trong lịch sử đạo học, ngõ hầu mở toang rào giậu, cùng trở về đại đồng. Môn nhân là Tề Dụng Tu đã đặc biệt soạn “tiên chú” (lời chú giải đại lược) để người đọc đều hiểu. Đến năm Dân Quốc 20 (1931), ấn hành lưu truyền trong đời, Quang từng viết lời tựa. Nay môn nhân là Du Hữu Duy do thấy bản chú giải của ông Tề quá đại lược, kẻ chưa đọc kinh Phật và các sách vở Nho giáo sẽ khó thể thấu triệt, do vậy, bèn viện dẫn kinh luận để [diễn giải] thông suốt, lợi ích không thể kể xiết. Nếu chịu nghiên cứu, ắt mong thâm nhập, từ đấy tuân theo lời Khổng - Mạnh dạy để duy trì thế đạo, tu pháp của Như Lai để triệt chứng tự tâm, ắt sẽ tuân giữ lòng dè dặt kinh sợ tu trì “ba điều phản tỉnh” , vâng lãnh “bốn điều đừng” , để chẳng thẹn vì phải ẩn giấu những điều nhỏ nhặt, Ngũ Uẩn rỗng rang, chẳng lập mảy trần, tịnh sáu căn, lìa trọn các tướng, đạt thẳng đến chỗ trở về chỗ “không có gì để đạt được” thì mới đắc Bồ Đề viên mãn, làm bậc trượng phu điều ngự, làm đạo sư cho trời người, đều do lấy những điều này làm nền tảng vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 32 - Lời tựa cho tác phẩm Chánh Học Khải Mông Tam Tự Tụng Du Chú (1938) Cư sĩ Giang Dịch Viên* ở Vụ Nguyên xưa đã trồng cội đức, phẩm đức cao cả, học vấn ưu tú, thoạt đầu chuyên đề cao Trình - Châu, chẳng biết Phật là người như thế nào; về sau, do đã từng trải sâu xa, tri kiến câu nệ dần dần tiêu tan, thử đọc kinh Phật mới biết giống như lên non Thái, nhìn khắp bốn phương, tâm thần thông suốt, vui sướng không chi ví được, mới biết tiên Nho do tri kiến môn đình khiến cho hậu thế chẳng được hưởng lợi ích nơi pháp, đau tiếc khôn cầm. Vì thế, ẩn cư ở quê nhà, noi theo tu trì; người trong cả làng đều được ông giáo hóa. Lại mong khơi gợi, dẫn dắt cho thế hệ tương lai, mong sao họ được hưởng lợi ích thật sự. Do vậy bèn soạn bài tụng [mỗi câu gồm] ba chữ, lược thuật ý chỉ lớn lao vì sao Nho, Phật lập giáo giác ngộ cõi đời và những nét chánh về [hành trạng] của chư tử trong lịch sử, ngõ hầu người học chẳng bị lầm lạc bởi những lời lẽ mang tính chất môn đình của người xưa, để đều cùng trọn hết luân thường học Nho, tận hết tánh học Phật, lo toan cõi đời hay xuất thế đều gộp thành một việc. Sáng tỏ Minh Đức để ở yên nơi chí thiện, không trụ vào đâu mà sanh tâm, chẳng chấp một pháp nào, tu trọn các điều lành, vĩnh viễn lìa khỏi bốn tướng, phô trọn vạn đức, chứng pháp sẵn có trong tâm ta, kế tục đạo Như Lai đã đắc, xa là thỏa thích bổn hoài của tiên thánh, gần là bù đắp cho lỗi lầm của Tống Nho. Công đức ấy thật chẳng cạn cợt! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 31 - Lời tựa cho tác phẩm Chánh Học Khải Mông Tam Tự Tụng Tề Chú (1931) Điều đáng tiếc là Tống Nho hẹp lượng! Do học Phật pháp, họ hiểu được tâm pháp của thánh nhân, nhưng muốn suy tôn Nho giáo bèn ngược ngạo bài bác Phật pháp. Thật ra, về căn bản, họ bài bác là vì muốn cho con người thành ý chánh tâm, trọn hết tình nghĩa, bổn phận; nhưng nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo chính là thật lý, thật sự trong thiên hạ xưa nay. Nếu con người biết điều này, há có dám trái tâm nghịch lý để chuốc lấy tội lệ đến nỗi tương lai bị đọa vào chỗ chẳng vừa ý, ắt sẽ tự nhiên chánh tâm, thành ý, trọn hết tình nghĩa, bổn phận! Tống Nho nói: “Phật dùng nhân quả báo ứng, luân hồi sanh tử để dụ dỗ, mê hoặc kẻ ngu tục, chẳng biết con người do bẩm thụ khí trời đất mà sanh, đến khi đã chết rồi, hình hài đã mục nát, thần hồn cũng phiêu tán. Dẫu có hình phạt, lấy gì để thi thố đây?” Họ lầm lạc tưởng chết đi là diệt mất vĩnh viễn, trở thành đại tà kiến. Từ một truyền ra nhiều, di hại cho đời sau, rất trái nghịch đạo “nguyên thủy phản chung, cố tri sanh tử chi thuyết ” (truy xét đến tận nguồn gốc ban đầu cho nên hiểu được lời nói về sanh tử) và ý nghĩa “tinh khí vi vật, du hồn vi biến, cố tri quỷ thần chi tình trạng ” (tinh khí là vật, du hồn biến đổi; từ đó biết được tình trạng của quỷ thần) của thánh nhân. Do vậy, phường gian tà dám làm ác, vì hễ chết đi sẽ vĩnh viễn diệt mất, Nghiêu hay Kiệt đều chết sạch cả, sao còn khư khư giữ chừng mực, chịu đựng ràng buộc, đến nỗi uổng công nhọc nhằn cả đời, sao không buông lung tình ý, mặc lòng thích gì cứ làm để hưởng hạnh phúc tự do tự tại ư? Do đấy, thiện không có gì để khuyên, ác chẳng có gì để phạt, đây - kia bắt chước nhau đến nỗi trở thành hiện tượng phế bỏ kinh điển, phế bỏ luân thường. Trong ý bọn họ (tức bọn Tống Nho), cứ sợ đề xướng nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi, con người đa số sẽ theo về đạo Phật, nên mới đặc biệt xướng ra chuyện bài xích để ngăn chặn hòng con người không cách nào tiến nhập đạo Phật được, ngõ hầu Nho Giáo hưng thịnh, vĩnh viễn không bị suy sụp. Nào biết là ngược lại khiến cho đạo thánh nhân do vậy bị diệt mất, chẳng đáng buồn ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 31 - Lời tựa cho tác phẩm Chánh Học Khải Mông Tam Tự Tụng Tề Chú (1931) Con người cùng một cái tâm này, tâm cùng một lý này, chúng sanh và Phật chẳng hai, thánh - phàm như một. Thánh nhân đạo Nho đạo Thích là những bậc đã thấu hiểu “tâm của chúng ta giống hệt như nhau” trước hết, thương xót chúng sanh vì mê hoặc nên chưa ngộ được [lý ấy], chưa thụ dụng được. Do vậy, mỗi vị đều lưu lại ngôn giáo để dẫn dắt, khơi gợi, mong sao ai nấy đều đích thân chứng được lý đó. Lại còn dùng tiên giác để giác kẻ hậu giác. Nhưng đạo Nho chú trọng cách xử thế nên chú trọng giảng về luân thường, đối với lý tột bực về tâm tánh bất quá chỉ trình bày đại lược đầu mối mà thôi! Nếu có thể nghiên cứu Phật học đến tột cùng, hễ có sở ngộ, lãnh hội thì ngay trong luân thường xử sự hằng ngày sẽ không một điều nào chẳng thấm đẫm Nhất Chân, đâu đâu cũng gặp nguồn. Vì thế, xưa nay những vị lập đại công, dựng đại nghiệp, lòng tinh trung chói lòa nhật nguyệt, hạo khí lấp trời đất, phần nhiều là do học Phật đắc lực mà ra. Đó gọi là “chẳng biết đến Phật pháp sẽ không thể nào biết đạo Nho được!” Chẳng biết đến cái hay của pháp xuất thế sẽ không có cách nào xử thế trọn vẹn được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 31 - Lời tựa cho tác phẩm Chánh Học Khải Mông Tam Tự Tụng Tề Chú (1931) Sư vân du các phương, nghiên cứu cùng tột kinh luận, mới biết pháp môn Tịnh Độ quả thật là biển pháp rất sâu để chư Phật, chư Tổ tự lợi, lợi người rốt ráo, hết thảy các pháp, không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp này, không pháp nào chẳng quy hoàn pháp này. Do vậy, sanh lòng tin chân thật, tận lực tu trì để mong được vãng sanh ngay trong đời này hòng thỏa ý nguyện ban đầu, lúc nhàn hạ bèn nêu tỏ những lý cốt yếu của Thiền và Tịnh, lời lẽ đích xác, thiết thực, khiến người khác tỉnh ngộ sâu xa, đặt tên Thiền Tịnh Song Úc (Thiền và Tịnh cùng ra công gắng sức). Tuy đề xướng Thiền Tông, nhưng thật ra chú trọng Tịnh Độ ngõ hầu người đã ngộ chứng lẫn kẻ chưa ngộ chứng đều cùng được liễu thoát ngay trong đời này. Bạn của Sư là đại sư Đức Sâm muốn ấn hành lưu truyền, cậy tôi thẩm định và thuật những ý nghĩa cốt yếu; do vậy, bèn thâu tóm những ý nghĩa quan trọng để giãi bày. Điều đáng tiếc là văn tự lẫn ý nghĩa [của hai cuốn sách ấy] hơi sâu, kẻ sơ cơ thông thường chưa thể vừa đọc đã hiểu rõ được ngay, nhưng sách tiếp dẫn kẻ sơ cơ rất nhiều, nên điều này vẫn chưa phải là điều đáng ân hận vậy. Tuy thế, sách này cũng có thể khiến cho kẻ tham thiền nhưng chưa ngộ chứng sẽ có được đạo để hoàn tất ngay trong đời này, có ích cho kẻ tu Thiền lớn lắm. Nguyện những ai thấy nghe đều cùng sanh lòng tin tưởng. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 30 - Lời tựa lưu thông cho bản in gộp chung hai sách Phật Tổ Tâm Đăng và Thiền Tịnh Song Úc (1931) Phiền Hoặc hết sạch đương nhiên sẽ giải thoát. Người đã ngộ đã chứng nhưng chưa đạt đến mức cùng cực, nếu không có pháp môn Tịnh Độ che chở, nhiếp trì thì những hành nhân ấy lại phải thọ sanh, kẻ bị chìm đắm thì nhiều mà kẻ tấn tu thật ít! Cảm ân đức của Phật khiến con người khôn ngăn nghẹn ngào ứa lệ! Đại sư Liễu Nhiên túc căn sâu dầy, từ lúc mới xuất gia bèn dốc chí nơi Tông thừa, nhọc nhằn tận lực tham cứu, lãnh hội được chỗ chỉ quy. Do những bài kệ của Thất Phật và ba mươi ba vị Tổ của Tây Trúc, Đông Chấn (Trung Hoa) văn sâu nghĩa thẳm, thật khó thể lãnh hội, Sư bèn chú thích rõ ràng, thêm vào một vài câu chữ khiến ý nghĩa càng được sáng tỏ, bèn đặt tên là Phật Tổ Tâm Đăng. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 30 - Lời tựa lưu thông cho bản in gộp chung hai sách Phật Tổ Tâm Đăng và Thiền Tịnh Song Úc (1931) Pháp khiến cho họ được ngộ, không chi hơn tham Thiền, tức [tham cứu] điều thường được gọi là “thấy được bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra” nhằm dạy con người hướng về lúc trước khi dấy lên ý niệm để đích thân thấy được chủ nhân ông. Nếu có thể thấy triệt để thì gọi là Ngộ; nhưng phiền não chưa đoạn thì vẫn chẳng thể thoát khỏi luân hồi y như cũ! Nếu có thể đoạn hết sạch Phiền Hoặc thế gian thì mới vượt khỏi được ba cõi. Do vậy, biết rằng Chứng là chuyện lớn lao, chẳng dễ dàng gì! Vì thế, chẳng thể không nương vào tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương để mong cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh! Suy nghĩ chín chắn nghĩa này, sẽ biết Như Lai đặc biệt mở ra một môn Tịnh Độ chẳng phải chỉ để tiếp dẫn riêng hạng hành nhân tầm thường mà thật ra còn nhằm bảo vệ những người đã có ngộ chứng trong Tông, trong Giáo, nhưng chưa đạt đến mức “phàm tình lẫn thánh kiến đều bất khả đắc”. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 30 - Lời tựa lưu thông cho bản in gộp chung hai sách Phật Tổ Tâm Đăng và Thiền Tịnh Song Úc (1931) Tâm đăng của Phật - Tổ thường luôn sáng ngời. Lý tột cùng Thiền -Tịnh tràn ngập pháp giới, ai nấy đều sẵn có, cần chi phải tán dương? Do vì kẻ chưa hiểu rõ mà phải ghi chú tỉ mỉ bên dưới! Kinh Phạm Võng dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh”. Lại nói: “Ngươi là Phật sẽ thành, ta là Phật đã thành”. Trong kinh Pháp Hoa, Thường Bất Khinh Bồ Tát trông thấy tứ chúng đều lễ bái thưa: “Tôi chẳng dám khinh quý ngài, quý ngài đều sẽ thành Phật”. Trong hội Hoa Nghiêm, khi đức Như Lai thành Đẳng Chánh Giác, than rằng: “Lạ thay! Hết thảy chúng sanh đều có đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng, chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí sẽ được hiện tiền”. Do vậy biết chúng sanh về bản thể là Phật, nhưng vì mê muội nên chưa ngộ, hoặc ngộ nhưng chưa chứng, nên chẳng thể tránh khỏi vẫn là chúng sanh! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 30 - Lời tựa lưu thông cho bản in gộp chung hai sách Phật Tổ Tâm Đăng và Thiền Tịnh Song Úc (1931) Cư sĩ Vương Bác Khiêm túc căn sâu dầy, tâm cứu đời tha thiết, lại còn là chủ bút một tờ báo, nắm mấu chốt thao túng ngôn luận, muốn khiến cho mọi người cùng hàng đều cùng học Phật. Do kinh luận, trước thuật Phật giáo văn sâu nghĩa thẳm, dẫu là văn nhân sẵn đủ trí huệ nghiên cứu lâu ngày vẫn khó thể hiểu được mấu chốt để bước vào chỗ sâu thẳm, huống hồ ngu phu ngu phụ ư? Do vậy, ông ta đem những lý chính mình đã thấy soạn thành Học Phật Thiển Thuyết (những lời bàn nông cạn về sự học Phật) gồm hai mươi thiên, nhất loạt dùng những chữ nghĩa thông tục, nhưng những lời lẽ ấy vốn đều xuất phát từ kinh luận của Phật, Tổ, chẳng qua mượn lối văn đơn sơ, rõ ràng để trình bày, mong sao người nhã kẻ tục cùng xem, trí hay ngu đều thấu hiểu vậy! Do Quang hình tích tuy khác, nhưng chí đạo vốn đồng, [ông Bác Khiêm] đã trống lòng hỏi xuống , đem bản thảo gởi cho xem, lầm lạc cậy Quang giám định, sửa chữa để tiện lưu truyền. Do vậy bèn đọc kỹ càng, khôn ngăn hoan hỷ, bày tỏ nỗi lòng ngu độn để tỏ sự đồng ý. Nguyện khắp những người đọc đều sanh lòng tin, bao nhiêu lợi ích sẽ tự chứng biết. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 29 - Lời tựa sách Học Phật Thiển Thuyết (1924) Gần đây, thế đạo nhân tâm suy hãm đã đến cực điểm, đua nhau đề xướng cách thức mới, vứt bỏ đường lối cũ. Ngay như cả mối quan hệ cha - con, vợ - chồng họ còn muốn đạp đổ, huống chi những mối quan hệ nhỏ hơn ư? Vì thế, thiên tai, nhân họa liên tục giáng xuống, vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống! Những người có tâm lo cho thế đạo muốn cứu vãn, đều khuyên khắp mọi người nghiên cứu Phật học, kiêng giết, phóng sanh, ăn chay, niệm Phật, đừng làm các điều ác, vâng giữ những điều lành, từ một truyền mười, từ mười truyền trăm, cho đến ngàn, đến vạn, không ai chẳng ngả theo chiều gió mong sao thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui. Đây quả thật là pháp luân căn bản để dứt đời loạn, vãn hồi vận nguy, uốn nắn thế đạo lòng người vậy. Đang trong thời này, nếu chẳng dùng nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi để dạy dỗ, dù thánh hiền đều cùng xuất hiện trong cõi đời cũng chẳng biết phải làm như thế nào! Nếu chẳng lấy tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương để tu, dẫu là kẻ thiên tư cao thượng cũng khó lòng đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 29 - Lời tựa sách Học Phật Thiển Thuyết (1924) Do chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng chưa dễ gì tiêu trừ, nên Phật đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ tín nguyện niệm Phật để hết thảy dù phàm hay thánh, dù ngu hay trí, đều cùng nương vào hoằng thệ nguyện lực của đức Di Đà vãng sanh Tây Phương hòng khôi phục tâm tánh sẵn có, thành vô thượng Bồ Đề dễ dàng. Từ khi Phật pháp được truyền vào Chấn Đán (Trung Hoa), hơn một ngàn tám trăm năm qua, phàm là bậc vua thánh, tôi hiền, vĩ nhân, danh sĩ, không ai chẳng tuân phụng lời Phật dặn dò mà hộ trì, lưu truyền, bởi lẽ Phật pháp tuy thuộc pháp xuất thế, nhưng tất cả đạo xử thế trong cõi đời đều được bao gồm chẳng sót. Phàm những gì Phật pháp đã nói về cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành đều chẳng khác gì với những điều thánh nhân thế gian đã nói. Thánh nhân thế gian chỉ dạy dỗ con người trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận, còn đức Phật dạy rõ báo ứng thiện - ác của việc trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận và không trọn hết tình nghĩa, không trọn hết bổn phận. Trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận thì chỉ có thể dạy bậc thượng trí; còn nếu là kẻ bẩm tánh ương bướng, kém cỏi, nếu không giả vờ làm, ắt sẽ chống trái. Nếu biết báo ứng thiện - ác thì muốn làm lành ắt sẽ gắng sức, muốn làm ác ắt chẳng dám làm. Đối với những pháp nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo do đức Như Lai đã nói, kẻ sâu sắc sẽ thấy là sâu sắc, kẻ nông cạn sẽ thấy là nông cạn. Dùng những pháp ấy để tu tâm sẽ có thể đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử. Dùng những pháp ấy để giữ yên cõi đời sẽ thắng được tàn bạo, bỏ được giết chóc, bỏ sự bạc ác trở thành thuần lương. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 29 - Lời tựa sách Học Phật Thiển Thuyết (1924) Phật pháp rộng sâu như biển cả, chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu tột nguồn đáy. Chín pháp giới kia dù thánh - phàm, lợi - độn khác nhau, ai nấy đều tùy theo khả năng của chính mình để tu tập hòng chứng nhập. Ví như Tu La, hương tượng và muỗi mòng uống nước biển cả, mỗi loài uống no bụng rồi đi. Nếu muốn một hơi hút cạn hết, trừ phi là kẻ có dung lượng bằng biển cả mới làm được. Nếu không, chỉ có thể đích thân nếm vị nước biển, chưa dễ gì thấu tột nguồn đáy được! Nhưng Phật pháp chính là pháp sẵn có trong tâm của hết thảy chúng sanh, ngoài cái tâm của chúng sanh ra, trọn chẳng có pháp nào thêm vào được vì bản thể của tâm hết thảy chúng sanh và tâm Phật chẳng hai! Nhưng do mê muội chưa ngộ, bèn khởi Hoặc tạo nghiệp, theo nghiệp chịu khổ, đến nỗi trí huệ đức tướng sẵn có nơi cái tâm ấy bị phiền não, ác nghiệp che lấp giống như mây phủ kín mặt trăng, chẳng thấy được tướng sáng. Tuy chẳng thấy được tướng sáng, nhưng tướng sáng của mặt trăng vẫn tự thường chẳng biến đổi, trọn chẳng bị giảm suy. Do vậy, đức Như Lai khởi lòng Từ vô duyên, vận lòng Bi đồng thể, tùy thuận cơ nghi thuyết pháp. Tuy tùy theo căn cơ đặt ra Đại, Tiểu, Quyền, Thật, Thiên, Viên, Đốn, Tiệm, đủ mọi thứ sai khác, nhưng bổn ý của đức Phật không lúc nào chẳng nhằm làm cho hết thảy chúng sanh đều trái trần hiệp giác, bỏ mê về với ngộ, thoát khỏi sanh tử huyễn vọng, thành tựu Phật đạo vốn sẵn có mới thôi! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 29 - Lời tựa sách Học Phật Thiển Thuyết (1924) Cư sĩ Chánh Định Vương Khắc Am là một vị ẩn sĩ vào đời Thanh xưa kia, do cõi đời đang trong thuở Mạt, khó thể thân cận thánh hiền, không thể do đâu mà bắt chước theo khuôn phép được, hạng người bình thường lại chẳng thể lãnh hội những lời lẽ trong sáu kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử. Do vậy, bèn chọn lọc những lời dạy trong Cảm Ứng Thiên, Âm Chất Văn, Công Quá Cách… và những lời lẽ tốt lành về hiếu thảo cha mẹ, kính trọng bậc trưởng thượng, giữ thân, xử thế, sửa lỗi hướng thiện từ những trước tác của những bậc hiền triết xưa nay, biên soạn thành một tập sách, tổng cộng gồm mười bốn môn. Đầu tiên là Minh Tông (nêu rõ tông chỉ), sao lục ba thứ cảm ứng để làm tổng cương (cương lãnh tổng quát), mỗi môn sau đó đều nhằm nêu tỏ ý nghĩa “những khuôn phép nên tuân theo, những điều nên răn dè” thuộc về ba thứ cảm ứng ấy. Nếu người đời sau đọc được cuốn sách này [sẽ giống như] giở cái lưới lên, mọi mắt lưới đều căng ra, gốc đã lập đạo bèn sanh, phàm mỗi lời nói, mỗi hành động không gì chẳng theo đúng khuôn khổ. Giống như vàng lỏng đổ vào cái khuôn tốt đẹp, lẽ đương nhiên phải trở thành món vật đàng hoàng; như giống lúa tốt được đẫm mưa ngọt, chắc chắn mùa màng bội thu. Thiện quả thế gian đã đạt được thì ai chịu vạch đất tự hạn chế, chẳng chịu chăm chú tu trì pháp môn Tịnh Độ để mong chứng trọn vẹn giác tánh ấy, để trở thành vô thượng đại giác trong thế gian lẫn xuất thế gian ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 28 - Lời tựa cho bộ Giác Hậu Biên (1929) Khổng Tử nói: “Tánh tương cận dã, tập tương viễn dã” (Tánh thì gần giống như nhau, nhưng do rèn luyện mà thành khác xa nhau). Tánh chính là bản thể của Giác, Tập chính là công dụng của Giác. Tánh thì phàm - thánh, chúng sanh - Phật trọn chẳng khác nhau, nên nói “tương cận”, cũng giống như nói: “Nhân đồng thử tâm, tâm đồng thử lý” (con người có cùng một cái tâm này, tâm có cùng một lý này). “Tập” thì có thuận tánh, nghịch tánh sai khác. Thuận theo tánh thì suy tư, nẩy sanh ý niệm, xử sự đều tự có thể nén giận, khắc chế được ham muốn, dứt lòng tà, giữ lòng thành. Cho đến khi nhân dục hết sạch, thiên lý thông suốt, sẽ khôi phục trọn vẹn giác tánh nơi bản thể, cho đến trở thành hiền thành thánh, vượt ra ngoài điều mong đợi lúc ban đầu. Người như thế gọi là Giác Giả. Người đã giác ngộ trước (tiên giác) đem điều chính mình đã giác để giác ngộ kẻ chưa giác, khiến cho họ đều cùng được giác, khiến cho những kẻ chưa giác sau đấy mỗi mỗi đều giống như bậc tiên giác vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 28 - Lời tựa cho bộ Giác Hậu Biên (1929) Công Quá Cách viết theo thể văn xuôi, chẳng thuận tiện tụng thuộc. Cảm Ứng Thiên, Âm Chất Văn thật sự là cội nguồn của Công Quá Cách; vì thế, cung kính chép vào đầu sách để mong sao sáng chiều tụng đọc, chiếu rọi lẫn nhau, ngõ hầu ba nghiệp thanh tịnh, một dạ thuần thành, chuyên dốc, hòng đấng sanh ra ta khỏi thẹn, hành vi trở thành mẫu mực cho cõi đời. Do vậy, thế pháp lẫn Phật pháp một bề cùng tu, thành tựu chính mình, thành tựu người khác, trọn chẳng sai biệt. Trước là kế thừa bậc thánh đời trước, sau là mở mang nếp học cho người sau, tán trợ quyền sanh trưởng, giáo hóa của [trời đất], giúp cho đất nước yên lành, đều do những lời lẽ tầm thường, hành vi tầm thường ấy mà đạt được! Nếu bỏ đi những điều này chẳng thực hành, cầu lấy pháp huyền diệu nào khác, dẫu cho sở đắc lớn lao vẫn chỉ có thể lợi lạc cho hạng căn tánh nào đó mà thôi, huống chi là kẻ chuyên chuộng bàn suông [mà hòng được lợi ích] ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 27 - Lời tựa cho bản in gộp chung hai sách Tịnh Độ Vấn Biện và Công Quá Cách (1929) Cổ nhân nói: “Tử sanh diệc đại hỹ, khả bất bi tai!” (Chết - sống cũng lớn thay, chẳng đáng buồn ư?) Biết chết - sống đáng buồn, hãy nên cầu lấy pháp có thể liễu được sanh tử thì chuyện đáng buồn sẽ biến thành đáng vui. Nếu chẳng cầu pháp liễu sanh tử, sanh lòng bi cảm suông, có ích chi đâu? Đại trượng phu sống trong thế gian, không chuyện nào chẳng tính toán sẵn, nhưng chỉ có mỗi một chuyện sanh tử đa số đều ngược ngạo bỏ mặc không hỏi tới, mãi cho đến khi báo hết mạng tận phải theo nghiệp chịu báo, chẳng biết một niệm tâm thức này sẽ lại đi thọ sanh trong đường nào! Cõi trời người là quán trọ, tam đồ là quê nhà! Mỗi lần thọ báo trong tam đồ là trăm ngàn kiếp, trọn chẳng có dịp nào lại được sanh trong cõi trời người! Do vậy nói rằng: “Đương nhiên không thể nào không miệt mài cầu tìm pháp liễu sanh tử!” Phải biết: Pháp môn vô lượng, nhưng đều phải dùng tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân thì mới có phần liễu sanh tử, nên chúng sanh đời Mạt hơi khó thể được lợi ích thật sự ngay trong đời này. Chỉ có tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương thật là bậc nhất, do cậy vào Phật từ lực nên dẫu là kẻ chưa đoạn được Hoặc nghiệp vẫn có thể thoát khỏi cõi Sa Bà này, lên cõi Cực Lạc kia. [Pháp môn Tịnh Độ] quả thật là một sự nương tựa lớn lao cho hạng không có sức đoạn Hoặc như lũ chúng ta. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 27 - Lời tựa cho bản in gộp chung hai sách Tịnh Độ Vấn Biện và Công Quá Cách (1929) Cư sĩ Lý Viên Tịnh vốn dựa theo bốn kinh Tịnh Độ [3 Kinh Tịnh Độ và Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm] và ý tứ từ những trước thuật của cổ đức, dùng lối văn nói (Bạch Thoại) để xiển dương Tịnh tông. Tuy [nội dung sách] được chia thành mười môn, lời văn gần đến một vạn chữ, nhưng mỗi chữ mỗi nghĩa đều xuất phát từ kinh Phật hay lời Tổ, trọn chẳng tự lập ý kiến để tự khoe khoang đến nỗi mắc lỗi “lầm người, hoại pháp”! Do thấy [sách này] có ích cho kẻ sơ cơ, Phật Học Thư Cục đặc biệt xếp nó vào loại tiểu tùng thư để sách được lưu truyền rộng rãi. Nay lại in riêng theo lối chữ Tam Hiệu Đại Tự để những người lớn tuổi mục lực suy yếu chẳng bị khó đọc. Lại cậy Quang viết lời tựa dẫn giải hòng khơi gợi chánh tín. Những nghĩa trọng yếu khác trong sách đã tự có đủ, không cần phải rườm lời! Phải biết pháp môn Tịnh Độ là biển pháp để hết thảy các pháp đổ về. Nếu ai tin được như thế, người ấy liền có thể cao đăng chín phẩm ngay trong đời này, tương lai chắc chắn viên mãn Tam Giác . Có kẻ cho lời ấy nói quá lố, tôi thưa: “Tội lỗi này tôi đâu dám gánh vác, đã có Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật và A Di Đà Phật gánh chịu rồi!” - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 26 - Lời tựa sách Tịnh Độ Thiên (1931) Pháp môn Tịnh Độ thích hợp khắp ba căn, đối với người tại gia lại càng khẩn yếu; vì người tại gia ai nấy đều có công việc, chẳng dễ gì tham cứu những pháp như Thiền, Giáo v.v… được! Chỉ có pháp Niệm Phật này là khế lý, khế cơ nhất. Thật thà cắm cúi niệm Phật, niệm đến lúc nghiệp tận tình không thì “bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra”, Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh thảy đều tỏ lộ trọn vẹn sát sao. Đến khi lâm chung, chắc chắn lên Thượng Phẩm. Nếu như căn cơ kém hèn chưa thể nghiệp tận tình không, nhưng do lòng thành tin tưởng chân thật, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, ắt sẽ có thể cảm ứng đạo giao với Phật, đích thân được Phật tiếp dẫn, liền được đới nghiệp vãng sanh. Tịnh Độ mầu nhiệm chính là ở chỗ này đây! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 26 - Lời tựa sách Tịnh Độ Thiên (1931) …Chúng sanh đời Mạt chướng sâu, huệ cạn, nếu chẳng cậy vào Phật lực, thật khó thể giải thoát, bởi một pháp Niệm Phật chính là pháp môn vô thượng thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh; so với hết thảy những pháp cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân hòng liễu sanh tử thì khác biệt một trời, một vực! Lại muốn cho sơ cơ hành nhân biết sâu xa nguyên do của các pháp môn, hai chúng tại gia trong cuộc sống hằng ngày và trong luân thường có thể dung thông cả Chân lẫn Tục, trọn hết cả Phật lẫn Nho, nên bèn in kèm theo Cảm Ứng Thiên, Âm Chất Văn, Giác Thế Kinh và những khai thị về tu trì Tịnh Độ để làm quy củ, chuẩn mực hòng cải ác hướng thiện, hướng lành tránh dữ, siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, ngõ hầu ngay trong đời này liền vượt ra ngoài tam giới lục đạo, vào thẳng chín phẩm sen bảy báu. Nguyện những người tu đều cùng ra sức chú ý. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 25 - Lời tựa cho cuốn Nhật Tụng Kinh Chú Tuyển Lục (1929) Phật pháp không gì lớn lao chẳng bao trùm, không điều nhỏ nhặt nào chẳng được nêu lên, chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo. Bậc Đăng Địa Bồ Tát vẫn chưa thể thấu hiểu triệt để đến tột nguồn tận đáy được, huống là phàm phu sát đất đầy dẫy Hoặc nghiệp ư? Nhưng rút lấy những ý nghĩa trọng yếu [trong giáo pháp nhà Phật] thì chỉ là mong sao [chúng sanh] hiểu rõ tự tâm, chứng Phật tánh triệt để. Muốn hiểu rõ tự tâm để chứng Phật tánh, ắt phải dùng Giới để trói buộc cái thân, dùng Định để dứt vọng, dùng Huệ để đoạn Hoặc ngõ hầu có thể tự thoát khỏi sanh tử huyễn vọng, chứng Niết Bàn chân thường. Về thứ tự tu trì thì nên lấy việc mở mang tri kiến của chính mình để dẫn đường, dùng Tín - Nguyện - niệm Phật làm Chánh Hạnh, lấy vạn thiện trang nghiêm làm Trợ Tu. Vì thế, [sách này] xếp Kim Cang Kinh lên đầu, [rồi đến] Tâm Kinh, Quán Thế Âm Phổ Môn Phẩm, Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương, A Di Đà Kinh, Vãng Sanh Chú, Niệm Phật Khởi Chỉ Nghi (nghi thức niệm Phật), Phát Nguyện Văn, và các chú Đại Bi, Chuẩn Đề, hoặc kiêm trì các thứ, hoặc chuyên trì một thứ đều nhằm để giúp cho sự tu trì Tịnh nghiệp ngõ hầu triệt ngộ “Ngũ Uẩn vốn là không, các pháp chẳng có tướng”, hành khắp muôn hạnh nhưng chẳng thấy tướng năng hành, chuyên chí niệm Phật mà hiểu rõ “tâm làm, tâm là”. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 25 - Lời tựa cho cuốn Nhật Tụng Kinh Chú Tuyển Lục (1929) Do ông Lý Viên Tịnh xin tu chỉnh, tôi bèn cậy cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh xem xét, hiệu đính, nhờ thầy Đức Sâm biên tập. Sách đã hoàn thành (hết thảy nhân duyên thành tựu, trong lời bạt của thầy Đức Sâm nơi quyển cuối đã nêu cặn kẽ, ở đây không nhắc lại nữa). Do vậy, trình bày đại lược lòng đại từ bi sâu xa của Bồ Tát hòng người thấy kẻ nghe ai nấy đều sanh chánh tín, ngõ hầu cậy vào từ lực của Bồ Tát thoát khỏi nỗi khổ huyễn vọng, được sự vui rốt ráo. Nhân đó, bèn tán rằng: Đại Sĩ thệ nguyện há thể lường, Lòng bi trọn khắp cõi vô ương, Chúng sanh độ hết mới xong thệ, Địa ngục trống rồi nguyện mới thôi. Giáo hóa nhiều người thành Phật đạo, Tự thân vẫn hiện tướng Thanh Văn, Chúng sanh và Phật tánh vốn một, Cùng muốn ta người chứng Pháp Vương - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 24 - Lời tựa tu chỉnh Cửu Hoa Sơn Chí (1937) Bồ Tát [Địa Tạng] thị hiện giáng sanh tại nước Tân La vào đời Đường (Trước thời Đường Cao Tông, vốn có ba nước Cao Câu Ly, Tân La, Bách Tế riêng biệt. Đường Cao Tông diệt Cao Câu Ly, đất đai của Bách Tế đều gộp vào nước Tân La, hợp thành một nước. Thời Ngũ Đại, Vương Kiến kế thừa [nước Tân La], đặt quốc hiệu là Cao Ly. Từ đầu đời Minh đến nay, đặt tên nước là Triều Tiên. Người ta thường cho Tân La chính là Tiêm La , thật lầm vậy), dòng dõi nhà vua, họ Kim, tên Kiều Giác, đến năm Vĩnh Huy thứ tư (653) đời Đường Cao Tông, Sư đến núi Cửu Hoa, sự khổ hạnh tu tập của Ngài trong cõi đời không ai hơn được. Thức giả coi Ngài là Địa Tạng thị hiện, xin coi chi tiết trong Sơn Chí, ở đây không cần phải viết nhiều. Nhưng những kẻ câu nệ, hẹp hòi, chẳng biết hành trạng phân thân ứng hóa trong cõi nước nhiều như số vi trần của Bồ Tát, thường nói vị Địa Tạng này chẳng phải là Địa Tạng trong kinh [Địa Tạng Bồ Tát] Bổn Nguyện. Nếu vậy thì cũng có thể nói Bố Đại Hòa Thượng chẳng phải là Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Bồ Tát hay sao? Núi này kể từ khi được Bồ Tát kiến lập đạo tràng trở đi, sau nhiều năm tháng sâu xa, bao lượt đổi thay, đến nỗi sách vở thất truyền. Đến thời Gia Tĩnh nhà Minh, mới biên tập Sơn Chí. Từ thời Vạn Lịch, Sùng Trinh [nhà Minh] cho đến Khang Hy, Càn Long, Quang Tự nhà Thanh, trải qua sáu lần [biên soạn Sơn Chí] đều do triều đình chủ trì, do Nho sĩ biên tập. Đối với lòng hoằng từ đại bi của Bồ Tát, ý nghĩa tinh diệu của pháp môn đều chưa nêu tỏ được, nên chẳng khác gì những sơn kinh thủy chí tầm thường, thật đã mất đi ý nghĩa của một đạo tràng vì nước cầu an, vì dân chúc phước nơi danh sơn, nhưng cũng không có câu chữ nào hủy báng Phật pháp. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 24 - Lời tựa tu chỉnh Cửu Hoa Sơn Chí (1937) Cửu Hoa Sơn là đạo tràng ứng hóa của Địa Tạng Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát trong vô lượng kiếp trước đã chứng Pháp Thân từ lâu, đã thành Phật đạo, nhưng chẳng ở địa vị Phật. Do phát nguyện “độ hết chúng sanh mới chứng Bồ Đề, địa ngục chưa trống thề chẳng thành Phật”, tâm xót thương chúng sanh chịu nỗi khổ sanh tử sâu đậm, thiết tha không cách nào diễn tả được! Vì thế, khi đức Phật vì mẹ thuyết pháp trên cung trời Đao Lợi, mười phương thế giới chư Phật, Bồ Tát, thiên long bát bộ đều đến dự hội, dẫu dùng Phật nhãn vẫn chẳng thể tính biết được! Những vị Phật, Bồ Tát ấy đều do ngài Địa Tạng giáo hóa nên mới đắc đạo quả, nhưng ngài Địa Tạng vẫn hiện thân dưới hình thức Thanh Văn. Ngoài việc hiện đủ mọi loại thân để thuyết pháp trong mười phương thế giới ra, Ngài lại thường trụ trong chốn u minh khổ sở tột bậc để cứu độ. Mười phương chư Phật, Bồ Tát không vị nào chẳng tán thán tấm lòng sâu thẳm “hưng lòng Từ, vận lòng Bi” của Ngài. Đại sư Ngẫu Ích vừa đọc kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện liền phát đại Bồ Đề tâm, do đức Địa Tạng là thầy của chư Phật, là mẹ của các Bồ Tát vẫn còn miệt mài chuyên chú độ bọn ta, nếu [bọn ta] chẳng coi “ta và người cùng thoát sanh tử” là chí hướng, sự nghiệp thì cô phụ từ ân cũng lớn lắm thay! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 24 - Lời tựa tu chỉnh Cửu Hoa Sơn Chí (1937) Nếu là kẻ mê cực sâu, từ kiếp này sang kiếp khác cũng khó tỉnh ngộ, cho nên chư Phật thệ nguyện “độ thoát chúng sanh đến hết đời vị lai”, những vị Bồ Tát đã chứng Pháp Thân không vị nào chẳng đều như vậy. Những kẻ do tự tư tự lợi bèn báng Phật nếu biết được nghĩa này há chẳng thẹn đến chết ư? Kẻ mê cạn, túc căn sâu xưa nay chẳng thiếu người. Nay nêu lên những trường hợp đặc sắc nhất, như Thừa Tướng Trương Thương Anh đời Tống, cư sĩ Chung Đại Lãng thời Minh*. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 24 - Lời tựa tu chỉnh Cửu Hoa Sơn Chí (1937) Có kẻ mê muội cạn, túc căn sâu xa, vừa nghe lời Phật dạy, liền được liễu ngộ, tin nhận phụng hành. Có những kẻ mê muội sâu xa, túc căn nông cạn, vừa nghe lời Phật dạy, liền ngược ngạo sanh lòng phỉ báng, hoặc còn hủy diệt cho hết sạch chẳng còn sót gì, bởi họ coi Phật là chúng sanh vậy! Dùng cái tâm chúng sanh tham - sân - si của chính mình để suy lường tâm Phật, cho những gì Ngài đã nói đều là những lời dối trá nhằm lừa bịp ngu phu ngu phụ tuân phụng giáo pháp của Phật, hoàn toàn chẳng chân thật, chẳng thể tin cậy được! Nếu tin theo sẽ vĩnh viễn đi vào nẻo mê, không cách gì thoát ra được. Đối với loại chúng sanh ấy, tâm chư Phật trọn chẳng có một niệm vứt bỏ, càng sanh lòng xót thương yêu tiếc gấp bội. Như kẻ mắc bệnh cuồng, đánh chửi cha mẹ, cha mẹ chẳng trị tội mà lòng càng thêm thương xót, biết hắn đã mất bản tâm rồi! Nếu lành bệnh cuồng sẽ tự chẳng mắc lỗi ấy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 24 - Lời tựa tu chỉnh Cửu Hoa Sơn Chí (1937) Do vậy, đặc biệt cầu thỉnh người trước kia đã soạn Quán Âm Bổn Tích Cảm Ứng Tụng, Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ, và Phật Học Cứu Kiếp Biên là một đệ tử quy y ở Bành Trạch tỉnh Giang Tây tức cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh soạn cương yếu. Quang chỉ đảm nhiệm việc cắt xén cho thỏa đáng và ấn hành, còn việc giảo chánh đưa về cho vị hiện đang ở nơi xa lãnh nhiệm vụ Trụ Trì chùa Thọ Lượng ở Cám Châu là pháp sư Đức Sâm và cư sĩ Trần Vô Ngã. Thanh Lương Chí đã in thành sách vào năm ngoái. Nga Mi Chí chẳng bao lâu nữa cũng sẽ cho ấn hành. Cửu Hoa Chí chắc là trong khoảng từ Xuân sang Hạ năm sau sẽ in ra được. Bốn bộ Sơn Chí cũ chỉ có Thanh Lương Chí là hay nhất, kế đến là Phổ Đà Chí, Nga Mi Chí lại kém hơn nữa, Cửu Hoa Chí đứng hạng bét. Ấy là vì ba bộ Sơn Chí đều do hạng Nho sĩ chẳng thông hiểu Phật học sửa chữa, mới đến nỗi mua rương trả lại ngọc , kính trọng lính hầu, khinh mạn chủ nhân, chỉ dốc sức [miêu tả] hình thế núi non huyễn vọng, chẳng hình dung được chỗ Bồ Tát khởi lòng Từ, vận lòng Bi cứu khổ, ban vui. Chú trọng đến núi, chẳng chú trọng vào Phật, làm việc điên đảo. Tuy có Sơn Chí nhưng chẳng thể làm cho người thấy, kẻ nghe tăng trưởng thiện căn, gieo nhân Bồ Đề. Đấy là chỗ ngụ ý sâu xa của bộ Sơn Chí hiện thời, nên tôi trình bày đại lược ý ấy. Nhưng vì chẳng phải là người đích thân trải qua cảnh sắc nơi ấy, nên chẳng thể hỏi han tường tận được, chỉ dựa theo bộ Sơn Chí cũ và các kinh truyện để tra cứu, điều chỉnh. Đối với những bậc danh đức gần đây và những kiến trúc mới đều nhất loạt chẳng ghi thêm vào, để khỏi vướng lỗi sót tên bậc danh đức, bị chê bai “ghi tên một vị để sót cả vạn”. Người sáng mắt hiểu biết ắt sẽ lượng thứ cho! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 23 - Lời tựa bản tu chỉnh Nga Mi Sơn Chí (1934) Chẳng biết: Dẫu [vận dụng] trí huệ của Như Lai hết cả kiếp cũng chẳng thể nói hết đức tướng của ngài Phổ Hiền! Trong tám mươi mốt quyển của bộ kinh Hoa Nghiêm, thần thông, trí huệ, đức tướng, đạo đức, công nghiệp của Phổ Hiền Bồ Tát được phô diễn rõ ràng đến hơn mười quyển! Nếu bỏ công nghiên cứu một chút, há chịu dẫn giải sai lầm! Giống như chỗ Luân Vương ngụ chính là vương đô (kinh thành), chỗ được quang minh chiếu đến sẽ trọn chẳng tối tăm. Do vậy, trong bộ Sơn Chí hiện tại, đặc biệt lập ra một môn gọi là Bồ Tát Thánh Tích. Trong môn ấy, chia thành sáu chương: 1) Một là Thích Danh, [tức phần] giải thích đại lược ý nghĩa danh hiệu Phổ Hiền. 2) Hai là Tu Chứng: Trích lục hai kinh Bi Hoa và Lăng Nghiêm để chỉ rõ nhân địa và công phu tu chứng của Bồ Tát. Theo kinh Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới thì Bồ Tát thành Phật đã lâu, bổn địa của Ngài nếu chẳng phải là Phật sẽ không thể biết được. 3) Ba là Đức Tướng: Trích dẫn đại lược [những đoạn] kinh Hoa Nghiêm xưng tán Bồ Tát thần thông đạo lực chẳng thể nghĩ bàn. 4) Bốn là Pháp Yếu: Nêu đại lược những pháp trọng yếu do Bồ Tát đã nói, nhưng phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện dùng mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực Lạc, khuyên Thiện Tài và khắp Hoa Tạng hải chúng nhất trí tiến hành hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới ngõ hầu viên mãn Phật Quả, đấy chính là chỗ quy túc của kinh Hoa Nghiêm… 5) Năm là Lợi Hành: Trích lục kinh Pháp Hoa, kinh Quán Phổ Hiền Hành Pháp để nêu đại lược những chuyện Bồ Tát bảo vệ, che chở hành nhân. 6) Sáu là Ứng Hóa: Chỉ rõ Bồ Tát chứng trọn cùng pháp giới, tùy loại hiện thân trong mười phương pháp giới, nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy để thuyết pháp. Vì vậy, mười phương pháp giới [chỗ nào] cũng đều có thể là đạo tràng của Bồ Tát; nhưng Ngài muốn cho chúng sanh có chỗ để gieo lòng thành nên mới đặc biệt thị hiện ứng hóa ở núi Nga Mi. Phải biết: Bồ Tát ứng hóa gồm có Phổ và Chuyên. Phổ là đại chúng đều được đích thân trông thấy, Chuyên là chỉ có chính mình tự hiểu rõ trong tâm. Ví như hiện tướng trên chót mây, mọi người đều cùng thấy; [Bồ Tát hiện] tướng đứng với viên quang trùm thân, dẫu có rất nhiều người cùng đứng sát bên nhau nhưng mỗi người mỗi thấy thân [Bồ Tát hiện cho] chính mình, chẳng thấy thân [hiện cho] người khác. Đối với hai điều này, đủ biết Bồ Tát thần thông ứng hiện không ngằn mé; phàm phu, Nhị Thừa chẳng thể suy lường được! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 23 - Lời tựa bản tu chỉnh Nga Mi Sơn Chí (1934) Đức Như Lai ở bên Thiên Trúc, thành Đẳng Chánh Giác tại nước Ma Kiệt Đề, giảng kinh Hoa Nghiêm lần lượt tại bảy chỗ, [tổng cộng] chín hội. Hội đầu tiên được nói tại Bồ Đề Tràng. Hội thứ hai, hội thứ bảy, hội thứ tám đều giảng trong điện Phổ Quang Minh. Điện này cũng nằm trong Bồ Đề Tràng. Phẩm Bồ Tát Trụ Xứ là một phẩm được giảng trong hội thứ bảy. Trước hết, nói đến bốn phương Đông, Nam, Tây, Bắc, rồi đến bốn phương bàng Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc. Thứ tự của các phương vị rạch ròi chẳng loạn. Những kẻ ấy thấy có ba chữ “Quang Minh Sơn” liền tưởng [ngọn núi ở] phía Tây Nam [được nói trong kinh Hoa Nghiêm] ấy chính là Nga Mi của nước Chấn Đán (Trung Hoa), [vì Nga Mi] nằm ở phía Tây Nam Trung Quốc. [Đối với câu kinh] “nay có Bồ Tát tên là Hiền Thắng”, bèn lầm lạc chú thích rằng: “Tức là Phổ Hiền”. Đức Phổ Hiền còn có tên là Biến Cát, chưa hề thấy Ngài còn có tên là Hiền Thắng! Viện dẫn kinh nhưng trái nghịch kinh sâu xa, ấy là muốn làm cho người khác sanh lòng tin lại ngược ngạo khiến cho người ta dấy lòng nghi! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 23 - Lời tựa bản tu chỉnh Nga Mi Sơn Chí (1934) Phổ Hiền Bồ Tát đạo chứng Nhất Chân, đức viên mãn Lưỡng Túc , trụ cõi Tịch Quang, nhưng hưng khởi lòng Từ, vận dụng lòng Bi, phù tá đấng Thiện Thệ dùng quả để tu nhân. Trọn đủ toàn thể của đức Giá Na , thị hiện thuộc địa vị Bổ Xứ, kết quy đại nghĩa Hoa Nghiêm chỉ về Tây Phương. Tuy trọn hết mười phương pháp giới, nhưng không nơi nào chẳng trụ trong chân cảnh. Hòn núi Đại Quang Minh này thật ra là đạo tràng ứng hóa vậy. Xét đến ý nghĩa đặt tên thì chính là vì Phật quang hiện trong ban ngày, thánh đăng xuất hiện trong đêm, xưa nay vẫn thường chẳng hề ẩn diệt cho đến tận đời vị lai hòng khơi gợi quần sanh. Do vậy, núi báu Nga Mi này còn gọi là Đại Quang Minh. Một tên đặt theo hình thế [của núi], tên kia đặt theo thánh tích, cố nhiên chẳng có nhân duyên gì khác, nhưng những kẻ không biết đến đức tướng của Bồ Tát, cứ muốn dựa vào lời kinh để làm bằng chứng rất thuyết phục, bèn lầm lạc dẫn [câu kinh trong] phẩm Bồ Tát Trụ Xứ của kinh Hoa Nghiêm: “Phương Tây Nam có chỗ tên là Quang Minh Sơn, từ xưa đến nay các vị Bồ Tát trụ ở trong đó, hiện đang có vị Bồ Tát tên là Hiền Thắng và các vị Bồ Tát quyến thuộc ba ngàn người cùng thường trụ trong ấy để diễn thuyết pháp”. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 23 - Lời tựa bản tu chỉnh Nga Mi Sơn Chí (1934) Ngũ Đài tuy là đạo tràng của Văn Thù Bồ Tát, nhưng chưa hề thấy khi niệm [danh hiệu] Bồ Tát bèn cất lên lời tán tụng. Mùa Hạ năm nay, một vị sư ở Hoa Nghiêm Lãnh là Tĩnh Thê xin tôi viết một bài tán để nghi thức niệm tụng được đầy đủ, bèn ghép thành tám câu gởi cho thầy ấy. Tán rằng: Văn Thù Bồ Tát đức khôn lường, Quá khứ thành Phật Long Chủng Thượng, (Long Chủng Thượng Phật chính là danh hiệu khi ngài Văn Thù thành Phật trong một đời thuộc quá khứ. Long Chủng Thượng Tôn Vương trong Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh lại là một đức Phật khác, chẳng thể lầm lẫn dùng làm dẫn chứng được!) Do thương chúng sanh mê tự tánh, Riêng giúp Thích Ca mở đạo huyền, Thầy bảy vị Phật thể khôn thấu, Mẹ chư Bồ Tát dụng khôn ngằn, Thường trụ Tịch Quang ứng mọi cảm, Muôn sông trăng hiện bóng muôn gương - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 22 - Lời tựa cho bản tu chỉnh Thanh Lương Sơn Chí (1933) Mùa Xuân năm ngoái, một đệ tử là Lý Viên Tịnh nói: - Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Địa Tạng, bốn đại Bồ Tát quả thật là chỗ nương cậy cho hết thảy chúng sanh. Thầy ở tại Phổ Đà từng thỉnh cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh soạn Quán Âm Bổn Tích Tụng, nêu rõ ân sâu đức nặng của ngài Quán Âm thật là chu đáo! Thầy lại còn sửa chữa bản Phổ Đà Chí do ông Vương Nhã Tam đã tu chỉnh, sao chẳng đem Sơn Chí của Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa tu chỉnh đúng theo lệ ấy? Huống chi Thanh Lương Chí không thỉnh ở đâu được, nhưng thể tài còn khá, chứ Nga Mi Chí thì chỉ chú trọng đến thế núi, vẫn chẳng chú trọng nêu tỏ đạo của ngài Phổ Hiền. Cửu Hoa Chí càng đau lòng đáng than hơn nữa! Đang trong lúc thế đạo, lòng người suy yếu đến cùng cực này, cố nhiên càng phải khăng khắng sửa chữa cho lưu thông hòng làm căn cứ vãn hồi vậy! Do vậy, bèn quên mình hèn tệ, gắng sức theo đuổi, bèn thỉnh ông Hứa Chỉ Tịnh trình bày những nét chánh, còn việc tu chỉnh, sửa chữa do Quang đảm nhiệm. Việc giảo chánh, đối chiếu do thầy Đức Sâm lo. Nay đã hoàn thành bản thảo, dẫu chưa thể nêu tỏ lớn lao, nhưng cũng bổ túc không ít. Đối với những chuyện gần đây, do thân chẳng ở nơi ấy, lại tuổi đã “sáng không bảo đảm được chiều”, cũng chẳng dám cậy người hỏi dò. Sợ chưa tập hợp được [đầy đủ tài liệu] mà người đã mất, đến nỗi trở thành chuyện nói suông. Vì thế để lại những chuyện gần đây cho bậc thông suốt đời sau [tu chỉnh]! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 22 - Lời tựa cho bản tu chỉnh Thanh Lương Sơn Chí (1933) Phải biết: Bồ Tát chẳng dấy niệm mà tùy cơ thị hiện thuyết pháp, trọn chẳng khác biệt gì! Như vầng trăng giữa trời, in bóng trong các chỗ có nước. Chẳng những sông to rạch lớn mỗi nơi đều hiện một vầng trăng, ngay cả một chước , một giọt cũng đều hiện một vầng trăng. Vầng trăng trong sông rạch, một người nhìn vào chỉ thấy một vầng trăng; trăm ngàn vạn người ở trăm ngàn vạn nơi nhìn vào, ai nấy cũng đều thấy một vầng trăng. Nếu con người đi qua phía Đông, trăng cũng theo sang Đông. Nếu ai đi sang Tây, trăng cũng theo sang Tây. Nếu con người đứng yên, trăng cũng bất động. Sắc pháp trong thế gian còn hay khéo như thế, huống là bậc Bồ Tát triệt ngộ duy tâm, viên chứng tự tánh, vận lòng Bi đồng thể, khởi lòng Từ vô duyên ư? Sợ những kẻ câu nệ hẹp hòi thấy tất cả những chuyện thần diệu trong Sơn Chí sẽ ôm lòng ngờ vực, cho nên mới bày tỏ căn cội. Hiểu được điều này thì đọc khắp kinh điển Đại Thừa sẽ chẳng đến nỗi kinh nghi, sợ hãi, chẳng uổng công đọc bộ Sơn Chí này để làm phương tiện dẫn đường! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 22 - Lời tựa cho bản tu chỉnh Thanh Lương Sơn Chí (1933) Văn Thù Bồ Tát đạo chứng Nhất Chân, đức vượt trỗi Thập Địa, nhập bí tạng Tam Đức, thường trụ trong Tịch Quang, nhưng do lòng cứu khổ ân cần, niệm độ sanh thiết tha, nên chẳng lìa cõi Tịch Quang, hiện thân trong các cõi nhiều như số vi trần, đủ mọi phương tiện độ thoát chúng sanh. Ngài là thầy của bảy đức Phật, là mẹ của các Bồ Tát, đấy vẫn là những sự thuộc về Tích Môn. Luận về Bổn Địa, nếu chẳng phải là đức Phật sẽ không thể biết được. Dù trọn hết các cõi nhiều như số vi trần trong một cõi nước, không cõi nào Ngài chẳng trụ, nhưng phàm phu chướng nặng không cách nào biết được diệu dụng, chiêm ngưỡng pháp phạm (khuôn mẫu về đạo pháp)! Vì thế, chẳng thể không vì kẻ sơ cơ bày ra một cuộc đất ứng hóa để họ có chỗ hướng về hòng gieo thiện căn xuất thế. Do vậy, từ xưa đến nay, Ngài cùng với một vạn Bồ Tát thường trụ tại núi báu Thanh Lương, diễn thuyết đạo Nhất Thật, đồng thời thị hiện đủ mọi thứ biến hóa thần dị chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho kẻ thiện căn chín muồi liền chứng chân thường, kẻ chưa chín muồi do đó sẽ được tăng trưởng. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 22 - Lời tựa cho bản tu chỉnh Thanh Lương Sơn Chí (1933) Nguyện cho người thấy, kẻ nghe đều cùng phát tâm ngưỡng mộ Đại Sĩ, gắng sức tu tập, may mắn vô cùng! Tán rằng: Quán Âm thệ nguyện diệu khôn lường, Cảm ứng tùy cơ há trễ tràng, Cứu khổ tầm thanh: từ hút sắt , Hiện thân thuyết pháp: nước in trăng, Cứu vớt muôn sự trần sát cõi Sa Bà càng nặng tấm lòng Từ, Ân sâu hết kiếp khen sao trọn, Che chở quần manh khắp xót thương - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 21 - Lời tựa cho bộ Phổ Đà Lạc Già Tân Chí (1931) Nhưng Đại Sĩ từ vô lượng kiếp đến nay, phân thân trong các cõi nước số nhiều như vi trần, cảm ứng dù Bổn hay Tích nếu không phải là đức Phật sẽ chẳng thể biết được! Mấy quyển tụng ấy [bộ Sơn Chí] bất quá là một hạt bụi trong đại địa, là một giọt nước trong biển cả, để kẻ chẳng biết đến lòng đại từ bi sâu xa của Đại Sĩ sẽ tạm biết đại khái! Từ đấy sẽ thẹn thùng, xấu hổ, hào khí bừng bừng nói: - Cái tâm của chúng ta và tâm Đại Sĩ không hai, không khác, nhưng Đại Sĩ viên thành Phật đạo đã trải kiếp lâu xa, lại do Bi tâm vô tận chẳng lìa cõi Tịch Quang, hiện hình trong chín giới, hiện khắp các sắc thân độ thoát chúng sanh. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay luân hồi sáu nẻo, những kẻ được nhờ ơn Bồ Tát đích thân dẹp khổ ban vui, chẳng biết là bao nhiêu? Mãi cho đến ngày nay, ta vẫn còn là phàm phu, trên đã phụ bạc ân sâu Đại Sĩ cứu vớt, dưới ruồng rẫy Phật Tánh sẵn có của chính mình. Lặng im suy nghĩ, há chẳng thẹn đến chết ư? Ngài đã là trượng phu, ta cũng thế, chẳng nên tự khinh rồi lùi bước, thua sụt. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 21 - Lời tựa cho bộ Phổ Đà Lạc Già Tân Chí (1931) Thoạt đầu vừa bàn bạc về chuyện tu chỉnh Sơn Chí xong, chưa đầy một tháng, cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh ở Bành Trạch tỉnh Giang Tây đến thăm, vừa gặp mặt đã trở thành bạn thiết. Quang thuật lại nỗi niềm trước kia, rồi đem chuyện soạn Đại Sĩ Tụng gởi gắm, ông ta liền nhận lời. Nếu không phải là Đại Sĩ thầm rủ lòng gia hộ, há có dịp gặp gỡ như vậy hay chăng? Ông Hứa bèn tra duyệt, sưu tập trong khắp kinh tạng và các sách vở, mất cả hai năm mới hoàn thành bản thảo, soạn ra lời văn ca tụng gần đến hai vạn chữ, lại còn chú thích ý nghĩa liền ngay sau đó để người đọc đều biết rõ nguyên do. Lại còn trích lục các kinh để làm chứng cớ rõ ràng. Lời văn ca tụng gồm ba quyển, kinh văn trích dẫn để làm chứng gồm một quyển, tổng cộng hơn ba trăm bảy mươi trang, gởi tới [Phổ Đà] vào đầu Hạ... Thoạt đầu, Quang muốn đặt cuốn này vào đầu bộ Sơn Chí, nay vì số quyển quá nhiều, bèn cho lưu hành riêng ngõ hầu được lưu truyền rộng khắp trong thiên hạ đời sau. Nếu in chung với Sơn Chí sẽ khó thể lưu hành rộng rãi được! (Về sau, ông Đào thấy tụng văn cao trỗi, tuyệt diệu, bảo phải đặt vào đầu bộ Sơn Chí, bèn lược bớt lời chú thích và các dẫn chứng từ kinh điển, chỉ sao lục chánh văn, gộp chung thành một quyển, đặt tên là Bổn Tích Môn, tức quyển thứ nhất [của bộ Sơn Chí]). - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 21 - Lời tựa cho bộ Phổ Đà Lạc Già Tân Chí (1931) Năm Dân Quốc thứ sáu (1917), ba vị cư sĩ Vương Thái Thần, Châu Hiếu Hoài, Trần Tích Châu tới núi thăm viếng. Ông Vương và ông Châu nói: “Phổ Đà là thánh địa đạo tràng của Quán Âm Đại Sĩ, trong nước lẫn ngoài nước đều kính ngưỡng, cớ sao dẹp bỏ giảng tòa đã lâu, nỡ để cho pháp đạo tịch mịch vậy? Xin thầy hãy phát tâm giảng kinh, chúng con sẽ lo liệu chi dụng đầy đủ”. Quang viện cớ kém cỏi cực lực chối từ. Ông Tích Châu liền nói: “Bộ Sơn Chí chưa được tu chỉnh đã lâu, bản in đã mờ mịt rồi, nếu thầy chịu sửa chữa, con sẽ cho khắc in”. Quang nói: - Chuyện ấy nào phải dễ dàng! Nếu theo như lệ cũ thì bậc văn nhân mới có thể làm được. Nếu đem sự tu chứng về mặt Bổn lẫn mặt Tích của Đại Sĩ trong những kiếp xưa và sự tích cảm ứng nơi phương này mỗi mỗi đều lược thuật những nét chánh yếu khiến cho người đọc đều biết ân Đại Sĩ trọn khắp các cõi nước số lượng nhiều như cát, lòng Từ cứu vớt không ngằn mé; từ đấy phát khởi chánh tín, thân lẫn tâm đều quy y thì gần là được hưởng phước trong cõi trời người, xa là chứng quả Bồ Đề. Nếu không đọc trọn khắp Đại Tạng, tham khảo trọn khắp các sách sẽ không thể [làm được]. Nếu chẳng tỏ rõ các sự lý cảm ứng về mặt Bổn lẫn mặt Tích của Đại Sĩ sẽ trở thành bỏ chủ trọng khách, bỏ gốc lấy ngọn, có khác gì những sơn kinh thủy chí tầm thường đâu? Làm sao có thể tỏ rõ Phổ Đà chính là đạo tràng ứng hóa của Đại Sĩ, lại làm sao có thể tỏ rõ Đại Sĩ chính là cha mẹ đại từ bi của chúng sanh trong pháp giới, có nhân duyên sâu đậm nhất đối với chúng sanh cõi Sa Bà? Nhưng Quang do túc nghiệp, đến nỗi tâm không hiểu biết, mắt gần như lòa, vẫn cần phải sám hối một hai năm, đợi khi nghiệp tiêu trí rạng, chướng hết, mắt sáng, sẽ chẳng tiếc thân mạng, gắng sức thành tựu. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 21 - Lời tựa cho bộ Phổ Đà Lạc Già Tân Chí (1931) Hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian, đều do thời tiết nhân duyên mà phát khởi. Vì thế, cổ đức nói: “Thời tiết nhược chí, kỳ lý tự chương” (Nếu đến thời tiết, lý sẽ tự được tỏ rõ), thật là đúng lắm! Quang vì tầm thường, kém cỏi, trăm chuyện chẳng làm được một chuyện nào, ăn bám chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà ba mươi hai năm. Trước kia đọc Phổ Đà Chí, thấy những điều được ghi chép đều là chuyện đạo tràng hưng - suy và những chuyện tầm thường giống như vậy; còn đối với sự lý Bổn - Tích trong các kiếp xưa của Quán Âm Đại Sĩ và nhân duyên cảm ứng nơi phương này thảy đều thiếu sót, sơ sài, khôn ngăn người ta phải thở dài! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 21 - Lời tựa cho bộ Phổ Đà Lạc Già Tân Chí (1931) Bạn tôi là Dật Nhân sắp xếp nội dung sách lại theo một thứ tự khác: Đầu tiên là kinh, chú, nghi thức niệm Phật. Kế đến liệt kê các khai thị rõ ràng, rộng rãi, giản dị, gần gũi từ xưa đến nay, rồi lại chú trọng đến cách thức trợ niệm khi lâm chung, ngõ hầu chẳng đến nỗi công lao [niệm Phật] sắp thành công lại bị quyến thuộc vô tri phá hoại. Tiếp đó là những giải thích đại lược về Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, Tứ Đế, Tứ Liệu Giản và một trăm bài ca tụng Phật hiệu để cho người sơ phát tâm biết đại lược ý nghĩa. Tu chỉnh thành một bản hòng giữ lại đọc vĩnh viễn. Cách thức dùng chín phẩm [đài sen] để ghi nhớ số [câu đã niệm] được in riêng thành một quyển, kèm theo cuốn chánh để giúp hành giả nhớ số rồi thiêu đi trong tương lai. Cách này rất hay, bèn cho ấn hành để biếu tặng rộng rãi, mong sao hết thảy những người cùng hàng đều được vãng sanh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 20 - Lời tựa cho sách Trùng Đính Tây Phương Công Cứ (1930) Sách Tây Phương Công Cứ lưu truyền trong cõi đời đã lâu; tuyển chọn sao lục những ngôn luận hoặc tỉ mỉ hoặc giản lược khác nhau. Có bản xếp kinh Di Đà, chú Vãng Sanh vào đầu sách, cũng có bản chẳng chép. Nhưng bên trong có in hình Tam Thánh, đài sen chín phẩm, trên đài sen có những vòng tròn để người [niệm Phật] chấm vào đấy hòng ghi nhớ số [câu đã niệm] thì [các bản in] đều giống nhau. Đa số các bản in, với mỗi đài sen thuộc chín phẩm đều vẽ một tượng Phật. Tiếp đó, chọn lọc những khai thị thiết yếu xưa nay và những sự tích rõ ràng, ngõ hầu người đọc sanh lòng tín nguyện quyết định, chắc chắn nhờ vào đó để vãng sanh. Dụng ý sâu đậm, chu đáo làm sao, nhưng do niệm xong, hoặc [do người niệm] đã khuất, bèn đốt đi, thật cảm thấy mắc lỗi hủy hoại kinh tượng. Một cuốn sách tốt đẹp lợi người rốt cuộc bị phó cho ngọn lửa, chẳng những uổng phí một món vật quý báu, lại còn chẳng thể lợi lạc rộng khắp. Nếu giữ lại để truyền cho đời sau thì do khuyên chấm đen đúa, lem luốc, khó gợi hứng thú cho người đọc được. Suy đi nghĩ lại, thật khó thể nào thích hợp! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 20 - Lời tựa cho sách Trùng Đính Tây Phương Công Cứ (1930) Khi xưa không có thuyền máy, xe lửa, bưu cục, tòa báo, tuy từng địa phương ở sát cạnh nhau nhưng thường chẳng hay biết, cho nên thời cổ pháp đạo hưng thạnh lớn lao, nhưng số người vãng sanh được ghi chép lại trong một ngàn mấy trăm năm chỉ được mấy trăm người mà thôi! Một là vì thiếu ghi chép, hai là vì sách vở xưa thất lạc. Nếu mọi chuyện đều tiện lợi như ngày nay, dẫu cả mấy chục vạn vẫn là chưa nhiều. Người đọc chớ nên đem xưa để luận nay, nghĩ chưa chắc đã đều là chuyện thật; mà cũng đừng dùng nay luận xưa, cho là pháp [khi xưa] chẳng hưng thịnh lớn lao! Hãy thử nghĩ ngài Thiện Đạo ở Trường An, ngài Thiếu Khang tại Tân Định, tiếng niệm Phật vang khắp nẻo đường, những người vãng sanh đương nhiên chẳng phải chỉ có trăm ngàn vạn ức! Nay thì xa cách ngàn dặm, sáng vừa gởi đi, tối đã đến, lại thêm bưu điện, báo chí; vì thế, tuy ngoài ngàn dặm thảy đều biết được liền. Nhưng vẫn còn nhiều người [vãng sanh] chưa được ghi chép, nếu mỗi chuyện đều chép, quả thật còn nhiều hơn thế nữa! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 19 - Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục (1933) Đến cuối niên hiệu Đạo Quang, cư sĩ Liên Quy Hồ Đĩnh tập hợp [hành trạng của] những vị vãng sanh sau thời Càn Long được hơn một trăm mấy chục người, [soạn thành sách] đặt tên là Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tục Biên. Vào đời Hàm Phong - Đồng Trị, giặc giã tràn lan, người đề xướng ít ỏi, gần như quạnh quẽ. Gần đây, thế đạo nhân tâm ngày càng đi xuống, phàm những ai có con mắt thông suốt, mang lòng cứu đời, không ai chẳng đề xướng nhân quả báo ứng và pháp tín nguyện niệm Phật. Người có chánh tri kiến, không ai chẳng thuận theo chiều gió. Vì thế, trong mấy chục năm qua, lại tập hợp được [chuyện vãng sanh của] hơn hai trăm người nữa, đặt tên là Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tam Biên. Bản thảo này do thầy Đức Sâm biên tập, nay đã sắp chữ xong. Vì thế, tôi thuật duyên khởi. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 19 - Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục (1933) Trong thời Càn Long đời Thanh, cư sĩ Bành Tế Thanh sai cháu trai là Hy Tốc tập hợp, sao lục những câu chuyện vãng sanh Tịnh Độ, đầu tiên thuật chuyện Phật Di Đà nhằm chỉ rõ đấng giáo chủ lập ra pháp môn này. Kế đến là Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền v.v… nhằm tỏ rõ thánh chúng xiển dương pháp môn này. Tiếp đó là tỳ-kheo tăng ni, vua chúa, quan lại, thường dân, nữ nhân, các loài vật vãng sanh, nhằm kể ra tứ chúng vãng sanh Tịnh Độ, tổng cộng hơn năm trăm người, đặt tên là Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Đấy chính là bộ Sơ Biên. Trong số ấy, dù thánh hay phàm, dù trí hay ngu, đều cùng vào trong biển đại thệ nguyện của đức Như Lai, rồi dần dần chứng được sự vui sướng trong cõi Thường Tịch Quang. Nhìn từ chỗ này, biết pháp môn Tịnh Độ dường như biển cả dung nạp khắp mọi dòng chảy, cũng giống như thái hư bao hàm khắp vạn tượng. Chúng sanh trọn khắp pháp giới không một ai chẳng được nhiếp vào đây! Các pháp trong khắp cả pháp giới đều do pháp môn này mà đắc Thật Tế, bởi nó là pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, là đạo tổng trì trọng yếu của tam thế chư Phật. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 19 - Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục (1933) Pháp môn Tịnh Độ rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không. Hết thảy các pháp môn không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này, hết thảy các hạnh môn không môn nào chẳng trở về pháp giới này. Người thiên tư thông minh thường vì [tưởng lầm pháp này] sự giản dị, lý tầm thường nên chẳng bỏ công xét kỹ, chẳng những chính mình không tu tập, lại còn thốt lời bàn luận, ngăn trở, phá hoại, bài xích người khác tu trì, nhằm tỏ vẻ chính mình cao minh. Điều này đúng là “biến quán lục hợp nhi bất kiến lai mao” (thấy trọn vũ trụ nhưng chẳng thấy được sợi lông nơi khóe mắt), biết trọn các pháp nhưng chẳng biết chính mình thế trí biện thông, tự coi mình Tông - Giáo đều thông, đức Phật gọi [kẻ ấy] là kẻ đáng thương xót! Họ chẳng nghĩ chỗ quy tông của kinh Hoa Nghiêm là cầu sanh Tịnh Độ. Văn Thù, Phổ Hiền thảy đều phát nguyện vãng sanh. Những vị ấy là người như thế nào, chuyện ấy là chuyện như thế nào? Dẫu bọn ta có hiểu được chút giáo nghĩa, nhưng Phiền Hoặc chưa đoạn, sanh tử chưa giải quyết xong, hễ trải qua một phen biến đổi sanh sang kiếp sau, há có thể chẳng mê mất được ư? Chén bát chưa nung, gặp mưa liền rã. Nguyên do đức Như Lai đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ này là nhằm làm cho thượng thánh hạ phàm đều cùng thoát được sanh tử ngay trong đời này. Huống chi hai vị Đại Sĩ kia thành Phật đã lâu, thị hiện thuộc địa vị Đẳng Giác, lấy thân làm gương cho kẻ khác phát nguyện cầu sanh; ta là hạng người nào mà dám chống đối các vị ấy? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 19 - Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục (1933) Tâm Quán Thế Âm Bồ Tát nghĩ thương chúng sanh, chẳng thể dùng ngôn ngữ để hình dung được! Dẫu lấy trời đất, cha mẹ, vẫn chưa đủ để sánh ví chút phần! Làm cho kẻ thiện căn chưa gieo, chưa chín muồi, chưa độ thoát, liền gieo, liền chín muồi, liền độ thoát. Nên dùng thân nào để độ được, bèn hiện thân ấy để thuyết pháp. Ví như mặt trời rạng rỡ giữa ban ngày, muôn vật đều được chiếu tỏ. Xuân về trên lãnh thổ vua Vũ, trăm loài thảo mộc đều được sanh thành. Có cảm liền thông, không chuyện mưu cầu gì chẳng ứng. Ấy là vì Bồ Tát vô tâm, lấy tâm chúng sanh làm tâm [của chính Ngài], nên hễ khắp pháp giới cảm, liền ứng khắp pháp giới, đều đáp ứng tâm niệm của họ trọn chẳng sai biệt. Quán Âm Cảm Ứng Khóa [Xâm Quán Âm] là phương tiện mầu nhiệm lớn lao thuận theo thói đời để bói tốt - xấu ngõ hầu cùng gieo thiện căn. Phàm những người xem bói đều phải xưng niệm danh hiệu Bồ Tát. Như trẻ nhỏ bị bệnh chẳng chịu uống thuốc, bèn bôi thuốc lên vú, thì trẻ nhỏ không uống thuốc mà vẫn uống thuốc . Danh hiệu của Bồ Tát như Phản Hồn Hương, nếu được thấy nghe, túc nghiệp tự tiêu, túc thiện (sự lành trong đời trước) sẽ tự sanh, dần dần cho đến trên là noi theo chí hướng, sự nghiệp của đức Quán Âm, rốt ráo tự lợi - lợi tha nơi vô ký. Sách này do cư sĩ Từ Tích Dư và phu nhân tìm được cổ bản thuộc đời Minh trước kia, đem in thạch ấn một ngàn quyển để kết Tịnh duyên. Tôi bèn lược thuật ý nghĩa Bồ Tát hành lòng Từ như vậy đó. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 18 - Lời tựa sách Quán Âm Cảm Ứng Khóa Cư sĩ Lý Viên Tịnh cảm lòng từ bi của Bồ Tát, tiếc cho chúng sanh mê muội, do vậy bèn dùng thể văn Bạch Thoại, biên soạn trình bày những chuyện thuộc về mặt Bổn lẫn mặt Tích của Bồ Tát. Lại sao lục mười tám chương sự tích cảm ứng của Ngài từ Tục Tạng của Nhật Bản, cho ấn hành lưu thông, mong sao hết thảy hữu tình đều biết Bồ Tát từ vô lượng kiếp đến nay khởi lòng Từ, vận lòng Bi, ngõ hầu hết thảy chúng sanh được thoát khỏi sanh tử, chứng được Phật tánh vốn có. Từ đấy, chúng sanh đều quy mạng, cung kính, cúng dường, xưng niệm hồng danh để được nương cậy, được thoát khỏi cõi Ngũ Trược này, sanh sang cõi sen chín phẩm kia, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, lấy tâm Bồ Tát làm tâm của chính mình, lấy sự nghiệp của Bồ Tát làm sự nghiệp của chính mình, ngõ hầu chẳng cô phụ sự giáo hóa của đức Phật, chẳng phụ bạc tánh linh của chính mình mà thôi. Do vậy, tôi bèn viết duyên khởi để thưa với những bậc thông sáng mai sau vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 17 - Lời tựa cho Địa Tạng Bồ Tát Bổn Tích Linh Cảm Lục (1929) Địa Tạng Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, tuy đã chứng cùng tột pháp tánh từ lâu, nhưng vẫn chẳng trụ Tịch Quang, chẳng chứng Phật quả, do lòng đại từ bi tùy loại hiện thân độ thoát hữu tình trọn khắp các cõi nước nhiều như số vi trần. Ngài lại còn thường ở trong chốn u minh nhằm cứu bạt chúng sanh tội khổ cực nặng trong địa ngục. Do Bồ Tát xưa kia từng phát đại nguyện: “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ Đề, địa ngục vị không thệ bất thành Phật” (Chúng sanh độ hết mới chứng Bồ Đề; địa ngục chưa trống không, thề chẳng thành Phật). Ấy là vì tâm tánh của chúng sanh và tâm tánh của Phật chẳng hai; do mê muội nên đối với chân thường lầm sanh mê hoặc, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm đến nỗi luân hồi lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra. Lúc sanh vào trời người thì ít, khi đọa tam đồ lại nhiều! Bồ Tát riêng rủ lòng từ mẫn, nhiều cách cứu vớt, mong sao chúng sanh sẽ bỏ vọng về với chân, trừ mê, được ngộ, để khôi phục lại Chân Như Phật Tánh sẵn có mới thôi. Ví như bảo châu Ma Ni vô giá, rớt trong nhà xí, kẻ ngu coi như đồ dơ, chẳng thèm mến tiếc! Người trí biết là bảo châu vô giá, vào nhà xí nhặt lấy, gột trừ phân dơ, dùng nước thơm gột rửa, treo trên tràng cao, tỏa sáng chiếu trời soi đất, mưa ra khắp đủ mọi thứ báu. Tâm tánh của chúng sanh cũng giống như vậy, tuy còn mê muội tạo nghiệp, đọa lạc trong ác đạo, nhưng Chân Như Phật Tánh sẵn có vẫn trạm tịch thường hằng, bất sanh, bất diệt, trọn chẳng có tướng biến đổi, tổn thất. Vì thế, bất luận kẻ nghiệp nặng tội sâu đến đâu, tâm Bồ Tát trọn chẳng có một niệm vứt bỏ, đối với chúng sanh khổ sở nhất càng riêng rủ lòng thương xót hơn, gấp gáp muốn độ thoát hơn. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 17 - Lời tựa cho Địa Tạng Bồ Tát Bổn Tích Linh Cảm Lục (1929) Trong thời thế này, Quán Thế Âm Bồ Tát đặc biệt dấy lên lòng đại từ Vô Duyên, vận lòng đại bi Đồng Thể, trong đủ mọi khổ nạn, rủ lòng nghĩ nhớ, bảo vệ, che chở. Xưng hồng danh của Ngài gặp dữ sẽ hóa lành, gặp nạn lại trở thành điều may mắn, làm sao kể xiết? Những sự tích Bồ Tát cảm ứng đã được ghi chép thấy rải rác khắp các sách. Những sách chuyên ghi chép thì có bộ Quán Âm Từ Lâm Tập của ngài Hoằng Tán, Quán Âm Trì Nghiệm Ký của ông Châu Khắc Phục , Quán Âm Linh Cảm Lục của ông Vưu Tích Âm, Quán Âm Bổn Tích Tụng của ông Hứa Chỉ Tịnh, Quán Âm Linh Nghiệm Kỷ của ông Nhiếp Vân Đài, đều là những sách do được thấy nghe rồi bèn ghi lại. Cư sĩ Lý Viên Tịnh lại tổng hợp từ tất cả các sách [nói trên] soạn [thành một tác phẩm], đặt tên là Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục, có thể gọi là tập hợp tất cả những chuyện linh cảm của đức Quán Âm, là chỗ y cứ cho hết thảy những người tín phụng, trì niệm. Tuy nhiên, cần phải biết vì sao đức Quán Âm có thể linh cảm như thế? Ấy là vì Ngài xoay được Tánh Nghe để nghe nơi tự tánh và chiếu soi Ngũ Uẩn đều không. Đọc bộ sách này rồi, có thể chí thành khẩn thiết niệm hồng danh của Quán Âm Đại Sĩ, niệm đến khi niệm cực tình vong thì bản thể của hết thảy phiền não ác nghiệp đều là không, ngó lại hết thảy cảnh duyên sướng - khổ đều là chẳng thể được! Trong cái “chẳng thể được” ấy, chẳng ngại gì hưng lòng Từ, vận lòng Bi, tùy cơ tiếp dẫn, lấy tâm của đức Quán Âm làm tâm mình, lấy sự nghiệp của đức Quán Âm làm sự nghiệp của mình, làm cho khắp hết thảy chúng sanh đang chịu khổ cùng được gội ân trạch của đức Quán Thế Âm để rồi trong đời vị lai sẽ cùng hành đạo Quán Thế Âm xoay vần cứu độ vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 16 - Lời tựa bộ Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục (1929) Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, từ bi rộng lớn; vì thế, phân thân trong các cõi nhiều như số vi trần, tùy loại hiện hình, tầm thanh cứu khổ độ thoát chúng sanh, nhưng đối với thế giới Sa Bà, Ngài lại càng nghĩ thương xót trọn khắp, tha thiết, cứu vớt chẳng sót. Huống chi trong những năm gần đây, nhân dân hằng ngày gặp cảnh hoạn nạn, dù muốn trốn tránh quả thật cũng không có chỗ nào để lánh mình được, mà cũng chẳng có cách nào trốn lánh được; bởi thế đạo nhân tâm gần đây đã bại hoại đến cùng cực! Ngay như đại ân sanh thành, nuôi dạy của cha mẹ, vẫn cứ công khai đề xướng bỏ đi lòng hiếu và coi giết hại cha mẹ là chuyện đại nghĩa diệt thân! Người dân sống trong cõi đời này chẳng đáng thương ư? Do vậy, phàm những ai có chánh tri kiến không ai chẳng nghiên cứu Phật học, tu trì Tịnh nghiệp để cầu thoát lìa đời ác Ngũ Trược này, mau được dự vào Liên Trì Hải Hội, ngõ hầu vĩnh viễn lìa mọi sự khổ, chỉ hưởng các sự vui. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 16 - Lời tựa bộ Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục (1929) Quang đã ở vào tuổi bảy mươi, học chẳng thành được gì, trộm sợ một hơi thở ra không hít vào được sẽ lại bị luân hồi trong sáu nẻo thì khổ chẳng thể nào tưởng tượng được! Do vậy bèn giấu tung tích, ẩn dật lâu dài, chuyên tu Tịnh nghiệp, ngõ hầu chẳng đến nỗi thường luôn khuyên người khác mà ngược lại chính mình chẳng có phần, khiến cho kẻ vô tri do đấy sẽ báng pháp rồi đọa ác đạo. Trước lúc bế quan, nhận được thư của ông ta [Cư Sĩ Lý Viên Tịnh], lòng khôn ngăn cảm động, bèn nêu đại lược đại ý của pháp môn Tịnh Độ và lợi ích của sự trợ niệm, mong sao những người học Phật trong cõi đời ai nấy đều chú ý, ngõ hầu thỏa thích lớn lao bản hoài phổ độ chúng sanh của đức Như Lai cũng như nhằm để làm chín muồi cái nhân thù thắng đã được vun bồi từ nhiều kiếp! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 15 - Lời tựa sách Sức Chung Tân Lương (1930) Cư sĩ Lý Viên Tịnh vẫn sợ [những chương trình trợ niệm phụ trợ người lâm chung của các đạo tràng ấy] quá giản lược, rất có thể người ta chẳng lưu ý, bèn tuyển chọn những điểm hay nhất của chương trình các nơi và các ngôn luận, lại còn chọn lọc những bài văn nêu rõ lẽ lợi - hại lúc lâm chung của xưa nay và những câu chuyện vãng sanh do được trợ niệm gần đây, biên soạn thành bốn thiên. Thiên đầu tiên là Sức Chung Chương Trình (chương trình trợ niệm cho kẻ lâm chung), thiên thứ hai là Sức Chung Ngôn Luận (những bàn luận về việc trợ niệm cho kẻ lâm chung), thiên thứ ba là Dự Tri Lợi Hại (biết sẵn những điều lợi - hại), thiên thứ tư là Sức Chung Thật Hiệu (hiệu quả thật sự do trợ niệm lúc lâm chung), đặt tên [cho cả tập sách] là Sức Chung Tân Lương (những hướng dẫn về việc trợ niệm khi lâm chung), xin Quang viết lời tựa. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 15 - Lời tựa sách Sức Chung Tân Lương (1930) Gần đây, đời đã loạn đến cùng cực, thiên tai, nhân họa liên tiếp giáng xuống, vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống! Người có chánh tri kiến đều biết thế giới này là nơi không yên ổn, Tây Phương Cực Lạc thế giới chính là quê nhà ta sẵn có. Do vậy, tính kế trở về nhà, cùng tu Tịnh nghiệp. Lại sợ khi lâm chung tự lực mỏng yếu, không ai phụ trợ, và bị quyến thuộc vô tri phá hoại chánh niệm đến nỗi vẫn lưu lại trong thế giới này, chẳng được vãng sanh. Do vậy, mọi người đề xướng chuyện trợ niệm hòng phụ trợ kẻ lâm chung. Như các hội Phật Học ở Thiệu Hưng, Dư Diêu, Vân Nam, Thượng Hải hoặc soạn định chương trình, hoặc xiển dương sự lợi - hại, đều nhằm mong sao người mạng chung chắc chắn được sanh về Tây Phương mới thôi! Tâm ấy, chuyện ấy thật đáng khâm phục! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 15 - Lời tựa sách Sức Chung Tân Lương (1930) Sách này [Thái Thượng Cảm Ứng Thiên] được chú giải rất nhiều, chỉ có bản Tiên Chú của Nguyên Hòa Huệ Đống đời Thanh tinh xác, sâu xa, rộng rãi, thông suốt nhất, tiếc rằng nếu chẳng phải là hạng học rộng sẽ không thể đọc nổi! Kế đến là bộ Vựng Biên quả thật là bản hay nhất để người nhã, kẻ tục đều cùng xem được, nhưng đàn bà, trẻ nít không thông thạo chữ nghĩa lắm thì vẫn khó thể lãnh hội được. Chỉ có mỗi một cuốn Trực Giảng là có thể lợi ích trọn khắp, lời văn tuy nông cạn, dễ hiểu, nhưng từ ngữ thật hay đẹp, giản dị nhưng không thô thiển, dễ cảm động con người nhất. Cư sĩ Hương Đào bỏ ra một ngàn đồng ấn hành để lưu thông rộng khắp. Cũng có những người cùng chí hướng đều giúp sức, nguyện cho cuốn sách này được [phổ biến] trọn khắp vũ trụ, ngõ hầu người người tu Thập Thiện, nhà nhà tôn sùng hiếu đễ. Biết họa - phước chỉ do con người tự chuốc lấy, thiện hay ác đều có báo ứng thì có ai còn chịu làm ác để chuốc họa nữa đây? Phong tục ấy vừa được lưu hành thì điều thiện sẽ có thiện báo: Lễ nghĩa, nhân nhượng sẽ hưng thịnh, can qua vĩnh viễn chấm dứt, nhân dân yên vui, thiên hạ thái bình. Nho thời cổ phần nhiều đều ngầm tu tập theo sách này. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 14 - Lời tựa sách Cảm Ứng Thiên Trực Giảng (1928) Ngũ Kinh, Tứ Thư đều là những khuôn phép đã hoàn chỉnh, nhưng do lời lẽ mênh mông, lại còn rải rác trong các sách, chẳng được tập hợp lại chia theo từng loại, hơi khó để bắt chước theo. Kẻ chưa đọc nhiều sách càng chẳng thể nhờ vào đâu để vâng theo những khuôn mẫu ấy. Thái Thượng Cảm Ứng Thiên thâu tóm những lý lẽ tột cùng “thuận theo [chánh đạo] thì tốt lành, trái nghịch thì xấu, phước thiện, họa dâm”, thốt ra lời nghị luận rung trời rúng đất, mắt nhìn vào, tâm kinh hãi: “Thế nào là thiện? Thế nào là ác? Kẻ làm lành sẽ đắc thiện báo nào? Kẻ làm ác sẽ mắc ác báo nào?” đều thấy rõ cội nguồn sáng tỏ như xem ngọn lửa, nhưng kẻ ngu chẳng chịu làm lành, cứ mặc tình làm ác! Ấy là vì cái tâm tự tư tự lợi xui khiến như thế. Nay biết: Kẻ tự tư tự lợi đâm ra sẽ đánh mất lợi ích lớn lao, mắc họa ương lớn lao, há dám chẳng gắng sức lương thiện để mong họa diệt, phước nhóm ư? Do vậy, bèn nói rằng: Sách này tạo lợi ích cho con người cũng sâu xa lắm. Vì thế, bậc Đại Nho thời cổ phần nhiều đều ngầm tu tập theo sách này. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 14 - Lời tựa sách Cảm Ứng Thiên Trực Giảng (1928) Con người tánh vốn lành, do đối cảnh chạm duyên nhưng chẳng ra sức kiểm điểm, xem xét, cho nên khởi lên các chấp trước tốt - xấu, đủ mọi thứ tình kiến khiến bản tánh bị mai một, đều luôn là như thế. Do vậy, những vị thánh nhân thời cổ vị nào cũng để lại ngôn giáo, mong cho con người hành theo để trở lại [thuần thiện như] thuở ban đầu. Những lời dạy ấy tuy nhiều, nhưng chẳng ngoài “cách vật trí tri, làm sáng tỏ Minh Đức, ở yên nơi sự tốt lành tột cùng” mà thôi. Trong chữ “cách vật” vừa nói đó, “cách” (格) giống như “cách đấu” (格鬬: trừ khử, chiến đấu), giống như một người chống lại muôn người; “vật” (物) là phiền não, vọng tưởng, mà cũng là cái được gọi là “nhân dục” (lòng ham muốn của con người) trong cõi đời. Chiến đấu với lòng nhân dục vọng tưởng phiền não, ắt một phen phải đầy đủ ý chí chẳng khiếp nhược thì mới có hiệu quả thật sự. Nếu không, tâm bị chuyển theo vật, làm sao trừ khử vật cho được? “Trí” (致) có nghĩa có là thúc đẩy, mở rộng đến cùng cực. “Tri” (知) chính là lương tri “yêu thương cha mẹ, kính trọng anh” sẵn có của chúng ta, chứ không phải do dạy dỗ, do học hành rồi mới có. Nhưng thường nhân trong xử sự thường ngày, nếu chẳng phản tỉnh, soi xét, kiểm điểm, thì từ đấy sẽ bị vật chuyển, chắc là lương tri “yêu thương cha mẹ, kính trọng anh” ấy cũng bị mất đi, còn mong chi thúc đẩy lương tri ấy đến cùng cực để đối phó khắp vạn sự, hàm dưỡng tự tâm nữa ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 14 - Lời tựa sách Cảm Ứng Thiên Trực Giảng (1928) Người đời thường tưởng nhân quả diệt mất không dấu vết, thường hay coi thường, chẳng chịu suy xét sâu xa. Đối với những thứ [nhân quả] rõ ràng dễ thấy, có thể có những thứ nhân quả khác xen lẫn vào khiến cho khó thấy được sự báo ứng; phàm phu mắt thịt chẳng biết nguyên do, bèn bảo “thiện ác đều rỗng không, chẳng có nhân quả”. Do vậy, cậy vào thiên kiến của chính mình, cho là đích xác không lầm lẫn, coi lời của thánh hiền, Phật, Bồ Tát đều là hoang đường, vô căn cứ, chẳng đáng noi theo! Từ đấy, phô phang tà kiến của chính mình, lầm lạc khoe khoang là bậc thông gia, lập ra những nghị luận tự lầm, lầm người. Do một đồn thành nhiều, biến đổi tận gốc càng thêm tệ hại đến nỗi ào ạt biến thành những thảm kịch “phế kinh điển, phế luân thường, bỏ lòng hiếu, mặc kệ lòng hổ thẹn, tranh thành, đoạt đất, tàn sát lẫn nhau” mỗi mỗi đều diễn ra, đến nỗi thiên tai nhân họa giáng xuống hằng ngày, vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống. Xét đến cội nguồn, nói chung là do chẳng biết nhân quả báo ứng mà ra! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 13 - Lời tựa cho bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ (1929) Nếu muốn tránh khỏi quả ác, ắt phải tu nhân lành; nếu tạo ác nhân, quyết khó thể được thiện quả! Tôi thường nói: “Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh”. Nếu không có nhân quả, thiện sẽ không có gì để khuyên, ác không có gì để phạt, há còn bàn đến chuyện “làm sáng tỏ Minh Đức để đạt đến chí thiện, đoạn Phiền Hoặc, chứng Bồ Đề” nữa ư? Do những ai biết có nhân quả ắt sẽ hướng lành, lánh dữ, sửa lỗi hướng thiện, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ lòng ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa, ngõ hầu được dự vào bậc thánh, mong lên được cõi Cực Lạc. Bậc thượng bèn yên vui mà làm, bậc trung bèn vì lợi mà làm, bậc hạ bèn miễn cưỡng làm, đều cùng trừ khử được vật dục để tỏ lộ lương tri, thoát đường mê, lên bờ giác. Do vậy, biết thánh hiền, Phật, Bồ Tát tham dự, giúp đỡ cho đạo sanh thành, dưỡng dục, xét từ cội nguồn đến kết thúc chẳng ngoài hai chữ “nhân quả”; đấy là căn cứ lớn lao khiến cho thiên hạ xưa nay thanh bình hay loạn lạc, vững vàng hay nguy ngập và [để được] yên thân, giác ngộ cõi đời, siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nếu muốn vãn hồi thế đạo, lòng người, mà bỏ đi việc đề xướng nhân quả báo ứng, dẫu cho người ấy học thức, đạo đức, thần thông, trí huệ ngang bằng thánh hiền, Phật, Bồ Tát vẫn chẳng làm gì được, huống là những kẻ kém cỏi hơn ư? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 13 - Lời tựa cho bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ (1929) Lịch Sử tường thuật những chuyện thanh bình hay loạn lạc, hiền hay ngu xưa nay. Cảm Ứng là những chứng nghiệm về sự được - mất, tốt - xấu xưa nay. Lịch sử nhiều quá, ai có thể đọc trọn khắp từng chuyện cho được! Vì thế, đặc biệt chọn lấy những sự tích cảm ứng rõ ràng nhất ghi lại hết để cống hiến cho những người cùng hàng, hòng làm tấm gương “cách vật, trí tri, thành tâm, chánh ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” ngõ hầu tâm hợp với đạo, tâm hợp với Phật, thiên hạ sẽ thái bình, nhân dân sẽ yên vui. Phải biết: Nói đến cảm ứng chính là nói đến nhân quả vậy. Tu nhân như thế nào sẽ được quả như thế ấy như trồng dưa được dưa, gieo đậu được đậu. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 13 - Lời tựa cho bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ (1929) Các ông Phan Huệ Thuần và Thiệu Huệ Viên ở Lưu Dương (thuộc tỉnh Hồ Nam) dốc lòng tin tưởng Phật pháp, xem xét thời tiết, căn cơ; do vậy, bèn tập hợp những ý nghĩa trọng yếu đề xướng Tịnh Độ xưa nay, tạo thành một cuốn sách, chia làm ba thiên. Thiên đầu là tập hợp sao lục, biên tập những lời dạy từ tướng lưỡi rộng dài [của đức Phật], hơi tóm gọn một chút, để làm bậc thang nhập môn đầu tiên cho hàng sơ cơ. Thiên giữa gồm những phần trích lục những lời khai thị thiết yếu nhất, viên đốn nhất [trích] từ sách Long Thư Tịnh Độ Văn, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát, và [ngữ lục của] các đại sư Thiện Đạo, Vĩnh Minh, Ưu Đàm, Thiên Như , Liên Trì, Hám Sơn, Ngẫu Ích, Triệt Lưu, Tỉnh Am, Triệt Ngộ, và gần đây nhất là cư sĩ Bành Nhị Lâm, ngõ hầu [người đọc] từ cạn tiến đến sâu, lãnh ngộ đại lược chỉ thú của pháp môn Tịnh Độ. Thiên cuối cùng tập hợp những ghi chép về nghi thức Niệm Phật, những kinh chú Tịnh Độ trong khóa tụng hằng ngày và các bài văn hồi hướng để dùng làm nghi thức cho khóa tụng sáng tối. Cuối cùng là phần Phụ Lục về nhân duyên ứng hóa của Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát và Đa Đa Ha Bồ Tát để nêu bật pháp môn Tịnh Độ khế hợp thời cơ sâu xa. Họ tính ấn hành lưu thông để biếu những ai có cùng chí hướng trong khắp cõi xem đọc; do vậy, bèn đặt tựa đề là Tịnh Độ Tập Yếu, và lược thuật nguyên do của pháp môn Tịnh Độ ngõ hầu người đọc lẫn người nghe đều cùng sanh chánh tín, cùng tu Tịnh nghiệp, để có thể cùng sanh về Tịnh Độ, cùng chứng Vô Sanh, để rồi cùng thành Chánh Giác! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 12 - Lời tựa sách Tịnh Độ Tập Yếu (1928) Thuốc không quý - hèn, thuốc nào trị được bệnh [thì thuốc ấy] là thuốc hay. Pháp chẳng cạn - sâu, [pháp nào] hợp căn cơ sẽ là pháp mầu nhiệm. Đang thời Mạt Pháp, căn cơ con người kém hèn, nếu chẳng nương vào hoằng thệ nguyện lực của đức Như Lai, ai có thể đoạn Phiền Hoặc để thoát sanh tử, thấy được bản tánh, chứng vô sanh? Ví như bệnh đã lậm vào tạng phủ, tuy [bệnh tình] hòa hoãn vẫn không thể làm gì được, nhưng nếu chịu uống thuốc A Già Đà trị chung vạn bệnh này, thì chuyện “đoạn Phiền Hoặc để thoát sanh tử, thấy được bản tánh, chứng Vô Sanh” vừa nói trên đây ai nấy đều đích thân chứng được, hoàn toàn chẳng khó khăn gì! Vì sao vậy? Do người ấy dùng lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, lâm chung chắc chắn sẽ được Phật tiếp dẫn, liền được vãng sanh. Đã được vãng sanh, thân cận Phật Di Đà dài lâu, theo gót hải chúng, còn có thể viên mãn Bồ Đề, triệt chứng Niết Bàn rốt ráo, huống là những chuyện “đoạn Phiền Hoặc để thoát sanh tử, thấy được bản tánh, chứng Vô Sanh” vừa mới nói đó ư? Do vậy, biết rằng: Trong thời tiết này, chỉ có một pháp này thích hợp căn cơ nhất. Nếu bỏ pháp môn cậy vào Phật lực này để tu những pháp môn tự lực khác, đừng nói hạng trung - hạ căn không cách chi mong mỏi, dẫu là thượng căn chắc chắn cũng khó lòng thành tựu ngay trong một đời được; phần nhiều chỉ gieo nhân cho đời sau, khó được lợi ích thật sự! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 12 - Lời tựa sách Tịnh Độ Tập Yếu (1928) Ông X… ở Đông Doanh (Nhật Bản), trích lục những nghĩa lý xiển dương pháp Niệm Phật từ các kinh luận, soạn thành bộ Di Đà Thuyết Lâm, nội dung phân thành mười môn, diễn giảng thông suốt Nhất Hạnh , đáng là một bộ sách trợ giúp cho việc tu Tịnh nghiệp. Cư sĩ Phạm Cổ Nông đích thân giảo chánh, tra cứu, đổi tên thành A Di Đà Phật Thánh Điển nhằm tỏ rõ ý nghĩa tôn sùng; nhưng những phần trích lục hoàn toàn chẳng nêu rõ nguồn gốc, đợi khi nào có thời gian rảnh rỗi, cư sĩ sẽ dựa theo kinh mà phân định tường tận để hết thảy mọi người biết một pháp Niệm Phật cầu sanh Tây Phương chính là đạo để hết thảy thượng thánh hạ phàm cùng tu, ngõ hầu chẳng đến nỗi phạm những lỗi như sanh lòng tự phụ “ta là bậc thượng căn”, chẳng chịu tu trì, hoặc tự hạ thấp “ta là hạ căn chẳng thể tu trì được”! Thợ sắp chữ gần xong, cậy Quang viết lời tựa, bèn ước theo những điều mình biết để giãi bày. Nên biết rằng: Một pháp Niệm Phật chính là pháp môn Tổng Trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Nếu chẳng tin tưởng được, xin hãy chất vấn Phổ Hiền Bồ Tát! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 11 - Lời tựa cho bộ Di Đà Thánh Điển (1931) Còn như niệm Tự Phật lẫn Tha Phật thường được gọi là Thiền Tịnh Song Tu, có người chuyên khán câu “người niệm Phật là ai?” để mong minh tâm kiến tánh, chẳng chú trọng tín nguyện cầu sanh. Tuy tợ hồ Thiền Tịnh Song Tu, nhưng thật ra là “có Thiền, chẳng có Tịnh”. Đã không có tín nguyện, sẽ không có cách nào cậy vào Phật lực để đới nghiệp vãng sanh được! Nếu chưa đạt đến địa vị nghiệp tận tình không, vẫn chẳng thể cậy vào tự lực để liễu sanh thoát tử! Do vậy biết: Thiền Tịnh Song Tu chỉ hạng người có đầy đủ tín nguyện sâu xa mới có thể được lợi ích. Nếu không, đương nhiên chẳng bằng chuyên dốc sức nơi một môn trì danh hiệu Phật! Pháp môn Tịnh Độ thật là pháp môn đặc biệt khế lý khế cơ trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai. Vì thế, vãng thánh tiền hiền ai nấy đều hướng về, ngàn kinh muôn luận đâu đâu cũng chỉ bảo hướng về. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 11 - Lời tựa cho bộ Di Đà Thánh Điển (1931) Nếu có thể chí tâm trì niệm, niệm đến khi “toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm, không niệm mà niệm, niệm mà không niệm, tâm lẫn Phật cùng tỏ rạng, lại cùng mất hẳn” thì diệu lý Thật Tướng sẽ hiện rõ rành rành, y báo, chánh báo cõi Tây Phương triệt để hiện trọn vẹn. Tuy trì danh nhưng đạt Thật Tướng sâu xa, chẳng quán tưởng mà đích thân thấy được Tây Phương! [Pháp trì danh] nhiếp thọ căn cơ phổ biến nhất, được lợi ích sâu xa nhất, lợi lạc nhất cho kẻ độn căn trong đời Mạt Pháp, thỏa thích lớn lao bản hoài xuất thế của Như Lai. Vì thế, từ xưa hàng tri thức phần nhiều đều chuyên chú nơi một môn Trì Danh. Đây là nói đại lược về cách niệm Tha Phật vậy. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 11 - Lời tựa cho bộ Di Đà Thánh Điển (1931) Trong bốn thứ niệm Phật này, chỉ có Thật Tướng Niệm Phật là đế lý sâu xa nhất, nhưng chẳng dễ gì tu được! Do cậy vào Giới - Định - Huệ và sức tham cứu, quán chiếu, soi xét của chính mình, chứ không có Tha Lực nào khác phụ trợ, nếu chẳng phải là hạng túc căn chín muồi thì ngộ còn chưa dễ gì đạt được, huống là thật chứng! Chỉ có Trì Danh Niệm Phật, thực hiện dễ dàng nhất, thành công nhanh nhất! Nếu có thể nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm liên tục ắt sẽ đích thân chứng được Niệm Phật tam-muội ngay trong đời này, lâm chung chắc chắn vãng sanh Thượng Phẩm. Dẫu căn cơ hèn kém, chưa chứng được tam-muội, chỉ dùng lòng tin chân thành trì danh hiệu Phật như con nhớ mẹ, luôn luôn chẳng gián đoạn, đến khi lâm chung cảm ứng đạo giao, nương theo Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Chúng sanh đời Mạt chỉ có pháp này để nhờ cậy. Nếu không, chỉ gieo được cái nhân cho đời sau, khó được lợi ích thật sự! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 11 - Lời tựa cho bộ Di Đà Thánh Điển (1931) Một pháp Niệm Phật chính là tổng trì lời Phật dạy, nhưng có người chuyên niệm Tự Phật, có người chuyên niệm Tha Phật, hoặc niệm Tự Phật lẫn Tha Phật bất đồng! Kẻ chuyên niệm Tự Phật là như tham cứu sâu xa đến cùng tận Thật Tướng trong các kinh để mong ngộ chứng, dùng trí chiếu Bát Nhã để thấu hiểu trọn vẹn đương thể của hết thảy các pháp Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại v.v… toàn là không, đích thân thấy được tánh Chân Như mầu nhiệm vốn sẵn có, hoặc như Thiền Tông khán những câu thoại đầu như “người niệm Phật là ai?” v.v… để mong đích thân thấy được “bản lai diện mục trước khi được cha mẹ sanh ra”. Trong bốn loại Niệm Phật, [cách này] được gọi là Thật Tướng Niệm Phật. Chuyên niệm Tha Phật thì có ba cách niệm: 1) Một là quán tưởng, nghĩa là dựa theo Thập Lục Quán Kinh để quán, hoặc chuyên quán tướng bạch hào , hoặc chỉ quán thân Phật một trượng sáu, hay thân tám thước, hoặc quán Pháp Thân rộng lớn và quán trọn vẹn mười sáu phép Quán. 2) Hai là quán tượng, tức là đối trước hình tượng Phật, tưởng tướng hảo, quang minh của Phật v.v… 3) Ba là trì danh, tức là nhất tâm xưng niệm thánh hiệu A Di Đà Phật. Ba cách niệm Phật này tuy cách thức khác nhau, nhưng đều cần phải có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha thì mới cảm ứng đạo giao cùng đức Phật được, mới có thể chắc chắn trong đời này lìa khỏi cõi Sa Bà này, sanh sang cõi Cực Lạc kia. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 11 - Lời tựa cho bộ Di Đà Thánh Điển (1931) Bộ luận này ý nghĩa sâu rộng, nếu chẳng chú thích chắc có lẽ [người đọc] sẽ gặp tận mặt mà bỏ lỡ, cũng như chưa chắc đã khỏi hiểu lầm lý sự. May mà lão pháp sư Đế Nhàn thuộc tông Thiên Thai chẳng tiếc tinh lực, riêng soạn sớ giải để dù văn hay nghĩa đều được sáng tỏ. Lợi ích ấy há diễn tả được ư? Cư sĩ Chí Tịnh tu Tịnh nghiệp đã lâu, tâm lợi người tha thiết, phát tâm in năm ngàn bộ để tặng cho các vị Tăng - tục tu Tịnh Độ, xin tôi trình bày đại ý của bộ luận, ngõ hầu người đọc ngay từ đầu đã thấy được chỗ chỉ quy [của bộ luận]. Do vậy, chẳng nài thô lậu, trình bày đại lược những điều ẩn chứa, để [người đọc] biết pháp môn Tịnh Độ là pháp môn vừa cạn vừa sâu, vừa là Quyền vừa là Thật. Hết thảy pháp môn, hà sa diệu nghĩa, không pháp nào chẳng từ pháp giới này lưu lộ, không pháp nào chẳng trở về pháp giới này, do pháp này chính là pháp môn Tổng Trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Nếu thấy lời này chẳng thích đáng, xin hãy chất vấn Phổ Hiền Bồ Tát là vị đã khuyên phát mười đại nguyện vương, hướng dẫn về Cực Lạc! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 10 - Lời tựa sách Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận Sớ (1930) Từ khi đức Phật mở ra pháp môn [Tịnh Độ] này, hết thảy Bồ Tát, tổ sư, thiện tri thức thảy đều tuân hành pháp này do pháp này trọn đủ tự lực và tha lực, so với những pháp chuyên cậy vào tự lực thì khó - dễ khác nào một trời, một vực! Pháp sư Phi Tích đời Đường trụ tích tại chùa Thảo Đường núi Tử Các trong rặng Chung Nam, hoằng dương giáo hóa rộng lớn pháp môn Tịnh Độ, đặc biệt soạn ra bộ Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận để hết thảy tứ chúng niệm trọn vẹn tam thế Phật, nhưng chuyên chú nơi Tây Phương A Di Đà Phật. Do nếu chẳng niệm chư Phật vị lai sẽ chẳng thể phát đại Bồ Đề tâm, chiết phục tràng ngạo mạn, trong hết thảy cảnh vẫn còn có tình kiến phàm - thánh, làm sao lìa trọn vẹn bốn tướng, triệt chứng Nhất Chân cho được? Nếu thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật thì tâm sẽ tự chẳng còn có tình kiến phàm - thánh để được nữa, nên mới rốt ráo đoạn trừ phiền não, rốt ráo viên chứng tự tâm. Nếu chẳng niệm trọn vẹn chư Phật trong quá khứ và hiện tại thì có lẽ cái tâm niệm A Di Đà Phật sẽ bị câu nệ, hạn cuộc, chẳng thể viên mãn, trọn khắp. Vì thế, dạy người niệm Phật “dẫu niệm một đức Phật nhưng niệm trọn tam thế chư Phật; tuy niệm trọn hết tam thế chư Phật nhưng ắt phải chuyên dốc sức nơi A Di Đà Phật, ngõ hầu cái tâm niệm Phật theo chiều ngang trọn khắp mười phương, theo chiều dọc tột cùng ba đời!” Đây chính là cái tâm niệm Phật này và tâm của mười phương ba đời chư Phật không lúc nào chẳng khế hợp nhau! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 10 - Lời tựa sách Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận Sớ (1930) Năm Dân Quốc thứ bảy (1918), cư sĩ Từ Úy Như đến thăm Quang; do ông ta lo liệu việc khắc in Tạng kinh, tôi bèn cậy ông ta sưu tập, khắc in bản gốc [của bộ Tịnh Độ Thập Yếu]. Sau đấy, ông ta bèn khắc in hai tác phẩm là Di Đà Yếu Giải và Tây Phương Hiệp Luận. Nay đã có được nguyên bản đầy đủ, cư sĩ Lý Viên Tịnh tính tái bản theo đúng như hình thức sách Tịnh Độ Thập Yếu [đã được in] trước kia: Phàm mỗi một lời bình luận do sư Thành Thời đã viết đều chiếu theo đó sao lục, chỉ bổ sung những chỗ sư Thành Thời khiếm khuyết, hòng chẳng diệt mất sự cực trí của sư Thành Thời, soạn thành bốn quyển. Do những chỗ trích lược khác nhau bao nhiêu đó chỗ, cho nên phải sắp xếp lại thứ tự từng quyển. Trước kia, Tây Trai Thi, Niệm Phật Trực Chỉ thứ tự trước - sau bị đảo lộn, nay sắp xếp lại cho thích đáng; cuối mỗi quyển đều kèm theo những bài văn quan trọng và [những đoạn trích từ] Triệt Ngộ Ngữ Lục. Lại còn đem Vãng Sanh Luận Chú và Liên Hoa Thế Giới Thi gộp thành một quyển để làm phụ bản, tổng cộng là năm quyển, thảy đều phù hợp với lời văn, ý nghĩa và tông chỉ của sách Thập Yếu, hoàn toàn chẳng khác biệt. Giống như những hạt châu nơi cái lưới của Thiên Đế soi bóng lẫn nhau, khiến cho những người đọc biết sâu xa pháp môn Tịnh Độ chính là chỗ quy túc của hết thảy các pháp. Hết thảy các pháp, không pháp nào chẳng lưu lộ từ pháp giới này, chẳng trở về pháp giới này! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 9 - Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thập Yếu (1930) Trước thuật tại Thiên Trúc và Chấn Đán (Trung Hoa) [để tuyên giảng pháp môn Tịnh Độ này] nhiều khó thể kể xiết! Đại sư Ngẫu Ích chọn lấy chín tác phẩm khế hợp thời cơ nhất và bộ Di Đà Yếu Giải do chính mình trước tác, [gộp thành một bộ sách] đặt tên là Tịnh Độ Thập Yếu, muốn cho người học nhờ [xem] những tác phẩm này sẽ hiểu trọn vẹn chỗ trọng yếu trong sự độ sanh của đức Như Lai và nguyên do pháp này thống nhiếp khắp hết thảy các pháp. Đại Sư mất rồi, môn nhân là Thành Thời muốn [tác phẩm này] được lưu truyền trọn khắp pháp giới, nhưng sợ văn từ dài dòng, số lượng quyển quá lớn, chi phí lớn lao, khó thể [lưu truyền] rộng khắp được, bèn tóm lược câu chữ, đối với mỗi tác phẩm chỉ trình bày đại lược những ý chánh quan trọng, thêm vào những điều bình luận, quả thật hết sức lao tâm khổ tứ! Tiếc rằng Sư ỷ mình trí có thể chiếu soi trọn vẹn, đọc đến đâu, trích lược đến đấy, chẳng bỏ công tra duyệt lại, cứ cho khắc in ngay, đến nỗi lời văn nhiều chỗ mù mờ, lại thêm giọng điệu sai lầm, lời lẽ chẳng đạt ý vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 9 - Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thập Yếu (1930) Hết thảy các pháp môn do đức Như Lai đã nói trong suốt cả một đời tuy là Đại, Tiểu, Đốn, Tạm bất đồng, Quyền, Thật, Thiên, Viên sai khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm khiến cho hết thảy chúng sanh đều theo đường về nhà, khôi phục tâm tánh mà thôi! Nhưng những pháp ấy đều cần tự lực tu trì để đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, hoàn toàn không được một sức nào khác nhiếp trì hòng chắc chắn được siêu phàm nhập thánh, thành tựu sở nguyện ngay trong đời này! Chỉ có pháp môn Tịnh Độ cậy vào sức thệ nguyện, nhiếp thọ của Phật và lòng thành tín nguyện niệm Phật của chính mình, bất luận đã chứng ngộ hay không; thậm chí kẻ chưa đoạn mảy may Phiền Hoặc nào vẫn đều có thể cậy vào Phật từ lực liền được vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này. Đã được vãng sanh, nếu là người đã chứng ngộ liền lên thẳng Thượng Phẩm, kẻ chưa đoạn Hoặc vẫn dự vào dòng thánh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 9 - Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thập Yếu (1930) Kinh giảng cặn kẽ nhân quả của mười pháp giới, mỗi mỗi đều là theo nghiệp hiện ra. Chỉ rõ cảnh Ngũ Ấm Ma hòng [người nghe] biết kẻ công hạnh sâu vẫn còn có chuyện bị ma dựa tạo tội đọa địa ngục, huống hồ kẻ sơ tâm ư? Xem kinh thoạt đầu là bảy chỗ gạn tâm, mười phen tỏ rõ cái Thấy, lần lượt giảng đến Ấm, Nhập, Xứ, Giới, Đại, tầng tầng khai thị khiến cho vị căn tánh nhạy bén nhất là A Nan viên ngộ Tạng tánh (tức là cái được nhà Thiền gọi là đích thân thấy được “bản lai diện mục trước khi được cha mẹ sanh ra”), vậy thì đại triệt đại ngộ quả thật chẳng dễ dàng gì! Phần sau kinh [nói về hành giả đã có] sức Thiền Định sâu rồi, đã phá được hai Ấm là Sắc và Thọ, vẫn bị ma mê hoặc, đánh mất chánh kiến, tạo các ác nghiệp, sống vướng phép vua, chết đọa địa ngục. Do vậy biết: Muốn liễu sanh tử chỉ cậy vào Tự Lực thì nguy hiểm, khó khăn chẳng thể nào sánh ví được! Nguyện những người cùng hàng hãy nương theo pháp “nhớ Phật, niệm Phật” của đức Thế Chí và lời dạy mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc của đức Phổ Hiền để cùng với các vị Bồ Tát trong Hoa Tạng Thế Giới Hải nhất trí tiến hành cầu sanh Tây Phương, đấy mới thật là kế sách vẹn toàn vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 8 - Lời tựa cho [ấn bản] Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh được viết theo lối chữ Khải để tặng đại chúng đọc tụng Nếu chúng ta có thể đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha như con nhớ mẹ, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối để niệm, thì hai tầng công phu “xoay cái niệm để niệm nơi tự tánh” của đức Thế Chí và “xoay cái nghe để nghe nơi tự tánh” của đức Quán Âm sẽ hòa lẫn trong một tâm để niệm hồng danh vạn đức của Như Lai. Lâu ngày chầy tháng, cái tâm nghiệp thức chúng sanh sẽ trở thành Như Lai Bí Mật Tạng, đấy gọi là “dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, cho nên nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân”. Người có duyên gặp được, mong chớ coi rẻ. Đấy là đường vào cửa Niết Bàn của vi trần đức Phật, huống gì chúng ta là người đời Mạt Pháp há dám chẳng noi theo? Cuối cùng, [kinh] chỉ bày nghiêm ngặt bốn thứ giới luật để bồi đắp nền tảng ấy, nói cặn kẽ công đức của thần chú [Lăng Nghiêm] ngõ hầu [hành nhân] được nương tựa, bảo vệ. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 8 - Lời tựa cho [ấn bản] Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh được viết theo lối chữ Khải để tặng đại chúng đọc tụng Pháp môn Tịnh Độ Niệm Phật thích hợp trọn khắp căn cơ của hết thảy chúng sanh trong mười phương ba đời; do vậy, được kể sau pháp [Viên Thông] của ngài Di Lặc, trước [pháp Viên Thông của đức] Quán Âm, nhằm ngầm nêu ý nghĩa thích hợp khắp mọi căn cơ! Nếu không, sẽ kể pháp này sau pháp của ngài Hư Không Tạng , trước pháp của ngài Di Lặc. Luận sát sao về những pháp môn thông thường thì phải đoạn sạch Phiền Hoặc mới có thể liễu sanh thoát tử, chỉ có bậc thượng thượng lợi căn nhất mới có thể giải quyết xong ngay trong đời này! Nếu chẳng phải là loại căn tánh ấy thì hoặc hai, ba, bốn, năm đời, hoặc hai, ba, bốn, năm kiếp, hoặc thậm chí từ trần sa kiếp này sang trần sa kiếp khác vẫn luân hồi trong lục đạo, [kẻ như vậy] nhiều lắm! Bởi cậy vào sức Giới - Định - Huệ của chính mình để đoạn sạch Hoặc nghiệp phiền não tham - sân - si cho nên khó khăn. Huống chi đang nhằm thời Mạt Pháp, căn cơ con người hèn kém, thọ mạng ngắn chủn, tri thức hiếm hoi, tà ma, ngoại đạo tung hoành, hễ chánh kiến hơi thiếu liền bị đọa vào lưới ma ư? Chỉ có pháp môn Tịnh Độ đặc biệt “cậy vào thệ nguyện từ bi của đức Di Đà và sức tín nguyện ức niệm của chính mình”, đến lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương [là thỏa đáng]! Nếu là hạng Thượng Thượng Căn sẽ mau chứng Vô Sanh, dẫu là kẻ Hạ Hạ Căn vẫn được dự vào dòng thánh! Lợi ích ấy làm sao diễn tả được? Nghĩa này là nghĩa quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm; đừng vì Quang là kẻ kém cỏi mà cho là sai lầm, bịa đặt! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 8 - Lời tựa cho [ấn bản] Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh được viết theo lối chữ Khải để tặng đại chúng đọc tụng Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh chính là nhân bí mật để viên mãn Bồ Đề của tam thế chư Phật, là diệu hạnh để tiến về giác đạo của hết thảy Bồ Tát, cho nên gọi là Thủ Lăng Nghiêm (Śūrangama). Tiếng Phạn Thủ Lăng Nghiêm, tiếng Hán là Nhất Thiết Sự Cứu Cánh Kiên Cố (hết thảy sự rốt ráo cứng chắc). Nhất Thiết Sự là gì? Chính là hai pháp tâm và cảnh; nói rộng ra là Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại. Nhất Thiết Sự (hết thảy mọi sự) này đều là toàn thể đại dụng của Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh, vốn tự cứng chắc, trọn chẳng có các tướng sanh, diệt, sạch, nhơ, tăng, giảm, nhưng chúng sanh mê chân đuổi theo vọng, trái giác hợp trần, dù tâm hay cảnh đều thành huyễn vọng, đều là sanh diệt, đều chẳng cứng chắc! Vì thế, do ngài A Nan thưa hỏi phương tiện ban đầu để mười phương Như Lai thành tựu Bồ Đề, Xa Ma Tha, Tam Ma , Thiền Na mầu nhiệm, Như Lai liền gạn hỏi cái tâm, chỉ rõ cái Thấy, lần lượt [giảng về] Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại để hiển thị “mỗi mỗi đều là Như Lai Tạng, thuận theo tâm chúng sanh, thuận theo nghiệp mà tỏ lộ” khiến cho họ khai ngộ. Kế đó, hai mươi lăm vị thánh nhân, mỗi vị chứng [một pháp] Viên Thông [riêng biệt] trong hai mươi lăm pháp, [mỗi vị tường thuật pháp Viên Thông do chính mình đã chứng] nhằm chứng thực lời giảng ấy. Kinh này nhằm thích ứng với [năng lực] đa văn của A Nan và căn cơ “tánh nghe nhạy bén nhất” của cõi Sa Bà. Do vậy, đức Văn Thù chọn lựa [pháp Viên Thông] bèn chỉ chọn [pháp Viên Thông của] Quán Âm. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 8 - Lời tựa cho [ấn bản] Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh được viết theo lối chữ Khải để tặng đại chúng đọc tụng Trộm nghĩ kinh tạng Pháp Hoa sâu thẳm u viễn, không ai có thể thấu đạt được, chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu triệt rốt ráo, Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo, làm sao có thể nêu tỏ đến mức tột bậc cho được? Đành lược thuật Bổn - Tích của đức Quán Âm và lai lịch lưu thông, chú thích kinh này cho xong trách nhiệm. Nguyện khắp các đồng nhân thường niệm thánh hiệu Quán Âm. Nếu đạt đến mức “niệm cực tình vong”, tâm lẫn cảnh cùng vắng lặng thì hằng sa công đức, vô lượng diệu nghĩa sẽ tự hiển hiện trọn vẹn trong một niệm. Do vậy, chẳng cần phải trình bày rườm rà chi nữa! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 7 - Lời tựa cho sách Phổ Môn Phẩm Giảng Nghĩa (1929) Cho đến khi [Phật] pháp được truyền sang xứ này, đến đời Tấn, pháp sư La Thập riêng dịch kinh Pháp Hoa, [mọi người] mới biết đức Quán Âm dù Bổn địa hay Tích môn đều khó nghĩ lường! Trong hội Lăng Nghiêm, đức Quán Âm tự thuật pháp Viên Thông; trong hội Hoa Nghiêm, đức Quán Âm chỉ dạy Thiện Tài, đều phù hợp khít khao với ý chỉ Pháp Hoa. Do vậy, biết: Đại Sĩ vô tâm, lấy tâm chúng sanh làm tâm [của chính mình], cho nên hễ cảm liền ứng, trọn chẳng sai chạy! Vào cuối đời Tấn, Thư Cừ Mông Tốn nhà Bắc Lương bị bệnh, ngài Đàm Vô Sấm dạy tụng phẩm Phổ Môn, [Mông Tốn] liền được lành bệnh. Do vậy, phẩm này được lưu truyền riêng. Đời Tùy - Trần, đại sư Trí Giả chú giải kinh Pháp Hoa, đặc biệt giải thích cặn kẽ phẩm này. Đủ thấy tâm của Phật, Bồ Tát, tổ sư chỉ mong cho hết thảy chúng sanh lìa hết thảy khổ, được hưởng hết thảy vui. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 7 - Lời tựa cho sách Phổ Môn Phẩm Giảng Nghĩa (1929) Quán Thế Âm Bồ Tát trong vô lượng kiếp trước đã sớm thành Chánh Giác, hiệu là Chánh Pháp Minh , nhưng do thệ nguyện rộng sâu, từ bi rộng lớn, chẳng lìa cõi Tịch Quang, hiện hình trong chín giới, tùy loại hiện thân, tầm thanh cứu khổ. Nên dùng thân nào để độ được liền hiện thân ấy để thuyết pháp, nguyện cho hết thảy chúng sanh trong hết thảy thế giới đều được lìa khỏi nỗi khổ huyễn vọng trong hiện tại, hưởng pháp lạc chân thường, nhưng Ngài lại thương xót thế giới Sa Bà nhất. Do vậy, trong hội Pháp Hoa, Thích Ca Thế Tôn muốn cho chúng sanh cõi Sa Bà luôn được che chở, bèn đặc biệt nhân lời hỏi của Vô Tận Ý Bồ Tát mà trình bày rõ ràng thệ nguyện từ bi, công đức, oai thần của đức Quán Âm để hết thảy chúng sanh trong chín giới đều được nương tựa. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 7 - Lời tựa cho sách Phổ Môn Phẩm Giảng Nghĩa (1929) Hành giả Diệu Lãng xưa đã có linh căn, dốc lòng tu Tịnh nghiệp, thường đọc kinh [Phạm Võng] này, ngưỡng mộ khôn xiết, phát nguyện lưu thông để lợi khắp hết thảy. Lại thường đối với những ý nghĩa trì giới trọng yếu đã được khai thị trong các kinh Tiểu Thừa, Đại Thừa và các truyện ký mà chính mình đã đọc đều trích lục, ghi vào đằng sau [chánh kinh] để làm pháp răn dạy cho mình lẫn người cùng tu trì, ngõ hầu người đọc biết được lợi ích do trì giới: Gần là ba nghiệp thanh tịnh, Tam Học (Giới - Định - Huệ) viên minh, xa là sạch hết ba Hoặc, ba đức trọn bày. Họa hoạn do phạm giới thì gần là ba nghiệp ô trược, vĩnh viễn đọa trong tam đồ; xa là ba chướng thường hiện diện, chẳng thoát được tam giới! Phật do chính ta làm, địa ngục do chính ta tạo, như đến trước gương báu, tốt - xấu hiện rành rành, ai lại chịu tự chuốc lấy mối lo, bỏ lợi ích để nhận lấy họa hoạn cơ chứ? - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 6 - Lời tựa cho sách Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Tập Chứng (1928) Đức Như Lai thương xót hết thảy chúng sanh mê mất minh châu trong chéo áo, uổng công rong ruổi hướng ra ngoài tìm tòi. Do vậy, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm đến nỗi luân hồi lục đạo trọn chẳng có thuở ra! Dù có người đoạn được những Hoặc trong tam giới, thoát lìa sanh tử, nhưng vẫn còn cách địa vị Phật quá xa! Bởi thế, khi mới thành Chánh Giác, Phật liền lập tức vì hết thảy thánh - phàm giảng đại pháp này, trước hết làm cho họ liễu ngộ tự tâm vốn là Phật tâm, nên mới nói: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh, các ông là Phật sẽ thành, ta là Phật đã thành”. Tin được như thế, chắc chắn sẽ chẳng đến nỗi đề cao thánh cảnh nhưng tự cam phận phàm ngu, trên là cô phụ sự giáo hóa của Phật, dưới là phụ bạc tánh linh của chính mình! Cho nên mới nói: “Thường tin tưởng như thế thì giới phẩm đã đầy đủ!” Rồi đối với những lời ăn tiếng nói, hành vi thường ngày, khởi tâm từ bi, tâm hiếu thuận, dẹp lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ cái ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng làm những điều thiện, sao cho luôn đúng chừng mực, không phải hổ thẹn chút nào, nơi ba nghiệp vĩnh viễn trọn chẳng có tỳ vết thì hai thứ đại thể đại dụng “tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha” đều đầy đủ. Giữ tấm lòng thanh khiết xông tận trời thẳm, khác nào hư không mênh mông chứa khắp muôn hình tượng trọn chẳng chướng ngại gì! Xử sự chánh đại quang minh như mặt trời chói lọi chiếu khắp muôn phương, nhưng trọn chẳng hề chọn lựa. Do vậy, Tứ Nhiếp cùng được thực hiện, Tứ Hoằng phổ độ, đáng gọi là “tiên dĩ dục câu khiên, hậu linh nhập Phật trí” (trước hết dùng dục để lôi kéo, sau làm cho nhập Phật trí), hư không dẫu có tận, nguyện tôi vẫn vô cùng. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 6 - Lời tựa cho sách Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Tập Chứng (1928) [Hòa Thượng Chân Đạt] sai Quang viết lời tựa phơi bày trọn vẹn sự lợi ích của kinh, hòng phát khởi tấm lòng hiếu thảo của những kẻ làm con trong thế gian, mong họ sẽ tùy thời, tùy việc trọn hết đạo hiếu. Nghĩ đến ân sâu cù lao , ắt sẽ [thực hiện] cho đến khi cha mẹ ta được rốt ráo an ổn nơi bảo sở mới thôi. Do vậy, dùng tâm chí thành, niệm thánh hiệu Phật, kèm thêm kính cẩn giữ vẹn luân thường, trọn hết thiên chức của chính mình, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, dùng công đức này để giúp cho cha mẹ ta, mong cho cha mẹ còn sống sẽ được nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng, phước thọ tăng cao, trí huệ khơi mở, đã khuất bóng thì thần hồn siêu thăng cõi tịnh, nghiệp trả lại trần lao, chứng Vô Sanh Nhẫn, ở vào địa vị Bất Thoái, ngõ hầu hơi trọn được tấm lòng riêng của quạ , chẳng làm đấng sanh thành phải thẹn. Lại còn phải biết: Hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai, hãy nên dùng tâm Đại Bồ Đề tùy thuận cơ nghi vì họ tuyên nói và cứu giúp hòng khế hợp Phật tâm, phù hợp cái nguyện của chính mình, quạt gió Từ dập tắt ác nghiệp, sẽ thấy lễ nghĩa, nhân nhượng được hưng khởi, can qua dứt bặt mãi mãi, phong tục tốt đẹp, thiên hạ hòa bình! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 5 - Lời tựa lưu thông kinh Địa Tạng in theo lối thạch bản (1928) Toàn bộ kinh văn [kinh Địa Tạng Bổn Nguyện] dạy cặn kẽ cả sự lẫn lý, văn từ rõ ràng, thoáng đạt, nêu tỏ trọn vẹn những nghĩa lý “tâm này làm Phật, tâm này là Phật; tâm này làm chúng sanh, tâm này là chúng sanh” và “tâm có thể tạo nghiệp thì tâm có thể chuyển nghiệp, tâm chẳng chuyển được nghiệp thì nghiệp sẽ trói buộc tâm” v.v… Hai câu chuyện đức Địa Tạng trong kiếp xưa cứu mẹ càng nêu thật sát sao, rõ ràng ý nghĩa này; thật có thể gọi là “người dẫn đường nơi lối hiểm, đuốc huệ nơi đường tối, kho báu cho kẻ nghèo thiếu, gạo thóc cho năm đói kém” khiến cho hết thảy chúng sanh mê muội mau được giác ngộ, hết thảy những đứa con hiếu thuận có được sư thừa. Lợi ích của kinh không thể nào tuyên nói được! Tây Thiên, Đông Độ, những người đọc kinh này bèn khởi chí chẳng thể nào đếm xuể! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 5 - Lời tựa lưu thông kinh Địa Tạng in theo lối thạch bản (1928) Tâm chúng sanh và tâm Phật không hai. Kẻ chẳng thể làm Phật, thường làm chúng sanh là vì chính họ chẳng có huệ lực, chẳng thể giác ngộ, lại không có thiện tri thức chỉ dạy. Do vậy, diệu tâm sẵn có Phật Tánh trở thành căn bản để khởi Hoặc tạo nghiệp đến nỗi luân hồi cả kiếp dài lâu, trọn chẳng có thuở thoát ra, chẳng đáng buồn ư? Vì thế, lúc mới thành Chánh Giác, đức Thế Tôn ta bèn lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ, vì muốn cho hết thảy chúng sanh đều cùng mong báo ơn cha mẹ, nên đặc biệt dạy rõ Địa Tạng Bồ Tát trong những kiếp xưa do cứu mẹ đã rộng phát thệ nguyện Bồ Đề để làm thuyền bè cho chúng sanh trong tương lai được thoát biển khổ. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 5 - Lời tựa lưu thông kinh Địa Tạng in theo lối thạch bản (1928) Năm Dân Quốc 15 (1926), [con trai thứ của cư sĩ Hạ Huệ Hoa là Thúc Quỳ] tuổi tròn hai mươi bảy, bị bệnh rất nặng, khi sắp chết, hỏi cha rằng: “Nên giải nói [ý nghĩa] bất sanh bất diệt của Tâm Kinh như thế nào?” Cư sĩ dạy: “Đấy chính là nói về bản thể của cái tâm bọn ta, giống như thái hư không, không tướng, không hình, chẳng phải không, chẳng phải có, tại phàm chẳng giảm, nơi thánh chẳng tăng, ở trong sanh tử chẳng nhơ, chứng Niết Bàn chẳng sạch, tướng sanh còn chẳng có, làm sao có tướng diệt cho được? Ngộ được lý ấy, mới xứng danh là Phật Tử. Tuy nhiên, nói thì dễ dàng làm sao! Con hãy nên nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương đợi đến khi hoa nở thấy Phật chứng Vô Sanh Nhẫn thì mới phần chứng được tâm thể bất sanh bất diệt này! Từ đấy tấn tu mãi cho đến khi ba Hoặc đều hết sạch, hai thứ tử (biến dịch và phần đoạn) đều vĩnh viễn mất, viên mãn Bồ Đề, trở về chỗ không có gì để đạt được nữa thì mới là rốt ráo chứng được tâm thể bất sanh bất diệt ấy! Chớ nên nghĩ ‘nghe tên là đích thân chứng’, chẳng cầu vãng sanh, để đến nỗi trầm luân cả kiếp dài lâu, không cách nào thoát khỏi được!” Không lâu sau, người con liền mất, lúc sống đối với Phật pháp anh ta hoàn toàn chưa từng bận tâm, lâm chung lại hỏi đến chuyện này, chẳng phải là có túc căn hay sao? Được cư sĩ khai thị, nếu không vãng sanh cũng có thể trở thành duyên nhập đạo cho đời sau, so với những kẻ cho đến hết đời chẳng được nghe đến, khác biệt hệt như một trời một vực! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 4 - Lời tựa tái bản lưu thông sách Tâm Kinh Thiêm Túc (1930) Tâm Kinh dạy rõ về Bồ Đề, Niết Bàn được chứng bởi tam thế chư Phật và hết thảy chúng sanh sẵn có Chân Như Phật Tánh. [Kinh này] là đạo trọng yếu để độ sanh của mười phương Như Lai, là khuôn mẫu tốt lành cho cả hằng trăm hành nhân thành Phật. Văn giản dị, nghĩa phong phú, từ ngữ ngắn gọn nhưng lý uyên thâm, khiến cho khắp mọi thượng trung hạ căn hễ khởi công [tu tập] đều cùng được vào thẳng địa vị của Như Lai, trong các kinh thật là bậc nhất! Tuy chỉ gồm hai trăm sáu mươi chữ, nhưng nghĩa lý sâu thẳm của sáu trăm quyển kinh Đại Bát Nhã đều được bao trùm sạch sành sanh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 4 - Lời tựa tái bản lưu thông sách Tâm Kinh Thiêm Túc (1930) Một đệ tử là Dương Huệ Đạo tính muốn in gộp chung phẩm Tịnh Hạnh và phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện để lưu thông, Quang nói: “Muốn cho kẻ sơ cơ lắng lòng niệm Phật, hãy nên dùng Tịnh Độ Ngũ Kinh để dẫn đường, chẳng nên chỉ chọn một mình phẩm Hạnh Nguyện trong Ngũ Kinh, hãy nên làm sao cho họ được đọc trọn khắp năm kinh, lại còn dùng phẩm Tịnh Hạnh để răn nhắc trong hết thảy thời, hết thảy chỗ thì họ sẽ tự hớn hở nơi đạo vậy!” Than ôi! Đời bây giờ là đời gì vậy? [Chính là] lúc vứt bỏ cương thường luân lý, chuyên đề cao mưu mẹo dối trá, tàn sát lẫn nhau. Nếu chẳng lấy tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương để hướng dẫn thì sợ rằng đời sau làm người đối với những tên gọi “cương thường, luân lý” do thánh nhân đời trước đã lập còn chẳng thể được nghe! Vì thế, phàm là người có đủ chánh tri kiến, chánh tín tâm đều lấy sự tu trì tịnh nghiệp làm chí hướng, sự nghiệp. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 3 - Lời tựa trình bày duyên khởi của việc in kèm phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm vào sau Tịnh Độ Ngũ Kinh (1934) Do vậy, biết rằng phẩm kinh [Tịnh Hạnh] này giữ một vai trò quan trọng rất lớn, nó chẳng những là cơ sở đầu tiên để nhập [cảnh giới] Phật, mà thật sự còn đáng gọi là cội gốc lớn lao để thành Phật! Chúng sanh đời Mạt căn cơ kém mỏng, nếu có thể tâm tâm niệm niệm thường tụng kinh văn này, thường phát những nguyện này thì tam nghiệp sẽ mau được thanh tịnh, niệm niệm trên khế hợp tâm Phật, lâm chung lên thẳng Thượng Phẩm, công đức [của phẩm này] cùng [công đức thọ trì] phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện soi rọi lẫn nhau, chẳng hề kém sút. Vì thế, pháp sư Tỉnh Thường đầu đời Tống hâm mộ phong thái của Lô Sơn Viễn Công (tổ Huệ Viễn), đề xướng pháp môn Tịnh Độ, trích máu chép phẩm này. Lại dùng chữ Tịnh Hạnh để đặt tên cho liên xã. Liên tông được chấn hưng, nguyên do là vì dốc sức sâu xa nơi lời lẽ, hành vi thường ngày đều hợp với giác đạo vô thượng của Như Lai vậy! - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 3 - Lời tựa trình bày duyên khởi của việc in kèm phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm vào sau Tịnh Độ Ngũ Kinh (1934) Bộ kinh Hoa Nghiêm mầu nhiệm sự lý viên dung, Lý là do Sự mà hiển, Sự là do Lý mà thành, Lý lẫn Sự đều đạt đến tột cùng, viên chứng Tỳ Lô Pháp Thân. Vì thế, đức Như Lai khi mới thành Chánh Giác bèn cùng các Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác nói ra các pháp nhân quả của những pháp môn do đức Như Lai tự chứng. Nhân quả chính là Sự, pháp do đức Như Lai tự chứng chính là Nhất Chân Pháp Giới, là Chân Như Phật Tánh tịch chiếu viên dung, bất sanh, bất diệt, chẳng phải có, chẳng phải không. Phật Tánh ấy nơi phàm chẳng giảm, tại thánh chẳng tăng. Đức Phật do đã chứng rốt ráo nên thường hưởng pháp lạc Thường - Lạc - Ngã - Tịnh; chúng sanh do triệt để mê nên luôn chịu nỗi khổ sanh tử luân hồi hư vọng. Ví như tấm gương báu tròn lớn bị bụi đóng cả kiếp, dẫu có ánh sáng chiếu trời soi đất vẫn chẳng có cách nào tỏ lộ để thụ dụng được! Vì thế, phải nhờ đến các vị Bồ Tát hỏi đáp với nhau để nói ra những pháp môn Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác. Lại dùng mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực Lạc hòng viên mãn Phật Quả. Đấy là Như Lai đem nhân quả do Ngài tự chứng dạy cho khắp hết thảy chúng sanh, khiến cho ai nấy đều đích thân chứng được khuôn phép lớn lao. Những người thuộc Tín vị (tức những người thuộc địa vị Thập Tín) thì dùng phẩm Tịnh Hạnh làm Nhân Địa Tâm (cái tâm trong lúc tu nhân) để trên là hợp với hoằng thệ đại nguyện về Quả Giác. Dù có vượt lên những bậc cao sâu hơn như Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, nhưng trong mỗi địa vị vẫn phải dùng một trăm bốn mươi mốt nguyện này để làm căn cứ tấn tu. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 3 - Lời tựa trình bày duyên khởi của việc in kèm phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm vào sau Tịnh Độ Ngũ Kinh (1934) A Di Đà Kinh thâu nhiếp căn cơ phổ biến nhất. Vì thế, các tông Thiền, Giáo, Luật đều cùng vâng dùng làm kinh nhật tụng. Các kinh Đại Thừa nói kèm về Tịnh Độ nhiều không đếm xuể, nhưng chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm quả thật là khai thị mầu nhiệm nhất về pháp Niệm Phật. Nếu chúng sanh có thể nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối mà niệm, há có ai chẳng thể trong hiện tại hay tương lai nhất định thấy Phật, gần là chứng Viên Thông, xa là thành Phật đạo ư? Vì thế đem chương này xếp vào sau ba kinh; nối theo sau Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm để thành một đại duyên khởi cho pháp môn Tịnh Độ khiến cho những người đọc sẽ biết pháp này tỏ bày thông suốt rộng lớn bản hoài của đức Phật, so với các pháp cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân hòng liễu sanh tử thì sự khó - dễ khác xa một trời, một vực! Do vậy, chín giới cùng hướng về, mười phương chung khen ngợi, ngàn kinh đều xiển dương, vạn luận đều tuyên thuyết. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 2 - Lời tựa tái bản Tịnh Độ Ngũ Kinh (1933) Tại nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô [Độc], nói diệu quả của y báo và chánh báo cõi Tịnh Độ để [thính chúng] sanh lòng tin, khuyên những người nghe hãy nên phát nguyện cầu được vãng sanh. Lại dạy các hành giả lập hạnh chấp trì danh hiệu. Ba điều Tín - Nguyện - Hạnh là cương tông của pháp môn Tịnh Độ. Đầy đủ ba pháp này thì hoặc là suốt đời chấp trì đã đắc nhất tâm, hoặc khi lâm chung mới được nghe, chỉ xưng danh mười niệm, đều được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Đấy là A Di Đà Kinh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 2 - Lời tựa tái bản Tịnh Độ Ngũ Kinh (1933) Trong vương cung nước Ma Kiệt Đề, nói ra ba phước Tịnh nghiệp, mười sáu phép quán mầu nhiệm để hết thảy chúng sanh đều biết nghĩa lý “tâm này làm Phật, tâm này là Phật, biển Chánh Biến Tri của chư Phật đều từ tâm tưởng sanh; tâm này là chúng sanh, tâm này làm chúng sanh, biển nghiệp phiền não của chúng sanh từ tâm tưởng sanh” đã được nêu rõ ràng. Nếu có thể hiểu sâu xa nghĩa này, ai chịu bị luân hồi oan uổng? Cuối kinh nói rõ cái nhân của chín phẩm vãng sanh ngõ hầu ai nấy đều tu Thượng Phẩm. Đấy là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 2 - Lời tựa tái bản Tịnh Độ Ngũ Kinh (1933) Cho đến hội Phương Đẳng , đức Phật đặc biệt chuyên nói ba kinh Tịnh Độ để hết thảy dù phàm hay thánh đều cùng chăm chú tu trì ngõ hầu được thoát khỏi cõi Ngũ Trược đây, vượt lên cõi sen chín phẩm kia ngay trong đời này. Tại núi Linh Thứu thuộc nước Ma Kiệt Đề, đức Phật nói ra nhân địa lúc ban đầu của A Di Đà Phật: Bỏ nước xuất gia, phát ra bốn mươi tám nguyện. Lại trải kiếp dài lâu, tu hành theo đúng lời nguyện, cho đến khi phước huệ viên mãn, được thành Phật đạo, cảm được thế giới trang nghiêm mầu nhiệm chẳng thể diễn tả được, mười phương chư Phật đều cùng tán thán. Mười phương Bồ Tát và hàng Nhị Thừa hồi Tiểu hướng Đại lẫn phàm phu trọn đủ Hoặc nghiệp đều được vãng sanh, đều được bình đẳng nhiếp thọ. Đấy là kinh Vô Lượng Thọ. - AQVS Tục Biên, quyển Hạ - II - Tự - thư 2 - Lời tựa tái bản Tịnh Độ Ngũ Kinh (1933)